Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.52 KB, 25 trang )

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và lợi ích của cho vay tiêu dùng
Ngân hàng là một trong các tổ chức kinh tế quan trọng nhất của nền kinh tế, có
nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, huy động vốn trong nền kinh tế và
đưa vốn đó đến những nơi cần vốn thông qua hoạt động cho vay,giúp các hộ gia
đình,doanh nghiệp có thể quay vòng được nguồn để thực hiện hoạt động kinh doanh và
mở rộng hoạt động kinh doanh.Ngoài ra nó còn giải quyết được vấn đề tiền nhàn rỗi
tập trung nhiều trong khu dân cư.
Cho vay là một hoạt động truyền thống và là chức năng kinh tế hàng đầu của Ngân
hàng, giúp Ngân hàng chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm:
Theo QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng, cho vay được hiểu như sau: Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và trong thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn
trả cả gốc và lãi.
Hoạt động cho vay tiêu dùng được hiểu như sau: Cho vay tiêu dùng là các
khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng bao gồm cá nhân
và hộ gia đình.Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải
nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ... Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu
giáo dục, y tế và du lịch... cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.
Hai là: nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh
tế.
Ba là: nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co dãn với lãi suất mà
thông thường người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ
phải chịu.
Bốn là: mức thu nhập và trình độ học vấn là hai biến số có quan hệ rất mật thiết
tới nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng.
Năm là: chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao.
Sáu là: nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào quá


trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của những người này.
Bảy là: tư cách của khách hàng là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng,
quyết định sự hoàn trả của khoản vay.
1.1.2. Lợi ích của hoạt động cho vay tiêu dùng
Một hình thức cho vay muốn tồn tại và phát triển trong hoạt động của ngân hàng
thì bản thân nó phải đem lại những lợi ích thiết thực cho những người đã tạo ra và sử
dụng nó. Hình thức cho vay tiêu dùng đã xuất hiện từ lâu và cho đến nay hoạt động của
nó vẫn không ngừng được các ngân hàng quan tâm phát triển, khách hàng sử dụng,
chính phủ các nước đồng tình ủng hộ.
Đối với ngân hàng, ngoài hai nhược điểm chính là rủi ro và chi phí cao, cho vay
tiêu dùng có những lợi ích quan trọng như:
Thứ nhất, cho vay tiêu dùng giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng với
các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, thu hút được đối tượng khách hàng mới, từ
đó mà mở rộng quan hệ với khách hàng. Bằng cách nâng cao và mở rộng mạng lưới, đa
dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay tiêu dùng, số lượng khách
hàng đến với ngân hàng sẽ ngày càng nhiều hơn và hình ảnh của ngân hàng sẽ càng đẹp
hơn trong con mắt khách hàng. Trong ý nghĩ của công chúng, ngân hàng không chỉ là tổ
chức chỉ biết quan tâm đến các công ty và doanh nghiệp mà ngân hàng còn rất quan tâm
tới những nhu cầu nhỏ bé, cần thiết của người tiêu dùng, đáp ứng nguyện vọng cải thiện
đời sống của người tiêu dùng. Từ đó mà uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao
hơn.
Thứ hai, cho vay tiêu dùng cũng là một công cụ marketing rất hiệu quả, nhiều
người sẽ biết tới ngân hàng hơn. Từ đó mà ngân hàng cũng sẽ huy động được nhiều
nguồn tiền gửi của dân cư.
Thứ ba, cho vay tiêu dùng tạo điều kiện mở rộng và đa dạng hoá kinh doanh từ đó
mà nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Đối với người tiêu dùng, nhờ cho vay tiêu dùng họ được hưởng các tiện ích trước
khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp
khi các nhân có các chi tiêu có tính cấp bách, nhu như cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế.
Tuy vậy, nếu lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng thì cũng rất tai hại vì nó có thể làm cho

người đi vay chi tiêu vượt quá mức cho phép, làm giảm khả năng tiết kiệm hoặc chi tiêu
trong tương lai, còn rất nghiêm trọng hơn nếu mất khả năng chi trả thì người này có thể
gặp rất nhiều phiền toái trong cuộc sống.
Cuối cùng, đối với nền kinh tế, cho vay tiêu dùng góp phần khơi thông luồng
chuyển dịch hàng hoá. Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nếu như không có tiêu
dùng thì tất yếu sẽ bị tắc nghẽn, hàng hoá không tiêu thụ được dẫn tới doanh nghiệp bị
ứ đọng vốn và đương nhiên quá trình sản xuất không thể tiếp tục. Vai trò của ngân hàng
lúc này trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay vốn đã
tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước khi họ tích luỹ đủ số tiền cần thiết. Khách hàng
có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá, sau
đó mới có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Khi đã tiêu thụ được hàng hoá, doanh
nghiệp sẽ mở rộng sản xuất và sẽ tìm tới ngân hàng để tiếp tục vay vốn. Như vậy, ngân
hàng cho vay tiêu dùng sẽ có lợi cho cả ba bên: người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân
hàng hay chính là có lợi cho cả nền kinh tế. Tóm lại, cho vay tiêu dùng được dùng để
tài trợ cho chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc
kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song, nếu các khoản cho vay tiêu
dùng không được dùng như vậy thì chẳng những không kích được cầu mà nhiều khi còn
làm giảm khả năng tiết kiệm trong nước.
1.2. Các hình thức cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số
tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay tiêu dùng dựa vào các căn cứ sau đây:
1.2.1. Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay tiêu dùng được chia làm hai loại:
a. Cho vay tiêu dùng cư trú
Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm,
xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
b. Cho vay tiêu dùng phi cư trú
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các
chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch...
1.2.2.Căn cứ vào phương thức hoàn trả

Cho vay tiêu dùng được chia làm ba loại:
1.2.2.1. Cho vay tiêu dùng trả góp
Cho vay tiêu dùng trả góp là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả
nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong
thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị
lớn hoặc thu nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một
lần số nợ vay.
Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề
cơ bản, có tính nguyên tắc sau:
- Loại tài sản được tài trợ: Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản
hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Khi
lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường chú ý đến điều kiện này, nên thường chỉ
muốn tài trợ nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị
lớn. Vì rằng với những loại tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ được hưởng những tiện
ích từ chúng trong một thời gian dài.
- Số tiền phải trả trước: Thông thường, ngân hàng yêu cầu người đi vay phải
thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm – số tiền này được gọi là số tiền
trả trước – phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một
mặt, làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu cuả tài sản, mặt khác có tác
dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình là chủ sở
hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng
trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không phát mãi tài sản để thi hồi nợ. Hầu
hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị, tức là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị
hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng giúp ngân
hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả trước nhiều hay ít thường tuỳ thuộc vào các yếu tố sau:
(i) Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước
nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả trước ít.
(ii) Thị trường tiêu thụ tài sản khi đã sử dụng: tài sản khi đã sử dụng nếu vẫn có
thể được tiếp tục mua, bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp, ngược lại nếu
tài sản đã qua sử dụng mà rất khó tìm được thị trường tiêu thụ thì số tiền trả trước có xu

hướng cao hơn.
(iii) Môi trường kinh tế.
(iv) Năng lực tài chính của người đi vay.
- Chi phí tài trợ: Là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử
dụng vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi
phí tài trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng
thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho ngân hàng.
- Điều kiện thanh toán: Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán
nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
(i) Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập, trong
mối quan hệ hài hòa với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
(ii) Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi.
(iii) Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ
thường theo tháng. Vì lẽ, thông thường, nguồn trả nợ chính của người vay tiêu dùng là
lương được nhận hàng tháng;
(iv) Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời hạn
hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản tài trợ bị
giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của người đi vay
cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi định kỳ có thể được tính
bằng một số các phương pháp sau:
- Phương pháp gộp: Đây là phương pháp được áp dụng trong cho vay trả góp, do
tính chất đơn giản và dễ hiểu của nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính
bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc
rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi định kỳ.
Công thức tính toán như sau:
T = (V + L) / n
Trong đó: T là số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ hạn
V là vốn gốc
L là chi phí tài trợ bao gồm lãi vay phải thanh toán và các chi phí khác

có liên quan
n là số kỳ hạn
Theo phương pháp gộp, lãi được tính trên cơ sở vốn gốc ban đầu cho toàn bộ thời
hạn vay. Trong khi đó, vào mỗi định kỳ, người đi vay phải thanh toán một phần vốn gốc
cho nên vốn gốc ban đầu được giảm dần trong thời hạn vay. Với cách tính như vậy, lãi
suất được dùng để tính lãi không phải là lãi suất thực sự được áp dụng đối với người đi
vay. Để bảo vệ quyền lợi của người vay, khi tính toàn theo phương pháp này, pháp luật
các nước thường yêu cầu ngân hàng phải quy đổi từ lãi suất tính toán sang lãi suất hiệu
dụng và niêm yết để người vay dễ dàng cân nhắc chi phí vay mượn mà mình sẽ phải trả
cho ngân hàng, từ đó có quyết định lựa chọn hợp lý.
Công thức để quy đổi ra lãi suất hiệu dụng như sau:
i = 2mL/V(n+1)
Trong đó: i là lãi suất hiệu dụng
m là số kỳ hạn thanh toán trong một năm
Tâm lý của người đi vay trả góp thường rất thích được tài trợ với thời hạn dài để
giảm gánh nặng về số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn. Thế nhưng công thức trên cho thấy
khi n càng lớn thì lãi suất hiệu dụng càng có giá trị cao hơn. Có nghĩa là, người đi vay
phải trả cho ngân hàng lãi suất cao hơn nếu họ muốn được tài trợ với thời hạn dài hơn.
- Phương pháp lãi đơn:
Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng định kỳ được tính đều
nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả
mỗi định kỳ được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu ngân hàng.
- Phương pháp giá hiện hành:
Theo phương pháp này, số tiền phải trả hàng kỳ trong tương lai đều được quy về
giá trị hiện tại.
Thông thường, người đi vay được quyền thanh toán tiền vay trước hạn mà không
bị phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn và phương pháp giá hiện
hành thì vấn đề rất đơn giản, người đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc còn thiếu và
lãi vay của kỳ hạn hiện tại (nếu có) cho ngân hàng. Tuy nhiên, nếu tiền trả góp được
tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì theo phương pháp gộp,

lãi được tính dựa trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được khách hàng sử dụng cho đến
lúc kết thúc hợp đồng, cho nên nếu khách hàng trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế
sẽ khác với thời hạn nợ giả định ban đầu và như vậy số tiền lãi phải trả cũng có sự thay
đổi. Trong trường hợp này, ngân hàng thường áp dụng các phương pháp giống như các
phương pháp phân bổ lãi cho vay nói trên để tính ra số lãi thực sự phải thu, dựa trên
thời hạn nợ thực tế.
1.2.2.2. Cho vay tín dụng phi trả góp
Theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ
một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp
cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
1.2.2.3. Cho vay tín dụng tuần hoàn
Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng
thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo
phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi
tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện
việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này số
dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng đã
thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo phương pháp
này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ cuối mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh
toán.
- Lãi được tính dựa trên cơ sở dư nợ bình quân.
1.2.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ:
Cho vay tiêu dùng gồm:
1.2.3.1.Cho vay tiêu dùng gián tiếp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho
người tiêu dùng. Hình thức có những ưu nhược điểm như sau:

* Ưu điểm:
Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng; cho phép ngân
hàng tiết giảm được chi phí trong cho vay; là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với
khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác; trong trường hợp có quan hệ với những
công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
* Nhược điểm:
Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu; thiếu
sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa; kỹ
thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với cho
vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động này thì đều
có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
1.2.3.2. Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng
trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân
viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng
thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những
công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động
của mình nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các
khoản cho vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của công ty bán lẻ thường chú
trọng đến việc bán cho được nhiều hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết
định tín dụng thường được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số
trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với
khách hàng tốt của mình. Nếu người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có thể được
hạn chế.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián
tiếp. Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát
sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng.

1.3. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM
1.3.1.Rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng
Hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng là các khoản vay trung và dài hạn, với thời
hạn từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm, nên có thể có rất nhiều rủi ro có thể phát sinh.
- Rủi ro mất khả năng thanh toán của người đi vay:
Do các khoản cho vay tiêu dùng có thời hạn dài nên khả năng trả nợ phụ thuộc
rất nhiều vào tình trạng sức khoẻ, gia đình và công việc của người đi vay. Những rủi ro
có thể xảy ra trong trường hợp này bao gồm:
+ Người đi vay bị chết hoặc bị tai nạn dẫn đến mất khả năng lao động, hoàn toàn
không có khả năng trả món nợ còn lại cho ngân hàng;
+ Người vay bị tai nạn, giảm khả năng lao động hoặc thay đổi vị trí công tác dẫn
đến giảm sút thu nhập không thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
- Rủi ro do khách hàng gian lận: Do khách hàng vay tiêu dùng là các cá nhân
nên các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về khách hàng.
Lợi dụng điều này khách hàng có thể cố tình gian lận để chiếm đoạt tiền vay dẫn đến
rủi ro không thu hồi được vốn cho ngân hàng.
Ngoài ra, giống như những khoản cho vay thương mại khác, các khoản cho vay
tiêu dùng cũng phải chịu những rủi ro về lãi suất và tỉ giá. Do thời hạn cho vay dài nên
lãi suất trên thị trường có thể có những biến động lớn trong suốt quá trình cho vay vốn.
Nếu áp dụng một mức lãi suất cố định trong suốt thời hạn cho vay thì khi lãi suất trên
thị trường tăng, ngân hàng có thể sẽ phải chịu rủi ro vì cho vay với lãi suất quá thấp.
Ngược lại, nếu lãi suất trên thị trường giảm, những khoản cho vay của ngân hàng với lãi
suất cao hơn sẽ không còn hấp dẫn được người đi vay, ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của các ngân hàng.
Trong trường hợp khoản vay được thực hiện bằng ngoài tệ thì các ngân hàng có
thể gặp phải rủi ro khi tỉ giá hối đoái thay đổi hoặc người đi vay sẽ gặp khó khăn trong
việc trả nợ gốc và lãi trong trường hợp tỉ giá thay đổi trong khi nguồn thu nhập của
người đi vay lại bằng nội tệ.
1.3.2.Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng liên quan đến số lượng lớn khách

hàng. Mỗi người vay có số lượng vay tương đối nhỏ và các ngân hàng cần xử lý rất
nhiều những khoản vay này để tạo ra số dư lớn trong hoạt động cho vay tiêu dùng
không có tài sản đảm bảo. Với số lượng khách hàng lớn như vậy, các nhà quản lý ngân
hàng cần phải thực hiện những biện pháp kiểm soát, quản lý rủi ro hiệu quả đối với quá
trình cấp tín dụng tiêu dùng.
Quản trị rủi ro trong tín dụng tiêu dùng được hiểu là một chiến lược quản lý
danh mục cho vay trong đó đảm bảo sự cân đối giữa bảo toàn vốn và tối ưu hóa việc sử
dụng nguồn vốn. Hay nói cách khác, quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng
là một quá trình liên tục nhận ra và nắm bắt những cơ hội cho vay thích hợp và tránh
những rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng. Trong quản trị rủi ro đối với hoạt
động cho vay tiêu dùng, việc nắm bắt thông tin về khách hàng và quản lý thông tin một
cách thống nhất là những yếu tố then chốt giúp cho việc quản lý danh mục cho vay đạt
hiệu quả cao. Mặc dù đây là một nguyên tắc khá rõ ràng nhưng việc thực thi nguyên tắc
đó còn gặp khá nhiều khó khăn.
Quản trị rủi ro tín dụng tiêu dùng bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Phân tích tín dụng tiêu dùng:
Hầu hết các ngân hàng với số lượng lớn khách hàng xin vay tiêu dùng thường bổ
sung cho việc phân tích tín dụng của họ bằng hệ thống cho điểm tín dụng thống kê. Hệ
thống phân tích tự động này là phương tiện để đánh giá đề nghị vay sử dụng mẫu cho
điểm liệt kê những đặc điểm của đề nghị vay như mức thu nhập, thời gian làm việc,
quyền sở hữu nhà ở, và những hình thức tín dụng đã có trước đây với những người bán
lẻ hoặc những người cho vay khác. Đề nghị vay được cho điểm theo mỗi đặc điểm và
tổng số điểm cho ta thấy liệu người đề nghị vay có đủ tiêu chuẩn vay hay không. Khả
năng được chấp nhận sẽ được dự báo dựa trên cơ sở dữ liệu của ngân hàng về những
khách hàng có những đặc điểm tương tự và về việc thanh toán các khoản vay trước đây
đối với ngân hàng của người xin vay đó.
Cho điểm tín dụng thường ít được sử dụng như một tiêu chí duy nhất đẻ thực hiện
các khoản tín dụng tiêu dùng. Những yếu tố khác như khả năng thanh toán nợ, điều kiện
kinh tế hiện tại và những yêu cầu về thế chấp, phải đáp ứng được những tiêu chuẩn về
bảo đảm an toàn của ngân hàng. Những thông tin khách quan - như về cá nhân và hình

thức bề ngoài của khách hàng, tiềm năng về một mối quan hệ có lợi trong tương lai, và
những yếu tố không thể định lượng khác - sẽ giúp cho quá trình phân tích tín dụng có
giá trị thực tế hơn. Phân tích tín dụng là một quá trình nhờ đó cả những yếu tố chủ quan
như những yếu tố có thể định lượng được đánh giá đồng thời. Mục đích của quá trình
này là giảm thiểu rủi ro, tổn thất cho vay và những khoản cho vay khó đòi. Các bước
trong quá trình phân tích tín dụng tiêu dùng được liệt kê trong bảng dưới đây
Biểu 1: Các bước trong quá trình phân tích tín dụng
1. Xác định mục đích sử dụng khoản vay
và số tiền vay
3. Kiểm tra và xác minh thông tin

×