Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tải Phân tích Hạnh phúc của một tang gia - 14 bài văn Hay Chọn Lọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.86 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng Ngữ</b>
<b>văn 11</b>


<b>Dàn ý Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia</b>


<b>I. Mở bài: Giới thiệu Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của</b>
<b>Vũ Trọng Phụng</b>


Ví dụ:


Vũ Trọng Phụng là một nhà văn nổi tiếng, xuất sắc trong nên văn học của
Việt Nam. Đa số các tác phẩm của ông nói về các mảnh đời bất hạnh trong cuộc
sống hay phê phán những lối sống lệch lạc của con người. một trong những tác
phẩm nổi tiếng của ơng đó là Số đỏ, trong chương trình học phổ thơng chúng ta
được học một đoạn trích mang tên Hạnh phúc một tang gia. Đoạn trích phê phán
lối sống lệch lạc và đua địi của một gia đình, chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn
trích.


<b>II. Thân bài: Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của</b>
<b>Vũ Trọng Phụng</b>


<b>1. Nhan đề Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng</b>
<b>Phụng</b>


- Một nhan đề lạ lung, mang đến sự chú ý cho người đọc
- Hạnh phúc, tang gia là chết mà sao hạnh phúc


- Một tình huống trào phúng chủ yếu của tác giả


<b>2. Niêm hạnh phúc của mọi người trong gia đinh khi cụ cố tổ chết</b>
- Niềm vui chung là được chia tài sản của những người trong gia đình



- Đối với mỗi người thì có niềm vui riêng như: diễn trò già yếu, được chia thêm
tiền, diện váy đẹp,..


- Đối với người ngoài: được xem đám tang, được nhìn cơ Tuyết,…
<b>3. Cảnh đám tan:</b>


- Đám tang diễn ra nhố nhăng, lố bịch


- Có sự mâu thuẫn giữa bên ngoài và sự thật bên trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về Hạnh phúc của một tang gia</b>
<b>trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng</b>


Ví dụ


Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một tác phẩm
lột trần sự thật giả dối tại một gia đình phong kiến xưa.


Trên đây là Hướng dẫn lập dàn ý đề bài “Phân tích Hạnh phúc của một tang gia
trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn. Hi
vọng qua bài lập dàn ý bạn đã có được những sự tham khảo để làm văn tốt hơn.
Chúc các bạn thành công, học tập tốt.


<b>Văn mẫu lớp 11</b>


<b>Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia: Bài làm 1</b>


Mỗi khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta đều nhớ tới ơng là “ơng vua phóng
sự của đất Bắc Kì”. Đúng vậy, ơng có một cơng trình đồ sộ về phóng sự và tiểu


thuyết, với các tác phẩm bất hủ như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố (1936)…
Nhưng có lẽ bạn đọc nhớ nhất đến tiểu thuyết “Số Đỏ” của ông. Với những sự
thật xã hội bấy giờ được tác giả thêu dệt lại qua lăng kính của mình. Đặc biệt
đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã nêu lên được những nét chủ đạo
của câu chuyện và thấy được bút pháp trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.
Trong đoạn trích này chủ yếu nói về cái chết và đám tang Cụ tổ được tái hiện
lên như một màn hài kịch. Có rất nhiều tình tiết và các bộ mặt khác nhau trong
đám ma điều này dẫn đến một đám ma đau thương trở thành một đám ma đáng
cười xót xa. Chính cái chết của cụ tổ cho thấy đây là một cái chết vừa đáng cười
vừa đáng khóc. Vì sao lại vậy? Khóc vì đạo đức của một bộ phận con người suy
đồi đến cực độ, cha chết, ông chết mà “bọn con cháu vơ tâm ai cũng sung sướng
thỏa thích”. “Cái chết của ông già hơn 80 tuổi” đã làm cho nhiều người sung
sướng lắm”. Ai cũng nghĩ đến cái lợi cho mình, như vậy, đúng với cái nhan đề
của đoạn trích tưởng như lố bịch của cuộc sống đời thường, nhưng không “Hạnh
phúc của một tang gia” lại đúng khi cụ tổ mất. Những tiếng khóc, sự “báo hiếu”
của con cháu thực chất là sự khoe giàu sang với thiên hạ. Bằng ngịi bút trào
phúc, châm biếm, đả kích của tác giả, làm cho đoạn trích các nhân vật được hiện
lên rất đáng cười, những tiếng cười ra nước mắt.


Để thấy được hạnh phúc của gia đình khi cụ tổ mất tác giả đã đi vào từng nhân
vật để thấy được họ đang xót thương đau buồn hay biến đám ma của cụ cố tổ
vào mục đích của bản thân?


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bên cạnh cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN lại tỏ ra vui mừng khôn xiết
trước cái chết của ông nội và đây cũng là một cơ hội để ông đưa nền văn minh
Á-Âu vào quảng cáo ở đám tang. Thật đau lòng thay, một đám ma hay là mọt
phiên chợ để con cái mang ra quảng cáo, kinh doanh. Hay chính bà văn Minh thì
lại vui mừng vì đây là dịp để chưng diện đồ xơ gai tân thời, cái mũ mấn trắng,
viền đen. Đúng là sự vô ơn bạc nghĩa của những kẻ vô học thức.



Trong đoạn trích tác giả cịn nói về cơ Tuyết, đến đám ma nhưng lại mặc bộ y
phục gây thơ “Cái áo voan mỏng trong cooc-sê, hở cả nách cả vú” tưởng như tác
giả tả hơi quá, nhưng không chỉ ở cách ăn mặc mà cơ Tuyết này cịn thể hiện ở
cả tính cách, sự lẳng lơ, tưởng như vẻ mặt buồn vì đám tang, nhưng đây là nỗi
buồn nhớ người tình.


Hết đến cơ Tuyết lại đến cậu Tú Tấn, vui mừng vì cái máy ảnh đã được đem ra
sử dụng vì Cậu mua đã lâu mà khơng dùng, thật ngỗ nghịch khi đám ma mà lại
giẫm lên các ngôi mộ để chụp ảnh, tạo kiểu như một nhà nhiếp ảnh gia chun
nghiệp.


Hay chính ơng Phán Mọc Sừng vui mừng vì cái sừng trên đầu mình được hưởng
thêm tiền sau khi đám ma xong. Trong khi đó Xn Tóc Đỏ thì danh tiếng lại
càng nhiều hơn và càng được nhiều người tơn trọng vì đã có cơng trong cái chết
của cụ Tổ.


Khơng chỉ có những người nhà của cụ cố tổ sung sướng ra mặt mà cịn những
người ở ngồi cũng góp một phần vào niềm hạnh phúc của gia đình khi đang có
tang. Là đám ma nhưng lại có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng như thế khác
nào một đám rước? Hay có cả kèn ta, kèn tây sự lố lăng của sự “âu hóa”. Hay tại
chính đám ma này cũng là cơ hội cho những “nam thanh nữ tú” “chim cò” nhau.
Thật đáng lên án thay.


Qua việc thêu dệt lại các nhân vật bằng lăng kích của tác giả đã thể hiện rõ được
sự lố bịch, tây-ta lẫn lộn của những học giả đòi làm sang. Bằng ngịi bút châm
biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại lúc thì biếm họa. Lúc tưởng như
đáng đau buồn đau thương nhất nhưng lại là những niềm hạnh phúc được vỡ ào
của những con cháu bất nhân, bất hiếu. Hay đáng lẽ là sự đau thương, đau buồn,
thì lại là sự phơ của, sự tình tứ nhau…Từ trang chủ, bọn con cháu, hay chính
những người quan khách đến viếng đều là những vai hề. Không phải tự nhiên


mà Vũ Trọng Phụng lại viết “Người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm
cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu.” Đây là một chi tiết nhỏ nhưng cũng
để cho người đọc thấy được giọng điệu mỉa mai của tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cũng qua đây cho ta thấy được sự tinh tế, đặc sắc trong việc lột tả hiện thực xã
hội của Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.


<b>Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia: Bài làm 2</b>


Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ
nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ
Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến
nửa đầu thế ki XX. Dưới ngịi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn
nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng
là chương Hạnh phúc của một tang gia.


Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có
tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng náo, ấy vậy mà
lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hồn cảnh cụ thể của gia
đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui
như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy
đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người
mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là
những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.


Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành cơng những tình huống điển hình
để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ
có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.



Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu,
họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của
cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi - một “hạnh phúc”:
Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai
cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi
phường kèn, thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng
giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ơng ta mà lại to đến thế!


Khơng khí của đám ma là khơng khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu
thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất
to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay., Có đủ cả kiệu bát cống, lợn
quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm
người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ
thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn
rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…


Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt
quần áo Âu hoá mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo
của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ
khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà
có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ơng khi trơng thấy làn da trắng thập
thị trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động cịn hơn nghe
tiếng kèn… ai ốn, não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh
cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…


Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách
của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy
những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh,


Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn,
hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quản…Đám phụ nữ
quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học địi phong trào Âu hố,
vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò
nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu
của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với
người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.


Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to
đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố
nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát
có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng,
nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!


Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến
mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và
bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

loẹt, om sòm kia đều trở thành vơ nghĩa, thành trị cười cho thiên hạ. Những kẻ
có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vơ đạo đức.


Xn Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh
cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và
gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một
đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm
sung sướng: Ấy, giả khơng có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông
Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm
động mà liếc mắt đưa tình với hắn.


Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả


nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn:
cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để
cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác
mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười
ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ơng Phán mọc sừng:
ơng oặt người đi, khóc mãi khơng thơi và tiếng khóc của ơng thật đặc biệt: Hức!
Hức! Hức. Ơng thương cho người đã khuất chăng? Khơng phải! Ơng đang đóng
kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia
phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ơng.
Miệng khóc, tay ơng Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc
năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ
hàng nhà vợ, nhờ đó mà ơng ta có thêm được một món tiền lớn.


Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài
kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà
như khơng phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến
các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên
những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một
màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự
xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản
chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.


<b>Bài văn mẫu 3</b>


Ở đời, có mấy ai là "sung sướng", "hạnh phúc", "vui vẻ" trước cái chết của con
người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù khơng đội trời chung. Huống chi đó lại là
cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể
lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một "tang gia" trong
tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại "hạnh phúc" thật, lại "nhiều người
sung sướng lắm", lại "ai cũng vui vẻ cả"...!



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đới" đã tỏ ra rất thoải mái, ung dung trong khi làm chủ thứ nghệ thuật này.
Thậm chí, ơng cịn nắm được nhiều bí quyết tạo tiếng cười. Chỉ cần đọc kĩ một
chương, chương XV chẳng hạn, cũng thấy rõ điều này.


Nội dung chương truyện có thể tóm tắt như sau: Cụ Tổ họ Hồng đã ngoài tám
mươi tuổi mà cứ "sống mãi" (!) Đám con cháu hám danh hám lợi trong nhà chỉ
mong cho ông lão này sớm chết. Ước mong này thành hiện thực khi Xuân Tóc
Đỏ - trong một lần "nổi giận" vì tự ái, đã om sịm "tố cáo" trước mặt mọi người
rằng ông Phán dây thép, cháu rể cụ Tổ (chồng cơ Hồng Hơn) là "một người
chồng mọc sừng". Việc tố cáo đó - thực ra, do ông Phán dây thép thuê Xuân làm
với giá 10 đồng - đã trực tiếp gây ra cái "chết thật" của cụ cố Tổ và có cái đám
tang kì lạ này.


Tên đầy đủ của chương truyện này có vẻ rườm rà và thiếu mạch lạc một cách
đầy dụng ý: Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cũng nói vào - Một
đám ma gương mẫu. Thật là một cái tên xứng với những gì mà nhà văn miêu tả,
trần thuật và muốn nói trong chương truyện. Nó chứa đựng cái bất thường mang
mâu thuẫn trào phúng ("Hạnh phúc của một tang gia...".), nó dự báo những bất
đồng giữa "phái trẻ", "phái già" cần phải hòa giải (Văn Minh nữa cũng nói
vào...), và nó bao hàm cả cái "chuẩn mực" đáng hãnh diện và đáng cho những
đám ma khác phải noi theo (Một đám ma gương mẫu).


Tuy nhiên, chỉ riêng sáu chữ Hạnh phúc của một tang gia thôi cũng đã cơ đặc
trong đó những cái bất thường và những mâu thuẫn trào phúng của toàn bộ màn
hài kịch hoành tráng mà các nhân vật Số đỏ đang diễn trong chương này.


Mất người thân là mất mát khơng gì bù đắp được, nỗi buồn của tang gia thường
được xem là nỗi buồn sâu sắc nhất - thành ngữ dân gian thường ví von "buồn
như cha chết", "buồn như nhà có đám"; cịn chủ nhân những nhà có đám tang


thường được xem là "khổ chủ" - cho nên, hai chữ tang gia thường gợi lên cả một
cộng đồng gia đình khổ đau, bất hạnh.


Nhưng cái tang gia này thì lại không thế: Cả tang gia ai cũng hạnh phúc, vui
sướng. Niềm hạnh phúc, vui sướng tốt ra từ khơng khí và bức tranh toàn cảnh
của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, những lời bình, lời kể hài hước của
tác giả, kiểu như "Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm" hay "tang
gia ai cũng vui vẻ cả", "người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám
ma",... được sử dụng khá dày đặc trong đoạn trích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

"khơng ngờ rằng giá trị đơi sừng hươu vơ hình trên đầu ơng ta mà lại to đến như
thế".


Cụ cố Hồng, ơng con trai trưởng "chí hiếu" của "người chết" thì sung sướng đến
ngây ngất, vì nhờ cái "chết thật" của cha mình, nhờ có đám tang này mà cái
danh giá sang trọng của ông sẽ được nâng lên nhiều bậc. Cụ "nhắm nghiền mắt
lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc
vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: - Úi kìa, con giai nhớn đã già đến
thế kia kìa!". Và, "cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái
đám ma như thế, một cái gậy như thế...".


Văn Minh (chồng), ơng cháu đích tơn "chí hiếu" của "người chết" thì chỉ nóng
lịng "mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ơng nội mà thơi". Ơng sung
sướng, vì nhờ cái "chết thật" của ơng nội mình mà "cái chúc thư" chia của kia sẽ
có hiệu lực thật sự "chứ khơng cịn là lý thuyết viển vơng nữa".


Rồi, cậu Tú Tân sung sướng vì nhờ cái "chết thật" của ơng nội mà sắp được
dùng đến mấy cái máy ảnh mới mua; Văn Minh (vợ) sung sướng bởi sắp được
chưng diện mốt tang phục mới; ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê
các mẫu thời trang mà ơng dày công thiết kế cho đám tang, v.v.



Con cháu trong nhà, mỗi người một niềm hạnh phúc riêng đã đành, ngay đến
các ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ cái "chết thật" của cụ tổ mà được
thơm lây: họ "sung sướng cực điểm", "vì được có đám th", "đã trơng nom rất
hết lịng". Sư cụ Tăng Phú thì "sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe,
vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người
nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo..."


Cụ bà thì "sung sướng vì ơng đốc Xn đã khơng giận mà lại giúp đám, phúng
viếng đến thế, và đám ma như thế kể đã là danh giá nhất tất cả". Đó là chưa kể,
các "giai thanh gái lịch" Hà thành, nhờ có đám tang mà được "chim nhau, cười
tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tng nhau, hẹn hị nhau,...";
các q ơng "tai to mặt lớn" thì được dịp phô diễn râu ria đủ kiểu trên cằm trên
mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực, trên mình v.v.


Thậm chí, đến cả "cụ tổ" cũng nhờ cái "chết thật" của chính mình mà được sung
sướng: "Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài
cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu...!" Nỗi sung sướng,
hạnh phúc bất thường, kỳ dị, thậm chí quái gở này, qua ngịi bút Vũ Trọng
Phụng, như có sức lây lan rất rộng, rất sâu: từ người bề trên đến người bề dưới,
từ người trong tang gia đến người ngoài tang gia, từ "khổ chủ" đến khách "đi
đưa" đám, từ người sống đến "người chết".


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

bờ bến và niềm sung sướng đúng là khơng cịn bỏ sót ai. Vũ Trọng Phụng quả là
người thích đùa và rất biết đùa.


Trong đám ma, niềm vui là thật, nỗi buồn là giả, cũng có nghĩa rằng cái đám ma
kia tất cả là giả. Cái khó của nhà văn là phải lật tẩy sao cho người ta thấy rõ cái
giả ấy đã đành mà cịn phải thấy cả tính chất lập lờ giữa cái giả với cái thật. Đã
là cái giả, cái rởm thì phải mơ phỏng cái thật, cố tình giống thật nhưng thường


khơng bao giờ hồn tồn giống thật. Thế là xuất hiện mâu thuẫn. Rốt cuộc thì
rồi chân tướng thật, giả cũng đến lúc phải tự phơi bày.


Một đám ma mà thiếu sự buồn đau và lòng thương tiếc chân thành, thì dù "to
tát", "danh giá" đến đâu, cũng chỉ là thứ trị diễn nhố nhăng, khơng thể gọi là
đám ma đã đành mà cũng không thể gọi là đám rước đám hội. Mâu thuẫn
thật-giả được nhà văn khai thác khá triệt để nhằm phóng to cái bất thường, kỳ dị làm
bật ra tiếng cười phê phán.


Quả thật, trong cái xã hội "số đỏ" đầy rẫy những thứ rởm đời bấy giờ, khơng có
cái gì là khơng làm giả, làm rởm được. Một khi đã có bằng sắc rởm; nghệ thuật,
thi ca, khoa học rởm; văn minh "Âu hóa" rởm; tơn giáo rởm,... thì cũng có thể
có chuyện buồn đau, tang chế rởm lắm chứ. Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh
tường, sắc sảo của nhà văn, tất cả, cuối cùng, sự thật đã trở lại đúng với bản chất
của nó.


Câu văn mở đầu đoạn trích hàm chứa một sự đối chiếu thật - giả rất thâm thúy:
"Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.". Nhìn từ phía tác giả, câu văn này ẩn giấu
một nụ cười châm biếm (chết mà cũng có "chết thật", chết giả?). Nhìn từ phía
nhân vật (đám cháu con chí hiếu) nó ẩn giấu một tiếng reo mừng. Cụ tổ hẳn đã
có những phen "chết giả" làm cho đám cháu con kia hụt hẫng thất vọng, và cả
tang gia đã chờ đợi cái "chết thật" này q lâu rồi. Cho nên, khi ơng cụ "chết
thật" thì người ta tất phải vui sướng hạnh phúc tột cùng. Và, tang gia "ai cũng"
"hạnh phúc", "vui vẻ cả"..., nhận xét này đã vang lên trong chương truyện như là
một điệp khúc đầy mỉa mai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Trong khi kể về "hạnh phúc" của "tang gia", một mặt, tôn trọng hiện thực, Vũ
Trọng Phụng cố tình tạo ra sự mập mờ giữa cái thật và cái giả đúng như cái hiện
thực xã hội vốn có: vàng thau lẫn lộn, đen trắng mập mờ. Nhưng mặt khác, ông
cũng tỉnh táo vạch ra những đường biên cần thiết, giữa vàng thau, đen trắng và


lật tẩy cái giả một cách thật tài tình.


Cả đám tang thực ra chỉ là một màn kịch, một trò diễn lớn, được dàn dựng theo
đúng ý của người nọ người kia. Các cụm từ "đúng với ý muốn...", "như ý..."
trong đoạn văn sau được dùng rất ý vị nhằm lật tẩy tính chất trị diễn ấy của đám
ma:


"Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ
cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu
hố như ý ơng Typn và bà Văn Minh.",...


"Ý muốn của cụ cố Hồng", "ý ông Typn và bà Văn Minh" gợi nhớ đến ý của cậu
Tú Tân qua hành vi: "bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu,
hoặc cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế nọ,... để cậu chụp ảnh
kỉ niệm lúc hạ huyệt.". Vũ Trọng Phụng như nhà nhiếp ảnh đã "chụp
ảnh"-nghĩa là bấm đúng lúc- và lật tẩy được tất cả. Nói chung, sự lật tẩy của tác giả
càng bất ngờ thì càng thú vị, hài hước.


Đọc chương truyện, có cảm giác như khơng một hành vi giả tạo nào của đám
con cháu "chí hiếu" - dù rất nhỏ - qua được mắt ông. Nhưng điều đặc biệt thú vị
là sự lật tẩy của nhà văn thường tạo được bất ngờ. Nhờ thế, tiếng cười mỉa mai
bật ra một cách tự nhiên, sâu sắc. Ông lật tẩy Văn Minh chồng:


"Ơng phân vân, vị đầu rứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành
thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ơng thật đúng với cái mặt một người lúc
gia đình đương là tang gia bối rối." Ơng lật tẩy cơ Tuyết: "Hơm nay, Tuyết mặc
bộ y phục Ngây thơ - cái áo dài voan mỏng trong có ccsê, trơng như hở cả
nách và nửa vú - nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh.


Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho


thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Với cái tráp trầu cau và
thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng
mạn rất đúng mốt một nhà có đám." Ơng lật tẩy "các ơng tai to mặt lớn": "...
Nhiều ơng tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trơng thấy làn da trắng
thập thị trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy cũng đều cảm
động hơn những khi nghe tiếng kèn Xn nữ ai ốn, não nùng."


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tng nhau, hẹn hị nhau, bằng những
vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma."


Ơng lật tẩy cả bầy con cháu "chí hiếu": "Một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng
ruột đem chơn cho chóng cái xác chết của cụ tổ." Và sắc sảo, bất ngờ nhất là
việc ông lật tẩy cuộc "thanh tốn hợp đồng" kín đáo, tinh vi giữa ơng Phán mọc
sừng và Xuân Tóc Đỏ: "Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên
cạnh ông phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng mếu máo và ngất đi thì ơng này cũng
khóc to "Hứt!... Hứt!... Hứt!...". Ai cũng để ý đến ơng cháu rể q hóa ấy.


Ơng ta khóc q, muốn lặng đi thì may có Xn đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi
cũng khơng làm sao cho ơng đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng,
cái áo thụng lịe xịe, ơng phán cứ oặt người đi, khóc mãi khơng thơi. - Hứt!...
Hứt!... Hứt!... Xn tóc đỏ muốn bỏ qch tay ra thì chợt thấy ơng phán dúi tay
nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư... Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy
rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn
về những điều sơ suất của khổ chủ."


Cái nhìn trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng thường tìm đến với các hình
thức nghệ thuật tương xứng. Từ cách bố cục kếu cấu đến cách sử dụng ngôn từ
của ông đều đậm chất muối trào phúng. Ở cấp độ kết cấu, hai thủ pháp chủ yếu
thường được nhà văn sử dụng khá đắt: a) kết hợp tả viễn cảnh với tả cận cảnh;
b) tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện.


Việc kết hợp tả viễn cảnh với cận cảnh mang tính nghệ thuật cao nhất là đoạn kể
về việc "cất đám", "đưa đám" và "hạ huyệt". Ở đó, sự kết hợp tự nhiên giữa cận
và viễn rất hài hịa, tự nhiên, nhưng viễn hay cận đều có chức năng nghệ thuật
riêng. Các câu, đoạn tả viễn cảnh - chẳng hạn: "Đám ma đưa đến đâu làm huyên
náo đến đấy....", "Đám cứ đi...", "Đám cứ đi..."- thường làm cho người ta có cái
cảm giác là đám ma rất to tát, linh đình, "gương mẫu". (Mà người đời thì vẫn
hay đo lòng hiếu nghĩa của tang gia bằng mức độ to tát, linh đình ấy).


Trong khi đó, các câu, đoạn tả cận cảnh và đơi khi đặc tả, thì lại làm cho người
ta có thể soi vào từng góc khuất, hay hành vi, chi tiết nhỏ nhất để thấy hết cái
giả dối, rởm đời, nhố nhăng, kỳ quặc và "vô nghĩa lý" của cái đám tang này. Rõ
ràng là chỉ khi soi mắt nhìn vào từng góc khuất, từng hành vi nhỏ nhặt thì mới
thấy được sự thật này: "Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì
vẫn thì thầm với nhau chuyện trị về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm,
một cái áo mới may.", hoặc: "Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ qch ra thì chợt thấy ơng
Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư...".


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Bên cạnh việc kết hợp giữa miêu tả viễn và cận cạnh, nhà văn còn sử dụng hợp
lý kỹ thuật tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu
chuyện. Chẳng hạn, sau khi ông già "chết thật", đã "được quan trên khám đã qua
loa", niềm vui của đám cháu con tưởng đã có thể nở rộ, thì vì một lý do nào đó,
sự sung sướng có nguy cơ bị hỗn lại. Lập tức có bao nhiêu phản ứng chỉ trích
lẫn nhau giữa "phái trẻ" với "phái già":


"Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu
tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu
không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ
xô gai tân thơi, cái mũ mấn trắng viền đen - dernières créations.


Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng-xê ra thì có thể ban


cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh
phúc ở đời. Ơng Typn rất bực mình vì mãi khơng được thấy những sự chế tạo
của mình ra mắt cơng chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi
cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hỗn, cụ cố Hồng
cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi.


Vậy đấy, người trong tang gia đã phải "la ó lên...", "điên người lên...", sốt cả
ruột", "rất bực mình", "đổ lỗi cho...", "kêu khổ lắm",... Câu chuyện trở nên căng
thẳng và giàu kịch tính hẳn lên. Lệnh phát phục chỉ mới trì hỗn có một ngày
mà người ta đã bực dọc, sốt ruột, đau khổ như vậy, giả sử ông già tám mươi này
cứ "sống mãi" thì họ cịn bực dọc, sốt ruột, đau khổ đến mức nào. Thế mới biết,
có được niềm "hạnh phúc" như của "tang gia" này cũng khơng dễ dàng gì. Ở cấp
độ ngôn từ, chất muối trào phúng được cô đặc trong một số hình thức câu văn
nói mỉa.


Có khi nhà văn mỉa mai bằng lời văn có chứa các cụm từ phản nghĩa, ngược
nghĩa. Ví dụ cụm từ "hạnh phúc của một tang gia" trong nhan đề đoạn trích,
hoặc cụm từ "công hiệu đến nỗi họ mất mạng" trong đoạn văn nói về "thuốc
thánh" đền Bia ("Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa
một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, cơng
hiệu đến nỗi họ mất mạng.").


Có khi ông mỉa mai bằng câu văn viết theo lối nói ngược. Chẳng hạn, sau khi
ghi lại hàng loạt câu nói "thì thào" trơ trẽn, nhảm nhí của đám "trai thanh gái
lịch" đến dự đám tang, tác giả viết: "Và cịn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác
nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma."


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Vũ Trọng Phụng là nhà văn của trào lưu văn học hiện thực với các tác phẩm ông
lên án xã hội đương thời. Đặc biệt là tác phẩm Số đỏ đã khắc họa rõ xã hội
đương thời một xã hội bị thực dân Pháp cầm quyền. Đoạn trích Hạnh phúc của


một tang gia đã tái hiện cảnh tang gia của gia đình cụ cố Hồng với những sự lố
bịch, kịch cỡn nhất.


Cảnh tang gia bối rối khi có thơng báo cụ cố Tổ chết. Điểm nhìn được đặt vào
đám con cháu. Nguyên nhân là do các thành viên vui vẻ vì cụ cố Tổ chết tờ di
trúc đã đi vào thực hiện để được chia gia tài. Gia đình chuẩn bị đám tang với gia
đình cụ cố Hồng rất bận rộn chuẩn bị. Trên gác vợ chồng cố Hồng tranh cãi về
việc lấy chồng của Tuyết, dưới nhà con cháu sôi sục giờ phát phục đưa tang
thực hiện những công việc mong muốn, buôn bán khoa khoang tiền tài danh
vọng. Đám tang với lễ tiết, hình thức cùng nội dung chuẩn bị chu đáo.


Cụ cố Hồng cha Văn Minh con trai cụ cố Tổ người cao tuổi nhất trong gia đình
lại thích mọi người nhìn mình già, thích nghe gọi cụ đó là sở thích qi dị, chi
tiết trào phúng là linh hồn toàn tác phẩm. Trong lúc gia đình nhốn nháo... "Biết
rồi, khổ lắm, nói mãi" bối rối, gắt gỏng, lo liệu phù hợp với đám tang nhưng cụ
chẳng biết gì, phát ngơn như con vẹt. Ung dung ngồi hút 60 điếu thuốc viện tỏ
vẻ đăm chiêu nhưng biểu hiện cho một trạng thái không chút buồn đau che dấu
một sự trù tính, khoe mẽ bên trong. Chi tiết "nhắm nghiền mắt" tỏ vẻ bối rối
nhưng đang mơ đến giây phút mình được diễn trịn vai một người con già cả có
hiếu. Chi tiết kết hợp với giọng điệu mỉa mai, bút pháp khoa trương làm bật lên
hình ảnh cụ cố địa diện cho bọn chọc phú hãnh diện trong xã hội đương thời.
Ông Văn Minh với vẻ bề ngồi vị đầu rứt tóc, phân vân đăm đăm, chiêu chiêu
bên trong thì lo mời luật sư để chứng kiến cái chết của ông nội để chúc thư kia
đi vào thời kì thực hiên.


Bà Văn Minh sốt ruột vì khơng được lăng xê tân thời diễn thời trang. Cịn Văn
Minh lại nghĩ đến Xn tóc đỏ người có cơng nhiều nhất dẫn đến cái chết của cụ
cố Tổ. Mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài với nội dung bên trong để thấy Văn Minh
hiện lên bất hiếu cái chết của ông nội đơn thuần là việc kinh doanh.



Cụ Tú Tân với vẻ bề ngoài điên người lên, bên trong sốt ruột chờ đợi được dùng
máy ảnh chưa bao giờ sử dụng. Đám tang là thời cơ để cậu thể hiện tài năng. Đó
là một kẻ háo tài. Cịn Phán mọc sừng là người sung sướng nhất ngỡ ngàng với
giá trị to lớn của cặp sừng. Đó là người vơ đạo vơ sỉ khơng có liêm sỉ, sung
sướng vì được cho thêm tiền. Đồng tiền với phán mọc sừng cao hơn cả hạnh
phúc, cả danh dự.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

số phận những người sống trong xã hội này, những con người trở thành con dối
của xã hội.


Đặc biệt cảnh đưa đám và cảnh hạ huyệt đã nói lên hồn tồn xã hội đó. Khâu
chuẩn bị náo nhiệt bao nhiêu thì thì lúc đưa lại náo nhiệt bấy nhiêu. Đám tang to
tát, sang trọng đám tang đi đến đâu làm huyên náo thành phố đến thế bởi sự phô
trương, đám tang hổ nốn, hỗn tạp có sự pha trộn nhiều văn hóa. Những người
đưa đám đủ thành phần, đủ đối tượng, cảnh sát, từ đám quan khách to đến người
nghèo hèn. Tất cả không ai quan tâm đến người đã khuất mặc dù họ có vẻ bề
ngồi rất hợp đám tang. Đám tang vang lên hai lớp âm thanh: khóc lóc những
người trong tang gia đó là tiếng khóc giả khơng đau thương và âm thanh trò
chuyện của những người đưa đám. Đã vẽ ra một xã hội bịp bợm ln khốc trên
mình chiếc áo đạo đức giả cố tô son chát phấn.


Cảnh cử hành tang lễ "đám cứ đi" tồn tại vẫn diễn ra. Câu khẳng định kết hợp
dấu hiệu ba chấm của tác giả khẳng định đám tang giả dối bề ngoài tranh
nghiêm, cận cảnh lố bịch. Sự giả dối ấy vẫn tồn tại vẫn được chấp nhận. Phải
chăng "chó điểu" với những con người vơ nghĩa lí.


Cảnh hạ huyệt là cảnh trào phúng lố bịch nhất với chi tiết cậu Tú Tân luộm
thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một để chụp ảnh. Cậu
làm đạo diễn cho một màn hài kịch được lập ngay trên màn hạ huyệt. Đám rước
đám hội chứ không phải đám ma. Chi tiết ơng phán mọc sừng khóc to mãi


khơng thơi cả đại gia đình phải ghi nhớ cơng ơn. Âm thanh "Hứt!...Hứt!" thoạt
nghe tưởng tiếng khóc của con trai nhưng nghe kĩ là tiếng hất đất thật nhanh để
về chia tài sản. Hay tiếng hất của tác giả muốn hất cả đất trời. Chi tiết ông phán
dúi Xuân tờ giấy bạc năm đồng gấp tư để cảm ơn Xuân là chi tiết trào phúng
tinh vi nhất là đỉnh cao sự giả dối bới đây là giờ phút từ biệt sinh li dành sự quân
tâm cho người đã khuất mà vẫn còn thời gian nghĩ đến tiền. Lợi dụng cái chết
của người thân để kiếm tiền.


Qua cái chết cảu cụ cố Tổ niềm vui khơng chỉ dừng lại trong gia đình mà cịn
lan ra ngồi xa hội. Đoạn đức gia đình bang loạn, đọa đức xã hội khơng có. Cả
đám tang là sân khấu kịch đời và đám con cháu là diễn viên đẹp nhất, con cháu
bất nhân, xã hội vô đạo đều vì tiền, tình, danh lợi.


Tác phẩm đã khắc họa bức tranh xã hội lúc bấy giờ với quyền lực của đồng tiền
đặt lên trên tình cảm người thân trong gia đình. Từ đó mà tác giả muốn lên tiếng
phê phán và là bài học cho chúng ta đế thấy được gia đình ln là điều quan
trọng nhất.


<b>Bài làm 5</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

xót xa cho sự suy đồi của những giá trị đạo đức tốt đẹp. Chương XV của tác
phẩm – Hạnh phúc của một tang gia là đoạn trích tiêu biểu cho cảm hứng trào
phúng, phê phán này. Nhận xét về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia cũng
như tiểu thuyết “Số đỏ”, có ý kiến cho rằng “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng như
một tấn trò đời của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát”.
“Tấn trò đời” là tác phẩm tập hợp 97 tiểu thuyết đặc sắc của “bậc thầy chủ
nghĩa hiện thực” Balzac. Qua Tấn trò đời là bức tranh hiện thực rộng lớn của xã
hội Pháp trong những năm nửa đầu thế kỉ XIX. “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là
bức tranh xã hội thực dân nửa phong kiến với sự suy đồi của giai cấp địa chủ đại
tư sản. Chính sự tương đồng trong nội dung phản ánh đã gợi liên tưởng “Số đỏ”


của Việt Nam chính là “Tấn trị đời” của nền văn học cổ điển Pháp.


“Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ, đoạn
trích nói về đám tang của cụ cố Tổ. Thơng qua những tình huống hài hước, tác
giả Vũ Trọng Phụng đã vạch trần cái lố lăng của các nhân vật trong câu chuyện.
Bút pháp trào phúng quen thuộc đã thể hiện ấn tượng về niềm vui sướng, hạnh
phúc của những thành viên trong gia đình cố Hồng trước sự ra đi của cụ cố Tổ.
Ngay tên của đoạn trích đã thể hiện được cái bi hài kịch trong gia đình đại tư
sản danh giá “hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thăng
hoa, vui sướng khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó của cuộc sống, cịn “tang
gia” lại chỉ gia đình có tang, gắn với sự mất mát về tình cảm. Theo lẽ thường,
một gia đình có tang thì khơng khí bao trùm sẽ là nỗi đau thương, sự mất mát về
người và tình cảm. Nhưng đám tang của cụ cố Tổ lại thật lạ lùng, bởi đám tang
tuy có sự mất mát về người nhưng lại có thể mang đến hạnh phúc, sự thỏa mãn
cho tất cả các thành viên trong gia đình và ngồi gia đình.


Cố Hồng – con trai của cụ cố Tổ cảm thấy vui sướng vì được mặc áo xơ gai,
chống gậy “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, chống gậy…”. Trong
suốt đám tang, cố Hồng ln tỏ ra già yếu, lẩn thẩn cùng câu nói cửa miệng
quen thuộc “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Niềm vui sướng của nhân vật này khi
cha của mình mất chính là muốn nghe lời trầm trồ, tán thưởng của mọi người
trong khu phố, muốn phô ra cái phúc của một gia đình đại tư sản, rằng con trai
già bố mới mất. Vợ chồng Văn Minh là con cả của Cố Hồng, theo lẽ thường cần
đứng ra lo chu toàn ma chay cho ông nhưng vấn đề mà vợ chồng Văn Minh
quan tâm lại là việc thừa kế “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực
hành” và việc nên hay không nên cưới chạy tang cho cô Tuyết.


Phán Mọc Sừng cảm thấy lâng lâng hạnh phúc vì được thêm một số tiền kha
khá, cậu Tú Tân cảm thấy hạnh phúc vì được chụp ảnh “sướng điên người vì có
dịp thi thố tài năng chụp ảnh”. Cơ Tuyết diện lên mình bộ trang phục ngây thơ


không phù hợp bối cảnh. Mọi cái lố lăng, rởm đời được phô bày một cách rõ nét
mang đến tấn bi hài cười ra nước mắt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

lăng, nơi những giá trị đạo đức bị coi nhẹ, chà đạp để trở thành thứ bi hài trong
cuộc sống. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã mỉa mai, chễ giễu đầy
sâu cay với đám ma khác đời, có một khơng hai này “thật là một đám ma có thể
làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không
gật gù cái đầu”.


Số đỏ là lời lên án sâu sắc cái đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến,
cũng là tiếng khóc xót thương cho sự ra đi của những giá trị đạo đức. “Hạnh
phúc của một tang gia” là tấn bi hài cười ra nước mắt mà Vũ Trọng Phụng đã tái
dựng đầy thành công.


<b>Bài làm 6</b>


Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học
VN. Có lẽ đặc sắc nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của 1 tang gia” được trích từ
tác phẩm “Số đỏ”. Tác phẩm như một lời phê phán cái sự lố lăng, đồi bại của xã
hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Đó là những đứa con, cháu bất hiếu đã đi trái lại
với truyền thống đạo đức của dân tộc ta.


“Hạnh phúc của 1 tang gia” tác giả xây dựng nhan đề đầy kịch tính, đơn
thuần lúc bình thường nếu như gia đình có người mất thì tất cả đều phải đau
buồn và tiếc thương chứ, vậy mà ở đây chứ đựng 1 nghịch lí: mọi người ln
bận rộn lo toan để tổ chức 1 đám tang chu đáo linh đình như 1 đám rước với lại
cịn vui mừng nữa chứ, những người vui mừng đó khơng phải ai khác đó chính
là những đứa con cháu của cụ cố tổ. Ở đây Vũ Trọng Phụng thực sự gây chú ý
cho người đọc và làm bật lên tiếng cười phê phán rất lớn. Đã từ lâu mọi người
trong cái gia đình này rất mong cụ cố tổ chết để được hưởng hạnh phúc. Mọi


người đều có một niềm hạnh phúc riêng từ cái chết ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Cậu Tú Tân thì có dịp khoe khoang tài chụp ảnh và có cơ hội giải trí, trong
những đứa con cháu ấy dường như ai cũng có 1 niềm vui riêng nhưng có lẽ
người vui sướng nhất là ông Phán mọc sừng một kẻ trục lợi từ cái chết của cụ tổ
và là 1 kẻ hám tiền, vô liêm sĩ, ông rất vui mừng vì được chia món tiền lớn từ
“đơi sừng” vơ hình trên đầu của mình có ai mà lại vui khi mình bị vợ cắm sừng
mà lại được thêm tiền vì “đôi sừng” ấy chứ! Đúng là 1 kẻ vô liêm sỉ. Vì món
tiền được chia mà ơng bàn việc làm ăn với Xn tóc đỏ để thu thêm lợi cho
mình. Bằng cách nói dí dởm và nghệ thuật đối lập tác giả đã chỉ ra họ là những
đứa con cháu hám danh, bất hiếu, vô đạo đức đã chà đạp lên đạo lí làm người
cũng như truyền thống văn hóa của dân tộc. Những người trong gia đình đã thế
thì những người ngồi gia đình càng vui hơn khi họ được những phần lợi nhuận
từ cái chết ấy như hai viên cảnh sát Min-đơ & Min-toa đang lúc thất nghiệp lại
có việc làm và dỉ nhiên là có tiền, các bạn của cụ cố Hồng thì có dịp để khoe
khoang nào là những huy chương: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh... đến những
bộ râu trên mép trên cằm, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc dài hoặc ngắn, còn
các trai thanh gái lịch thì có dịp hẹn hị nhau, tán tỉnh nhau, chim nhau, cười tình
với nhau đủ mọi thứ chuyện. Thật là một cảnh dở khóc dở cười của những kẻ
trai thanh, gái lịch. Đám ma ở đây chúng ta thấy khơng có sự thương tiếc, đau
xót mà ngược lại còn làm nơi để hẹn hò tán tỉnh.


Ở đây Vũ Trọng Phụng đã dựng lên 1 bức tranh trào phúng, phê phán thực
trạng và mang đậm tính hài hước. Ở trên tác giả đã dựng 1 bức tranh chân thực
về sự giả dối vui sướng của những người trong và ngồi gia đình thì ở đây tác
giả lại miêu tả cảnh 1 đám tang thật gương mẫu với cảnh “1 đám ma theo cả lối
ta, tàu, tây, lợn quay đi lọng” 1 đám ma thật to tát như đám rước “có đến ba
trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa”. Bằng giọng văn hóm hỉnh, châm biếm
tác giả viết “Thật là 1 đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan
tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu...!” một đám ma


chậm chạp như đám rước với câu “đám cứ đi” tác giả đã miêu tả bao quát cảnh
đưa đám nhưng ở đây làm cho chúng ta liên tưởng dường như tác giả không
phải là người thuật lại sự việc nữa mà là người chứng kiến và tham gia vào đám
tang đó bằng việc miêu tả cận cảnh: người ta thấy những câu như con bé nhà ai
kháu thế? – con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! - Ừ, ừ cái thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! và
với điệp từ “Đám cứ đi” làm rõ sự chậm chạp của đám ma hơn nữa!.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Từ một tình huống truyện cơ bản Vũ Trọng Phụng đã xây dựng những mâu
thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau nhằm để thể hiện rõ bản chất vô đạo đức
với sự lố lăng của tầng lớp xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Cùng với những thủ
pháp nghệ thuật cường điệu, nói ngược, mỉa mai càng làm nổi bật sự vô đạo đức
đồi bại của xã hội trước 1945.


<b>Bài làm 7</b>


Nhắc đến thể loại tiểu thuyết của nền văn học Việt Nam hiện đại ta không
quên nhắc đến tác phẩm lừng danh “Số đỏ” làm nên tuổi của nhà Vũ Trọng
Phụng. Cuốn tiểu thuyết đã phát huy cao độ tài năng đả kích, châm biếm sắc sảo
của tác giả trước những trò lố lăng, bịp bợm của xã hội thực dân phong kiến ở
nửa đầu thế kỉ XX. Đặc sắc nhất, ấn tượng nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của
một tang gia” đã tái hiện một đám tang bất thường của những con người với thái
độ và tình cảm bất thường trước linh hồn người đã khuất.


Điều bất thường đó được thể hiện ngay ở nhan đề của đoạn trích “Hạnh
phúc của một tang gia”. Theo như lệ thường gia đình có người mất, vĩnh biệt cõi
tạm trở về vĩnh viễn với cõi âm phải đau buồn, thương xót, bi ai nhưng ở đây lại
là hạnh phúc. Một hạnh phúc khó diễn tả cho hết, hạnh phúc ấy chảy trong từng
mạch máu của mỗi con cháu trong dòng họ từ người lớn đến trẻ nhỏ. Điều ấy đi
ngược với giá trị đạo đức, với tình thương của con người.



Điều bất thường của đám tang được làm nên bởi thái độ của những người
thân yêu trong gia đình. “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”,
họ coi đây là một cơ hội hiếm có, một thời cơ đã đến để mỗi người có dịp thể
hiện ước muốn của bản thân.


Cụ cố Hồng đứa con lớn của cụ cố Tổ trong lúc tang gia bối rối, ông vẫn
ung dung nằm mơ màng nghĩ đến lúc mình được “mặc bộ đồ xơ gai, lụ khụ
chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ úi kìa con
giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Thật là đứa con đứt ruột đẻ ra, chăm nom nuôi
dưỡng nay lại mang tội bất hiếu với bố. Nhưng điều ấy chẳng có gì lạ thường
khi mà tất cả mọi người đều như vậy nên nó trở thành bình thường.


Văn Minh (cháu nội) đã từng du học bên Tây về nước chẳng có lấy một
mảnh bằng cấp chỉ chăm chăm vào việc chia tài sản, mong cho tờ di chúc được
đi vào thực thi là khi cụ cố Tổ chết nên ông ta vui lắm, mừng lắm. Việc làm
ngay đó của ơng là mời luật sư đến để chứng kiến cái chết của ông nội cũng là
mong di chúc được thực hiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp
để trổ tài nghệ thuật thể hiện mình như một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp bởi có
cơ hội sử dụng “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Riêng
cháu rể quý Phán mọc sừng thì khấp khởi hạnh phúc vì được bố vợ nói nhỏ vào
tai sẽ đền bù cho thêm số tiền vài nghìn đồng bởi chính ơng cũng khơng thể ngờ
rằng đơi sừng vơ hình trên đầu lại có giá trị đến thế.


Đám dâu con như bà Văn Minh, cơ Tuyết thì “bắt đầu la ó lên rằng phái già
chậm chạp”. Họ hồ hộp, mong chờ đến giây phút trình diễn thời trang trong đám
tang. “Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi khơng được mặc bộ đồ xô gai tân
thời, cái mũ mẫn trắng viền đen”, cô Tuyết đã trưng diện sẵn bộ quần áo Ngây
thơ là “cái áo dài voan mỏng, bên trong có cooc sê trông như hở cả nách và nửa


vú – nhưng mà viền đen và đội cái mũ mấn xinh xinh” với nét mặt buồn lãng
mạn mang vẻ mặt của người trong gia đình có tang.


Khơng khí tang ma thì như ngày hội lớn mọi người mọi nhà sum họp. Đây
là chi tiết trào phúng gây cười ra nước mắt trong suốt hoạt cảnh tang gia. Đám
tang mà người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe
đám…Tang gia đấy nhưng ai cũng vui vẻ hạnh phúc cả. Một đám tang rất to có
đầy đủ kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vịng
hoa… có đầy đủ loại người trong xã hội từ cảnh sát cho đến sư sãi, từ thằng hạ
lưu giả danh nhà cải cách xã hội cho đến nhà thiết kế thời trang, già trẻ gái trai
đủ cả.


Họ đến đám tang để phô diễn chiến công và sự giàu sang của mình. Đó là
Xn tóc đỏ_người u cơ Tuyết, con ma cà bông đội lốt nhà cải cách xuất hiện
đem theo hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư sãi.
Điều này khiến cho cụ cố Hồng rất vui mừng hạnh phúc và cũng biết ơn vơ
cùng bởi đã góp phần làm cho đám tang càng thêm sang trọng để thể hiện sự
giàu có của gia đình.


Sự xuất hiện của Xn càng tô đậm vẻ hợm hĩnh, phô trương, dị hợm của
đám ma cụ Tổ lên cao khiến cho người đọc phải bàng hoàng, bỡ ngỡ. Những
người bạn của cụ cố đến đưa đám không phải để chia buồn mà cốt để khoe huân
chương trên ngực, đám trai thanh gái lịch ở nơi tang tóc mà vẫn có thể làm
những trị lố lăng vừa đi đưa đám vừa “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê
bai nhau, hẹn hị nhau…”


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Chỉ một vài chi tiết nhỏ nhưng có giá trị nghệ thuật cao nó càng làm rõ
thêm mục đích đến đám tang của những người thân.Vũ Trọng phụng đã vạch
trần bộ mặt giả dối của những con người khơng có tình yêu thương đồng loại
thản nhiên, vui vẻ trước cái chết. Theo như nhiều nhà nghiên cứu nhận xét:


“Đây là cái bi của người chết, cái hài của xã hội, cái vơ phúc của gia đình giàu
sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”.


Bằng ngịi bút trào phúng tài năng nhà văn Vũ Trọng Phụng đã bóc trần
một xã hội nhố nhăng với những thói hư tật xấu làm mất đi sự văn minh, tiến bộ
và giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Bút pháp phóng đại mà khơng như phóng
đại, nghệ thuật khắc họa nhân vật với các chi tiết điển hình làm nổi bật lên chân
dung đặc điểm của mỗi người, lối viết văn rất sáng tạo và độc đáo làm nên giá
trị của đoạn trích để lại nhiều ấn tượng cho độc giả về xã hội thiếu tình người
lúc bấy giờ.


“Trên trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời Vũ
Trọng Phụng càng chân thành bấy nhiêu. Con người ấy khơng giết q một con
muỗi. Nhưng thật kì diệu, văn chương của con người ấy làm cho kẻ trọc phú
phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”


Đúng là như vậy con người ấy có những trang viết thật tài tình đã tái hiện
lại bức tranh xã hội đang buổi giao thời Đông Tây lố bịch, cảnh đám ma hiện ra
như một màn hài kịch, một bức tranh biếm họa vô cùng đã cho người đọc thấy
một đám ma to làm cho “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười
sung sướng, nếu không gật gù cái đầu” tất cả những điều khác thường theo luân
lí đạo đức mà lại bình thường trong hồn cảnh xã hội bấy giờ được sắc nét lại
qua ngòi bút của một giọng văn mỉa mai, đả kích sâu sắc làm nên giá trị của tác
phẩm


</div>

<!--links-->

×