Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Top 7 bài phân tích Bình Ngô đại cáo siêu hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.04 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý phân tích tác phẩm Bình Ngơ Đại Cáo</b>
<b>I. Mở bài:</b>


- Giới thiệu về tác gia Nguyễn Trãi: Là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, nhà văn nhà thơ
với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.


- Khái quát về tác phẩm: Là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc.
<b>II. Thân bài:</b>


a. Tiền đề lý luận
* Tư tưởng nhân nghĩa


- “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa
trên cơ sở tình thương và đạo lí.


- “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi


+ Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
+ Cụ thể hóa với nội dung mới đó là trừ bạo – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
→ Với nét nghĩa tiến bộ, mới mẻ Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh
đồng thời phân biệt rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.


→ Tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – là cuộc khởi nghĩa nhân nghĩa, vì
cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.


* Chân lý về độc lập dân tộc


- Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng
thuyết phục: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ riêng biệt, phong tục Bắc Nam phong
phú, đậm đà bản sắc dân tộc, lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần, hào
kiệt đời nào cũng có.



→ Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định dân tộc
Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lý không thể chối cãi.


- Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại
Việt.


- Thái độ của tác giả:


+ So sánh các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa.


+ Gọi các vị vua Đại Việt là “đế”: Trước nay hoàng đế phương Bắc chỉ xem vua nước Việt là
Vương.


→ Thể hiện ý thức về chủ quyền độc lập cao độ của tác giả.


- Sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lý: Lưu Cung, Triệu Tiết,
Toa Đơ, Ơ Mã,...


→ Là lời cảnh cáo đanh thép, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của
nhân dân Đại Việt.


b. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn.
* Tội ác của giặc Minh.


- Tội ác xâm lược: Từ “nhân, thừa cơ” cho thấy sự cơ hội, thủ đoạn của giặc Minh, chúng
mượn chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để gây chiến tranh xâm lược nước ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Tội ác với nhân dân:



+ Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ
+ Bóc lột bằng thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật nước ta
+ Phá hoại mơi trường, tiêu diệt sự sống


+ Bóc lột sức lao động, phá hoại sản xuất.


→ Sử dụng biện pháp liệt kê tố cáo những tội ác dã man của giặc.
→ Gợi hình ảnh đáng thương, tội nghiệp, khổ đau của nhân dân


→ Nỗi xót xa, đau đớn, thương cảm đối với nhân dân, sự căm phẫn đối với kẻ thù của tác giả.
* Lòng căm thù giặc của nhân dân.


- Hình ảnh phóng đại “trúc Nam Sơn khơng ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
lấy cái vô cùng của tự nhiên để nói về tội ác của giặc Minh.


- Câu hỏi tu từ “lẽ nào...chịu được”: Tội ác không thể dung thứ của giặc.
→ Thái độ căm phẫn, uất nghẹn không bao giờ tha thứ của nhân dân ta
⇒Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh


c. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
* Hình tượng người anh hùng Lê Lợi


- Nguồn gốc xuất thân: là người nông dân áo vải “chốn hoang dã nương mình”
- Lựa chọn căn cứ khởi nghĩa: “Núi Lam Sơn dấy nghĩa”


- Có lịng căm thù giặc sâu sắc, sục sôi: “Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề
khơng cùng sống...”


- Có lý tưởng, hoài bão lớn lao, biết trọng dụng người tài: “Tấm lịng cứu nước...dành phía
tả”.



- Có lịng quyết tâm để thực hiện lí tưởng lớn “Đau lịng nhức óc...nếm mật nằm gai...suy xét
đã tinh”.


→ Hình tượng Lê lợi vừa là con người bình dị đời thường, vừa là người anh hùng khởi nghĩa.
Hình tượng Lê Lợi cũng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi cho thấy tính
chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa.


* Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa:


+ Khó khăn về quân trang, lương thực: lương hết mấy tuần, quân không một đội


+ Tinh thần của quân và dân: Gắng chí, quyết tâm (Ta gắng chí khắc phục gian nan), đồng
lịng, đồn kết (sử dụng 2 điện tích dựng cần trúc, hịa nước sơng)


→ Giai đoạn đầu đầy khó khăn, thử thách, nhờ sự lạc quan, đồng lịng, đồn kết, biết dựa vào
dân đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua mọi khó khăn.


- Giai đoạn phản cơng và giành thắng lợi


+ Những chiến thắng ban đầu: Trận Bạch Đằng, miền Trà Lân tạo thanh thanh thế cho nghĩa
quân và trở thành nỗi khiếp đảm cho kẻ thù “sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

→ Biện pháp liệt kê tái hiện khơng khí chiến trận máu lửa, sục sơi với những chiến thắng
giịn giã liên tiếp của quân ta cũng như sự thất bại nhục nhã, ê chề của địch.


+ Sự thất bại nhục nhã, thảm thương của giặc Minh:


Nghệ thuật cường điệu, phóng đại cực tả sự thiệt hại, tổn thất to lớn của quân thù. Đó là


những thất bại nhục nhã, ê chề “thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm, bêu đầu, bỏ mạng,..”.
Thất bại thảm hại, khốn đốn, cửi áo giáp xin hàng “Thượng thư Hoàng Phúc...xin cứu mạng”
Tướng giặc tham sống sợ chết xin hàng.


+ Khí thế vang dội và cách ứng xử của quân dân ta:


Cách nói cường điệu, phóng đại: “Gươm mài đá đá núi cũng mòn, voi uống nước nước sơng
phải cạn, đánh một trận....”, ca ngợi khí thế hào sảng, ngút trời của quân ta.


Thực thi chính sách nhân nghĩa “Thần vũ chẳng giết hại...nghỉ sức”. Đây là cách ứng xử vừa
nhân đạo vừa khôn khéo của nghĩa qn Lam Sơn, nó vừa khiến ta thấy được tính chất chính
nghĩa của nghĩa quân vừa là sự chuẩn bị cần thiết cho chính sách ngoại giao sau này.


→ Nghệ thuật đối lập đã thể hiện rõ những nét đối cực trong cuộc chiến giữa ta và địch, từ
tính chất cuộc chiến cho đến khí thế, sức mạnh, những chiến công và cách ứng xử


→ Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của tác giả.
d. Niềm tin, ý chí.


- Giọng điệu trang trọng, hào sảng cho thấy niềm tin và những suy tư sâu lắng của tác giả
- Sử dụng những hình ảnh về tương lai đất nước như “xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ
đây đổi mới, thái bình vững chắc”, các hình ảnh của vũ trụ “kiền khôn, nhật nguyệt, ngàn thu
sạch làu”


→ Đất nước, vũ trụ đang vận động theo hướng tươi sáng, tốt đẹp hơn.


→ Đây không chỉ là lời tuyên bố kết thúc còn là niềm tin tưởng, lạc quan về sự nghiệp xây
dựng đất nước.


e. Nghệ thuật



- Sử dụng sáng tạo và thành cơng thể cáo


- Kết hợp hài hịa giữa yếu tố chính trị và yếu tố văn chương.
- Sử dụng các biện pháp liệt kê, phóng đại, đối lập,..


<b>III. Kết bài:</b>


- Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm


- Liên hệ với “Nam quốc sơn hà”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
<b>2. Phân tích tác phẩm Bình Ngơ Đại Cáo - Mẫu 1</b>


Sau hai mươi năm của cuộc kháng chiến chống quân Minh và sau hơn mười năm của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1416 - 1427), bản Đại cáo bình Ngô ra đời là một điều tất yếu.
Trên phương diện hành chính quan phương, đây là một văn kiện lịch sử nhằm thông báo,
tuyên bố rộng rãi về nền độc lập của dân tộc sau nhiều năm gian truân, khổ cực, “tướng sĩ
một lòng”. Nhưng đây còn là một áng văn yêu nước hùng tráng, kết tinh của biết bao nhiêu
trái tim u chuộng hịa bình của dân tộc, mà tác giả Nguyễn Trãi là người đã thổi hồn vào đó
qua từng con chữ, câu văn. Mạch cảm xúc khơng vì thế mà khơ khan, cứng nhắc như vốn có,
ngược lại đầy cháy bỏng, tha thiết… để mỗi chúng ta được ôn lại truyền thống oai hùng của
lịch sử đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đứng đầu. Nhưng Bình Ngơ đại cáo là một bản đại cáo khác xa với ý nghĩa thơng thường,
mang tính thời vụ đó. Bởi Nguyễn Trãi đã đưa khát vọng, niềm tự hào, kiêu hùng của nhân
dân và của chính bản thân ơng để một văn kiện lịch sử nhằm thơng báo sự kiện trọng đại có
tính chất quốc gia này mang theo một sức sống trường tồn, bất hủ. Tuy viết bằng chữ Hán,
song bản dịch hiện hành cho đến giờ gần như khơng có độ chênh lệch lớn, vẫn bảo toàn
nguyên vẹn ý nghĩa gốc. Bố cục bài cáo bốn phần rõ ràng, mạch lạc. Đoạn 1, nêu luận đề
chính nghĩa. Đoạn 2, vạch trần tội ác của giặc Minh. Đoạn 3, cuộc khởi nghĩa đầy gian khổ


và tất thắng của quân và dân ta. Đoạn 4, lời tuyên bố độc lập. Qua ngòi bút đầy tài năng của
mình, Nguyễn Trãi đã viết nên một áng văn chính luận xuất sắc, đỉnh cao và trở thành mẫu
mực cho văn chương chính luận trung đại Việt Nam.


Mở đầu bài cáo, tác giả viết:


<i>Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo</i>


Nhân nghĩa – một tư tưởng quen thuộc, nhắc tới cách hành xử tốt đẹp giữa người với người
trong quan niệm đạo đức Nho gia. Tại sao Nguyễn Trãi lại đề cập đến ngay ở đầu bài cáo.
Đây chẳng những là lí tưởng đạo đức suốt đời trong sự nghiệp cống hiến cho đất nước cũng
như sáng tác văn chương của ông, mà còn là một điều mới mẻ, được nâng lên một tầm cao về
mặt ý nghĩa so với trước đó. Bởi cốt lõi nhân nghĩa mà Ức Trai tôn thờ là yên dân, làm cho
nhân dân có cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Vậy trong hoàn cảnh ngoại bang, “quân điếu phạt”
Minh xâm lược, muốn dân được n khơng gì khác ngồi việc phải lo trừ bạo. Tức là vì
thương dân mà phải diệt trừ lũ bạo ngược đã hại dân, bao gồm bọn giặc Minh với ách đô hộ
đầy hà khắc và cả bọn bán nước trục lợi, cầu vinh. Trên nền tảng lấy “dân làm gốc”, tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Biết dựa sức mạnh vào dân là phương kế chính trị lớn lao đem lại thắng lợi
to lớn cho dân tộc ở mọi thời đại. Bởi vậy, nhân nghĩa trong Bình Ngơ đại cáo nói riêng và cả
sự nghiệp văn thơ Nguyễn Trãi đã trở thành một đạo lý dân tộc, một lý tưởng xã hội sáng
ngời.


Từ lập trường nhân nghĩa ấy, tác giả đã xây dựng một cơ sở lý luận vững chắc, nêu lên được
luận đề chính nghĩa ở ngay phần mở đầu của bài cáo.


<i>Như nước Đại Việt ta từ trước</i>
<i>…</i>



<i>Chứng cớ còn ghi.</i>


Đây là đoạn văn đã chạm khắc vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm về nền
độc lập một cách đầy đủ nhất. Lối lập luận so sánh sắc bén, đa chiều đã khẳng định những
phương diện cốt lõi để định danh chủ quyền của mỗi quốc gia. Bỏ qua yếu tố lớn nhỏ, mạnh
yếu mà cân nhắc, xem xét ở những điều có hay khơng. Văn hiến, núi sơng bờ cõi, phong tục,
lịch sử và hào kiệt Đại Việt ta so với Đại Hán, Bắc phương đều có cả, thậm chí tương xứng,
song hành. Cái hay mà Nguyễn Trãi đem lại không những khẳng định được nền độc lập dân
tộc mà cịn cho thấy cả q trình để sức sống độc lập ấy tồn tại đầy mãnh liệt. Chỉ một đoạn
văn nhỏ mà thấy cả dòng chảy lịch sử suốt năm trăm năm, với sáu lần đánh bại quân thù.
Không cịn điều gì có thể tự hào hơn, khơng cịn điều gì có thể thay đổi chân lý đó. Những
chứng cứ lịch sử năm xưa lại càng “khóa chặt” cho cơ sở lý luận về nền độc lập dân tộc, về
sự chính nghĩa trong cơng cuộc trường chinh bảo vệ đất nước của vua tôi nhà hậu Lê.


Chủ quyền quốc gia độc lập, vậy nếu bất cứ kẻ nào xâm phạm đều mang trong mình trọng
tội. Bè lũ giặc Minh và bọn bán nước cầu vinh lúc bấy giờ thì:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi</i>


Cớ gì mà vị qn sư chính trực của Lê Lợi lại khẳng định một cách tận cùng về tội ác của bọn
chúng như vậy? Cả một đoạn văn có lẽ thấm đẫm nước mắt, căm hờn sục sơi mà bao lâu nay
bị dồn nén được Nguyễn Trãi viết ra một cách tường tận. Từ âm mưu xâm lược thâm độc
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ thừa cơ gây họa, lợi dụng tình hình rối ren của đất nước do
nhà Hồ gây ra, chúng mang theo luận điệu xảo trá phù Trần diệt Hồ, nhằm bịp bợm nhân dân.
Đến những hành vi xâm lược, bóc lột tàn bạo, dã man khơng thể diễn tả nổi. Dưới góc nhìn
của Nguyễn Trãi, qua lăng kính của tư tưởng nhân nghĩa, n dân thì tội ác khơng thể chấp
nhận được của bọn chúng là dối trời lừa dân đủ mn nghìn kế. Vì vậy bút pháp phóng đại,
ngơn ngữ giàu tính tạo hình, giọng điệu đanh thép đã chắp bút để ông vạch trần bộ mặt man
rợ, trắng trợn của bè lũ cướp nước. Thật đau xót, tê dại khi nhớ lại:



<i>Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn</i>
<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ</i>


Cái đáng sợ của bọn giặc Minh là ngay cả đến dân đen, con đỏ cũng chẳng tha. Hai động từ
nướng, vùi đã lột tả trần trụi đến rợn người về sự tàn sát của chúng. Nhưng đâu chỉ có vậy,
chúng cịn Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt, ép dân xuống biển dịng lưng mị
ngọc, vào núi đãi cát tìm vàng. Biết bao người dân vơ tội phải thiệt mạng vì cá mập thuồng
luồng, vì bệnh tật nơi rừng sâu nước độc. Thảm cảnh Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng
chỉ là một trong số vô vàn những đau khổ chúng để lại cho dân lành. Về kinh tế, chúng cũng
cũng đẩy đất nước rơi vào cảnh kiệt quệ. Nặng thuế khóa để bóc lột, vơ vét tài ngun,
khống sản, tàn phá cả nghề trồng lúa, nghề dệt vải… Đến cả giống côn trùng cây cả cũng
không tha. Các từ ngữ chốn chốn, nơi nơi chỉ không gian rộng và Gây binh kết oán trải hai
mươi năm chỉ thời gian dài khiến Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Tội ác của bọn chúng đúng
là trời không dung, đất không tha, cả thần và nhân không chịu nổi. Bản cáo trạng như thấm
đẫm cả máu, nước mắt của nhân dân mà Nguyễn Trãi đã tổng kết lại. Từng chữ, từng câu
chất chứa nỗi uất nghẹn, căm hờn. Những chứng cứ về tội ác ấy là bản cáo trạng đanh thép
nhất, là thực tiễn lịch sử xác đáng nhất để chứng tỏ phải diệt trừ lẽ lũ ngang tàn, bạo ngược,
dối trá – giặc Minh là một việc làm đầy chính nghĩa của nhân dân ta, mà đội quân Lam Sơn là
người gánh vác sứ mệnh.


Trước kẻ thù hiểm ác, thâm độc như thế, việc trừ bạo không hề dễ dàng. Ở đoạn văn tiếp
theo, Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu
sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi:


Ta đây:


<i>Núi Lam Sơn dấy nghĩa,</i>
<i>Chốn hoang dã nương mình.</i>


Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân nhưng vì


mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lịng căm thù giặc sâu sắc, há
đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lịng nhức óc, qn ăn
vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những
ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng ấy đã trở thành
linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế.
Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm
chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều
gì lại giúp Lê Lợi và cộng sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con
đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đồn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng
phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí
nhân để:


Trọn hay:


<i>Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,</i>
<i>Lấy chí nhân để thay cường bạo.</i>


Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết tận dụng
thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.


Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn Trãi đã
tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra tồn cảnh
của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp
mọi miền. Mở màn là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến
Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ
thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải
động binh cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận
đánh liên tiếp, mạnh mẽ:



<i>Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,</i>
<i>Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,</i>
<i>Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,</i>


<i>Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.</i>


Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như sấm
vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:


<i>Đánh một trận sạch khơng kình ngạc</i>
<i>Đánh hai trận tan tác chim mng</i>


Qn tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:
<i>Sĩ khí đã hăng</i>


<i>Quân thanh càng mạnh</i>
<i>Sĩ tốt kén người hùng hổ</i>
<i>Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh</i>
<i>Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,</i>
<i>Voi uống nước, nước sông phải cạn</i>


Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến cảnh tượng
đều để lại thật nhiều ấn tượng:


<i>Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,</i>
<i>Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, bó tay để đợi bại vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả
tướng lẫn quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu


thốt thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn…Thất bại nhục nhã, ê
chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.


Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn luôn soi
tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng mà ngược lại
còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn dân nghỉ ngơi, lấy
sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về. Vì thế thắng lợi của ta là thắng lợi của tinh
thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn
sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu
mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.


Giọng điệu sục sơi, khí thế, ngơn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang tính sử
thi, Đại cáo bình Ngơ đã làm sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm
tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến công mà ở sức mạnh của tồn dân quyết chí
một lịng để làm nên chiến thắng vẻ vang.


Sáng đến đoạn cuối giọng điệu có phần thư thái, mang khơng khí mừng vui phấn khởi khi
nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái bình.


<i>Xã tắc từ đây vững bền</i>
<i>…</i>


<i>Ai nấy đều hay</i>


Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ khơng cịn những tháng ngày tăm tối,
đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào sảng, mang tới
niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu nay, giờ cả non sông
rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể ngẩng đầu kiêu
hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỷ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hịa
bình.



Đã sáu trăm năm trơi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngơ vẫn trọn
vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn
tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi
bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt
Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.


<b>3. Phân tích tác phẩm Bình Ngơ Đại Cáo - Mẫu 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

tội, bấy giờ chính là giặc Minh xâm lược. Như vậy, nhân nghĩa của ông xuất phát từ lịng u
dân, mong cho dân có cuộc sống n ổn. Đây là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, đồng thời
đây cũng là lần đầu tiên người dân xuất hiện với vị trí quan trọng trong văn kiện có tầm cỡ
thời đại.


Phần tiếp theo, ông đưa ra năm yếu tố cơ bản để khẳng định sự tồn tại có chủ quyền của nước
Đại Việt. Nền độc lập của ta được dựa trên: Cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, truyền
thống lịch sử và chủ quyền riêng “mỗi bên xưng đế một phương”. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện
quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất
– Nam quốc sơn hà.


Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa, bằng giọng văn đanh thép Nguyễn Trãi đã vạch trần tội
ác của giặc Minh. Để tố cáo tội ác của chúng, ông đứng trên lập trường dân tộc, sử dụng ngôn
ngữ hết sức chuẩn xác: nhân, thừa cơ cho thấy luận điệu bịp bợm của giặc Minh: phù Trần
diệt Hồ. Không chỉ vậy ơng cịn đứng trên lập trường nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù khi
chúng cai trị nhân dân ta. Chúng hủy hoại cuộc sống của con người bằng những hành động
hết sức dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. Khơng
dừng lại ở đó chúng cịn hủy hoại mơi trường sống của mn lồi cây cỏ; Các chính sách thuế
khóa nặng nề, vơ vét cho bằng hết sản vật của nước ta, tàn hại cả giống cơn trùng cây cỏ, tiêu
diệt đường sống mn lồi. Chúng sử dụng dân ta như một công cụ để phục dịch cho chúng:
người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,… Những tội


ác của chúng thấu đất, vang tới tận trời xanh, không thể dung thứ: Lẽ nào trời đất dung tha/
Ai bảo thần nhân chịu được. Câu hỏi vang lên như một lời cảnh cáo, cũng thể hiện niềm đau
xót của tác giả trước thảm cảnh mà nhân dân phải hứng chịu. Với những hình ảnh đối lập
tương phản, giàu giá trị gợi cảm tác giả đã tố cáo một cách đanh thép nhất tội ác của kẻ thù.
Sau những lời văn thống thiết, nhưng cũng đầy mạnh mẽ, tiếp đến Nguyễn Trãi kể lại quá
trình chinh phạt gian khổ và thắng lợi tất yếu của quân dân ta. Trong những buổi đầu khởi
nghĩa, tình thế quân ta hết sức khó khăn, quân thù đang vào thời điểm mạnh nhất, quân ta thì
Tuấn kiệt như sau buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu. Tương quan đó khiến cuộc khởi nghĩa
càng trở nên khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi, quân ta đã giành
được thắng lợi hồn tồn. Lê Lợi là người có lịng căm thù giặc sâu sắc: Ngẫm thù lớn há đội
trời chung/ Căm giặc nước thề không chung sống và ông mang trong mình lịng quyết tâm
lớn tiêu diệt qn xâm lược, mang lại bình n cho nhân dân. Ơng khơng chỉ coi trọng người
hiền tài mà còn coi trọng vai trò của nhân dân: Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc
ngọn cờ phấp phới. Tất cả người dân nhỏ bé, thấp kém nhất đều được tập hợp dưới ngọn cờ
của Lê Lợi. Đây là lần đầu tiên người dân được đưa vào vị trí trang trọng đến vậy. Điều đó đã
tạo nên sự thống nhất một lịng, đồn kết tồn dân tộc. Chính sự đồn kết đó đã đem lại hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác cho nhân dân ta: Đánh một trận, sạch khơng kình ngạc/
Đánh hai trận, tan tác chim mng/ Nổi gió to trút sạch lá khô/ Thông tổ kiến phá toang đê
vỡ.


Lời tuyên bố chiến thắng, mở ra kỉ nguyên độc lập của dân tộc thật dõng dạc, tràn đầy niềm
tự hào: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới, đất nước ta bước vào thời kỳ tự
chủ, thịnh vượng dưới triều đại mới. Đồng thời ông cũng rút ra những bài học lịch sử: Kiền
khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh, để khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới
của dân tộc sau khi đã trải qua những cơn bĩ cực. Đồng thời ông cũng khẳng định, chiến
thắng chúng ta có được là nhờ sự kết hợp sức mạnh của thời đại và sức mạnh truyền thống
dân tộc: Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

thuật với những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình tượng, giàu giá trị tạo hình, gây ám ảnh sâu
sắc với người đọc.



Tác phẩm là bài ca ngợi ca cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần kỳ đã chấm dứt sự xâm lược của
giặc Minh. Đồng thời cũng là bản tố cáo đanh thép, dõng dạc những tội ác mà giặc Minh
phạm với nhân dân ta. Bên cạnh đó Đại cáo Bình Ngơ cịn là bản tun ngơn độc lập thứ hai
của dân tộc, xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn bất hủ của mn đời.


<b>4. Phân tích tác phẩm Bình Ngơ Đại Cáo - Mẫu 3</b>


Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, qn sự tài ba và lỗi lạc, ơng
tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều cơng lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh của Lê Lợi với vai trị là một qn sư. Với những cơng trạng vĩ đại của mình
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công
thần đời đầu của nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, việc tham gia sâu rộng vào chính trị và có nhiều
đóng góp to lớn đã khiến ơng trở thành cái gai trong mắt của nhiều thế lực đối lập, cuối cùng
bản thân ơng và gia đình phải chịu án oan thảm khốc tru di tam tộc (thảm án Lệ Chi viên),
khiến người đời khơng khỏi đau xót, tiếc thương. Ngồi là một nhà chính trị, quân sự tài ba,
Nguyễn Trãi cịn được biết đến là một nhà văn chính luận kiệt xuất, với số lượng tác phẩm
tuy ít nhưng bài nào cũng để lại tiếng vang đến mn đời có thể kể đến hai tác phẩm tiêu biểu
là Quân trung từ mệnh tập và Bình ngơ đại cáo. Ơng là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của
nền Nho giáo thế nhưng theo như lời của Trần Đình Hựu thì “Về hệ thống, tư tưởng nhân
sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, khơng
câu nệ và vì vậy khơng chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân
tộc trước đó”. Có thể thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm có ba điểm chính thứ nhất là tư
tưởng nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phụng mệnh trời và cuối cùng là tư tưởng nhân dân,
tiến bộ hẳn so với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ thống tư tưởng này ta có thể nhận
thấy rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Bình ngô đại cáo, tác phẩm được xem là bản
tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.


Bình ngơ đại cáo được sáng tác vào cuối năm 1427, thời điểm nghĩa quân Lam Sơn giành
được thắng lợi huy hoàng, tiêu diệt 15 vạn viện binh của giặc Minh xâm lược do Liễu Thăng


và Mộc Thạnh dẫn đầu. Vương Thông buộc phải viết thư xin hàng và rút quân về nước,
Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngơ đại cáo để cơng bố cho nhân dân về việc đã dẹp
yên giặc Minh xâm lược, đồng thời nó cũng đóng vai trị như là một bản tuyên ngôn độc lập,
khai sinh ra một triều đại mới, triều đại thịnh thế của nhà Hậu Lê, mở ra kỷ nguyên mới độc
lập, tự do cho dân tộc. Bình Ngơ đại cáo được đọc vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa nhan đề
“Bình Ngơ đại cáo”, ở đây có thể lý giải rằng vua Minh là người đất Ngơ, nên khi nói “Bình
Ngơ” ta sẽ hiểu rằng là bình định quân Minh xâm lược. Hoặc một cách hiểu khác, thì trước
đây vào thời tam quốc, nước Ngơ là nước đã cai trị nước ta một cách tàn ác và vô nhân đạo,
cái tên “giặc Ngô” hay nước hay “nước Ngơ” đã trở thành một loại từ khóa ám ảnh với nhân
dân ta bao đời, thế nên khi nói đến giặc Ngơ tức là nói đến thứ giặc xâm lược tàn bạo và độc
ác. “Đại cáo” tức là bản cáo lớn, ở đây Nguyễn Trãi muốn khẳng định đại đạo của dân tộc
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” vốn là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong tác phẩm. Thứ hai nữa “đại cáo” này còn gắn liền với thể loại văn bản đương đại
của nhà Minh, có ý nghĩa pháp luật, tác giả muốn khẳng định rằng đây cũng là một văn kiện
pháp luật của Đại Việt, có giá trị, ý nghĩa tương đương với văn kiện pháp luật của nhà Minh,
khẳng định nền độc lập của dân tộc.


Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra các luận đề chính nghĩa với mục đích làm cơ sở, căn
cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Như nước Đại Việt ta từ trước,</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,</i>


<i>Núi sông bờ cõi đã chia,</i>
<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác;</i>


<i>Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập</i>


<i>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;</i>
<i>Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,</i>



<i>Song hào kiệt thời nào cũng có</i>
<i>Cho nên:</i>


<i>Lưu Cung tham cơng nên thất bại;</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;</i>


<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đơ</i>
<i>Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã</i>
<i>Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi xây dựng một khái niệm về quốc gia dân tộc dựa trên 5 yếu tố
trên, đây là một bước tiến rất lớn, hoàn thiện định nghĩa về tổ quốc so với bản tuyên ngôn độc
lập lần thứ nhất chỉ bao gồm 2 yếu tố lãnh thổ và chủ quyền riêng, thể hiện tài năng lý luận
và tầm tư duy của một nhân tài kiệt xuất đi trước thời đại. Thêm vào đó ngồi nội dung chính
của luận đề, sự thuyết phục của quan điểm trên còn nằm ở cái cách mà tác giả Nguyễn Trãi
sử dụng các từ ngữ như: từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác. Mà tất cả những từ ngữ này lại
thuộc cùng một trường khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của chân lý mà tác giả đã
nêu ra.


Sau khi nêu ra hai luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã tiến hành nêu ra các tội ác của giặc
Minh đã gây ra đối với nhân dân ta. Tác giả đã đứng trên hai lập trường là lập trường của dân
tộc và lập trường nhân nghĩa nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù. Trước hết là trên lập
trường dân tộc, ông đã tố cáo, nhận diện rõ ràng âm mưu cướp nước của giặc Minh thơng qua
mấy câu thơ sau:


“Vừa rồi:


<i>Nhân họ Hồ chính sự phiền hà</i>
<i>Để trong nước lịng dân ốn hận</i>


<i>Qn cuồng Minh thừa cơ gây hoạ</i>
<i>Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”</i>


Dùng các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ” để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà Minh kéo quân
sang nước ta với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, nhưng thực tế là thừa dịp xâm lược Đại
Việt. Vịn vào việc Hồ Q Ly lên ngơi khơng danh chính ngơn thuận, khơng được lịng dân
để lấy được sự ủng hộ của nhân dân Đại Việt nhằm thực hiện mưu hèn kế bẩn mà chúng đã
ấp ủ bấy lâu nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Đông Hải”, dùng cái vô cùng, tột độ để diễn tả cái vô tận trong những tội ác của kẻ thù.
Giọng văn có lúc thì thống thiết, đau đớn, xót xa khi nói về thảm cảnh của nhân dân, nhưng
cũng có lúc đanh thép, hùng hồn để kết tội kẻ thù “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ
bấy no nê chưa chán/ Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?” là lời kết tội kẻ
thù, là lời để ngỏ, lời để dồn lòng căm thù vào đối tượng đã gây ra biết bao đớn đau cho dân
tộc, giống nòi.


Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn, Nguyễn Trãi đã nói về tính chất chính nghĩa của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và niềm tin tất thắng của cuộc khởi
nghĩa. Trong giai đoạn đầu, “vạn sự khởi đầu nan” cuộc khởi nghĩa của chủ tướng Lê Lợi gặp
rất nhiều khó khăn, đầu tiên Nguyễn Trãi đã tái hiện lại sự tương quan giữa ta và địch. Về
phía địch, khi cờ khởi nghĩa của ta vừa dấy lên, thì cũng chính là lúc “quân thù đang mạnh”,
giặc Minh được thế giở thói “hung đồ ngang dọc” thả sức tác oai tác quái, phô trương thanh
thế đàn áp nhân dân. Trái lại về phía ta thì lại gặp vơ vàn khó khăn trắc trở “tuấn kiệt như sao
buổi sớm, nhân tài như lá màu thu”, vốn đã thiếu người, thiếu lực lượng và thiếu nhất là
những người tài chịu đứng ra giúp nước phị tá Lê Lợi, trong việc bơn tẩu, bàn bạc kế sách
chống quân thù. “Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi” người thiếu,
lực mỏng và con đường khởi nghĩa cũng còn quá mơ hồ, bởi so với địch thực sự thế lực của
ta chẳng thể chống đỡ được quá lâu. Một nỗi lo khác nữa ấy là ngồi thiếu nhân lực ta cịn
thiếu cả vật lực “Vận nước khó khăn/Linh Sơn lương hết mấy tuần/Khôi huyện quân không
một đội”, thiếu thốn lương thực, vũ khí, khơng có nguồn tiếp tế khiến nghĩa qn nhiều lần


lao đao, khốn khó trong việc duy trì tinh thần qn lính. Có thể thấy rõ rằng, tương quan lực
lượng giữa ta và địch là hoàn toàn chênh lệch với cái thế yếu thuộc về nghĩa quân Lam Sơn.
Và để vượt qua tất cả những khó khăn trên, lật ngược ván cờ làm nên chiến thắng lừng lẫy
trước kẻ thù phải kể đến yếu tố tiên quyết đó là sự lãnh đạo xuất sắc của vị lãnh tụ đứng đầu
nghĩa quân - Lê Lợi. Ở Lê Lợi hội tụ đầy đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại: Có lịng
căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm cao độ trong việc thực hiện lý tưởng cao đẹp khôi phục giang
sơn, nền độc lập của dân tộc “Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời...Chỉ băn khoăn
một nỗi đồ hồi”. Ông cũng là người rất biết coi trọng nhân tài “Cỗ xe cầu hiền thường chăm
chăm cịn dành phía tả”, biết coi trọng vai trị của nhân dân, biết tập hợp sức mạnh của nhân
dân vốn là yếu tố tiên quyết để quyết định chiến thắng của khởi nghĩa. Thêm vào đó ở Lê Lợi
cịn có khả năng thu phục lòng người tạo nên khối đại đoàn kết vững mạnh trong toàn quân,
quân sĩ trên dưới một lòng chống giặc “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ
phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hồ nước sơng chén rượu ngọt ngào”. Cuối cùng một
yếu tố không thể thiếu ở người lãnh đạo ấy là sự tài trí mưu lược, giỏi bày binh bố trận của Lê
Lợi “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tất cả thế gian”. Tổng kết lại, kẻ thù hiện lên với bộ dáng hết sức thảm bại, nhục nhã, còn
quân dân ta là sự vẻ vang rong chiến thắng sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa “Tham công danh
một lúc, để cười cho tất cả thế gian”, “Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm
công”, làm nên chiến thắng vô cùng đáng trân trọng.


Sang chặng đường thứ hai, sau khi kẻ thù rơi vào thất bại thảm hại, nhưng chúng vẫn ngoan
cố không chịu rút về nước, trái lại còn đưa thêm quân tiếp viện do hai tướng Mộc Thạnh và
Liễu Thăng chỉ huy chia làm hai đạo quân tiến vào nước ta hòng tiêu diệt nghĩa quân, lấy lại
thế chủ động. Lúc này đây nghĩa quân ta tiếp tục quá trình kháng chiến, tiếp nối sĩ khí của
chặng đường thứ nhất để chặn đánh quân địch ở vùng biên giới, phá tan âm mưu hiểm độc
của chúng. Nhưng cuối cùng trước việc mạnh mẽ “chặt mũi tiên phong”, “tuyệt nguồn lương
thực”, “Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá...Lại thêm quân bốn mặt vây thành/Hẹn đến giữa
tháng mười diệt giặc/Sĩ tốt kén người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”của ta. Thì cái mà
quân địch nhận lại cũng chỉ có thảm bại hơn chứ khơng có thảm bại nhất, “trận Chi Lăng,


Liễu Thăng thất thế”, “trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu”, Lương Minh tử vong, Bá Khánh
cùng kế phải tự vẫn. Sĩ khí quân giặc vốn đã chán nản nay lại thêm điên cuồng lao vào tàn sát
lẫn nhau, ta chưa đánh nhưng giặc đã tự loạn, quân Mộc Thạnh khiếp vía giẫm đạp lên nhau
để mà thốt thân, thảm hại vơ cùng. Nhưng với tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt, ta không
những không đuổi cùng diệt tận mà “Thần vũ chẳng giết hại, thể lịng trời ta mở đường hiếu
sinh”, “Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền/ Vương Thông, Mã Anh, phát
cho vài nghìn cỗ ngựa” để chúng rút lui về nước trong sự tâm phục khẩu phục, vừa để quân
dân nghỉ ngơi lấy sức khôi phục đất nước sau chiến tranh. Nghệ thuật chính trong tồn đoạn
cáo nói về hai chặng đường chống giặc Minh của quân ta là bút pháp đậm chất anh hùng ca
được miêu tả bằng các hình ảnh rộng lớn, thể hiện sự kỳ vĩ của thiên nhiên, dùng ngôn ngữ
đặc sắc, với các động từ liên tiếp để diễn tả sự chuyển rung liên tiếp của trận chiến, dùng
những tính từ ở mức độ tối đa để tạo ra sự tương phản sâu sắc giữa ta và địch. Thêm vào đó
là nghệ thuật dùng câu văn linh hoạt, chiến thắng của ta thì dùng câu văn ngắn thể hiện sự
dồn dập, quyết đoán mạnh mẽ, oai hùng, cịn thất bại của địch thì được diễn tả bằng những
câu văn dài thể hiện tính chất khơn cùng, không sao kể hết được.


Cuối cùng Nguyễn Trãi chuyển sang tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa
của nghĩa quân Lam Sơn. “Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”, tuyên bố chiến
thắng, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, xây dựng nhà nước Đại
Việt tự chủ và thịnh vượng dưới triều vua mới. Sau là rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ
quy luật của trời đất và tự nhiên, “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh” thể
hiện sự tin tưởng vào vận mệnh mới của dân tộc, sau khi đã trải qua cơn bĩ cực của lịch sử.
Thứ hai là chiến thắng của chúng ta được tạo nên nhờ sự kết hợp của sức mạnh thời đại “Một
cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm”, và yếu tố thứ hai chính là sức mạnh
của truyền thống “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”.


Bình Ngơ đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác
phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ
hùng văn cịn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ thuật, đó là sự kết hợp hài
hịa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, lời văn đanh


thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể hiện ở lời văn rất giàu cảm xúc, câu văn
giàu hình tượng.


<b>5. Phân tích đoạn 1 Bình Ngơ đại cáo</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

tập, Ức Trai thi tập… Đại cáo bình Ngơ được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất
hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi
là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:


<i>Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo</i>


Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngơ, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả
và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính
nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là
giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có n thì nước mới ổn định, mới phát
triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy
luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.


Nguyễn Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành cơng vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân
nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân
dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ.
“Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu
tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu khơng n dân tất trừ bạo khó yên, chúng
được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau. Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm
cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ
tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao
tai hoạ.


Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi khơng còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là


một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều
quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ơng
khơng nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi
vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Khơng những thế, nhân nghĩa còn
gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc
lập dân tộc:


<i>“Như nước Đại Việt ta từ trước</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu</i>


<i>Núi sông bờ cõi đã chia</i>
<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác”</i>


<i>Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập</i>
<i>Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.</i>


<i>Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,</i>
<i>Song hào kiệt đời nào cũng có.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “
Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu khơng có một lịng tự
hào dân tộc mãnh liệt thì khơng thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối
cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của
chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có,
câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc
gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngơ đại cáo thật sự hay hơn , đầy
đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư
cách độc lập của nước ta, tác giả cịn sử dụng cách viết sánh đơi nước ta và Trung Quốc: về
bờ cõi, phong tục - hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so


với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề
thua kém chúng.


Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có
khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng
sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo
– chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là
chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch
sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:


Vậy nên:


<i>Lưu Cung tham cơng nên thất bại</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong</i>
<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô</i>
<i>Sông Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã</i>


<i>Việc xưa xem xét</i>
<i>Chứng cứ cịn ghi.</i>


Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ
thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự
hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một
tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm
Tử”, “sơng Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của
những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham cơng”, “Triệu Tiết… thích
lớn”, Toa Đơ, Ơ Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định
rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém
gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thơn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết


quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính
nghĩa, lẽ phải, chứ khơng như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi
nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<b>6. Phân tích đoạn 2 Bình Ngơ đại cáo</b>


Được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 sau
Nam quốc sơn hà, Bình Ngơ đại cáo là một tác phẩm xuất sắc mà ở đó ta có thể thấy được
tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi, đó là tấm lịng u nước, thương dân tha thiết, lòng căm
thù quân giặc sâu sắc. Dựa trên việc khẳng định chân lý chủ quyền dân tộc cùng với tư tưởng
nhân nghĩa mới mẻ, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", tác phẩm đã mang đến cho người đọc
những nhận thức chân thực về cuộc chiến chống quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi chia bài
cáo làm 4 phần với 4 nội dung chính, trong đó có một phần phản ánh sự tàn ác của giặc Minh
những năm tháng đô hộ hộ nước ta là phần có vai trị quan trọng trong bài cáo, cần lưu tâm để
càng thấm thía hơn nỗi đau mất nước những năm tháng đã qua.


Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ người đời
dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ, lừa lọc nhân dân
ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất nghĩa thì chẳng chuyện gì
mà khơng vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lịng dân ốn hận ngập trời, "Bọn gian tà bán
nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát
người mình, ơi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.


Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng ra sức
tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những phương thức hết
sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là "Nướng dân đen trên ngọn lửa
hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên tiếp bịp bợm "Dối trời lừa
dân đủ mn nghìn kế", gieo rắc thù ốn hết gần 20 năm trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết,
nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta
thành nô lệ, thành những cơng cụ biết nói, ép nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất


nước mà cung phụng cho chúng.


<i>"Nặng thuế khóa sạch khơng đầm núi.</i>


<i>Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.</i>
<i>Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.</i>


<i>Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.</i>
<i>Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt."</i>


Nhưng những thứ q hiếm ấy có phải đâu dễ tìm, người xuống biển sâu chết không thấy
xác, kẻ lên rừng, vào núi thì hùm beo rình rập. Đã thế chúng cịn bắt nhân dân ta phải tìm cả
những thứ cực quý như chim trả, hươu đen, phải giăng lưới, đặt bẫy có khi chẳng bắt được
mà còn đi nhầm cả vào bẫy thú vật. Ơi thật xót xa cho cảnh khốn khổ tột cùng! Hậu quả để
lại là môi trường liên tiếp bị hủy hoại tàn phá, chim muông cây cỏ cũng chẳng còn chỗ nương
thân, phụ nữ bỗng trở thành kẻ góa bụa, gia đình đang n ổn canh cửi nay cũng thuận đà tan
tác cả, còn đâu chốn làng quê n bình, đẹp đẽ, cịn đâu tiếng người cười nói dẫn nhau ra
đồng, mất hết rồi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

đi nữa vẫn còn lưu trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một
giọng đầy đau đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông
tin vào thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn
có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thốt khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi mà
chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và căm thù dành
cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.


Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm
lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Đồng
thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở thành người đứng về phía
nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu sắc khi quyền sống của nhân dân


bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép
của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn sau này.


<b>7. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngơ đại cáo</b>


Nguyễn Trãi - một nhân vật lịch sử vĩ đại, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất, danh nhân văn hóa dân
tộc và có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn hóa văn học dân tộc. Tác phẩm "Đại
cáo Bình Ngơ" được ơng thừa lệnh vua Lê Lợi viết để tuyên cáo về chiến thắng giặc Ngô
năm 1428, mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, một áng "thiên
cổ hùng văn" của dân tộc. Nội dung bài cáo không chỉ tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca
ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn mang tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc.


Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa trong "Bình Ngơ đại cáo" là tư tưởng chủ đạo, xun suốt
toàn bộ bài cáo, đây là một tư tưởng nhân văn cao đẹp và đề cao giá trị nhân đạo của dân tộc
Việt Nam ta. Theo quan niệm Nho giáo, nhân nghĩa chính là tình nghĩa con người, là mối
quan hệ giữa con người với nhau dựa trên tinh thần yêu thương, đùm bọc và bảo vệ lẫn nhau.
Với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa được quan niệm theo cách cụ thể và cơ bản nhất, phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử dân tộc lúc bấy giờ:


<i>"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"</i>


Nhân nghĩa đối với Nguyễn Trãi cốt nhất hai việc là "trừ bạo" và "yên dân", nghĩa là diệt trừ
các thế lực tàn bạo đày đọa nhân dân, làm cho cuộc sống người dân được yên ổn, ấm no và
hạnh phúc đó mới là nhân nghĩa. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập tới tư tưởng nhân nghĩa
trên những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên ở khía cạnh nào, tư tưởng này vẫn hết sức đúng
đắn và mang ý nghĩa sâu sắc.


Trước hết, nhân nghĩa được gắn với việc khẳng định chủ quyền, độc lập của dân tộc:


<i>"Như nước Đại Việt ta từ trước,</i>


<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu</i>
<i>Núi sông bờ cõi đã chia</i>
<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác..."</i>


Với những dẫn chứng đầy thuyết phục về chủ quyền dân tộc từ nền văn hiến, cương vực lãnh
thổ, phong tục tập quán và các triều đại lịch sử..., tác giả đã khẳng định nền chủ quyền độc
lập dân tộc là điều không thể chối cãi. Chỉ khi khẳng định chủ quyền của dân tộc thì mọi
hành động của ta mới có cơ sở và đúng với nhân nghĩa. Trên lập trường tư tưởng nhân nghĩa,
Nguyễn Trãi đã lên án tố cáo tội ác man rợ của quân xâm lược:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>Dối trời lừa dân đủ mn nghìn kế,</i>
<i>Gây binh kết oán trải hai mươi năm."</i>


Có thể nói, tội ác của giặc Minh là khơng cịn tính người, vơ nhân đạo, từ khủng bố, bóc lột
sức lao động, tàn sát người dân vơ tội đến hách dịch đủ loại thuế khóa, vừa vơ vét cạn kiệt
nguồn tài nguyên lại ra tay phá hoại sản xuất, hủy hoại môi trường sống của nhân dân ta. Tác
giả không chỉ bộc lộ niềm phẫn uất và sự căm thù tận xương tủy của nhân dân trước tội ác
của giặc, mà còn bộc lộ niềm thương xót, đau đớn cùng với nỗi đau của nhân dân. Chính
nhân nghĩa đã gắn kết lịng dân, lịng dân chính là sức mạnh lớn nhất để đánh thắng kẻ thù,
khơng có sức mạnh nào có thể vượt qua được sự đồn kết đồng lịng và quyết tâm của một
dân tộc:


<i>"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,</i>
<i>Lấy chí nhân để thay cường bạo"</i>


Mặc dù giai đoạn đầu của cuộc chiến ta gặp vơ vàn khó khăn, thiếu thốn cả về lương thực lẫn
qn đội nhưng chính nhờ vào lịng dân, sức dân mà ta bước đầu giành thắng lợi, sau đó
nghĩa quân như được tiếp thêm sức mạnh nhờ sự khiếp vía của kẻ thù mà đánh đâu thắng đấy.


Đây chính là quả ngọt của việc hành động nhân nghĩa dựa trên tư tưởng nhân nghĩa. Sau khi
đã giành được thắng lợi hoàn toàn, tinh thần nhân nghĩa của nhân dân ta còn được bộc lộ qua
cách ứng xử với kẻ thù thua trận:


<i>"Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,</i>
<i>ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.</i>


<i>Vương Thơng, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa,</i>
<i>về đến nước mà vẫn tim đập chân run."</i>


</div>

<!--links-->

×