Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

lý luận tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.19 KB, 28 trang )

lý luận tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thơng mại
1.1. Ngân hàng thơng mại và các loại hình cho vay của ngân hàng thơng mại
1.1.1. Tổng quan về ngân hàng thơng mại
Đối với hầu hết chúng ta, ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai
trò vô cùng quan trọng. Với sự hiện hữu của ngân hàng, các cá nhân, hộ gia đình
có thể nhận đợc các khoản vay để trang trải chi phí học tập, mua sắm ô tô, đồ
dùng gia đình, sửa chữa và xây dựng nhà cửa. Với các hãng kinh doanh, các
khoản vay của ngân hàng đợc coi nh nguồn tài trợ hiệu quả khi cần bổ sung vốn
để mở rộng sản xuất, nâng cao chất lợng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh với
các doanh nghiệp khác trên thị trờng trong nớc và quốc tế. Bên cạnh đó, ngân
hàng cũng là một địa chỉ đáng tin cậy nếu chúng ta muốn cất giữ tiền hay mong
nhận đợc lời khuyên về lĩnh vực đầu t cho khoản tiền tiết kiệm.
Ngày nay, hoạt động của ngân hàng không ngừng phát triển trên tất cả các ph-
ơng diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho đến sự xuất hiện của các
tập đoàn ngân hàng quy mô lớn có thể cho vay đối với hàng triệu ngời tiêu dùng
và số lợng lớn các cơ quan, chính quyền địa phơng.
Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất
trên thị trờng trái phiếu và tín phiếu do chính quyền địa phơng phát hành để tài trợ
cho các công trình công cộng từ hội trờng, sân bóng cho đến sân bay, đờng cao
tốc
Có thể nói rằng, mỗi chủ thể trong nền kinh tế dù trực tiếp hay gián tiếp đều ít
nhất một lần đợc hởng những lợi ích do hoạt động của ngân hàng mang lại. Vậy
ngân hàng là gì?
Do hoạt động ngân hàng có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh
tế nên khó có thể đa ra một khái niệm thống nhất về ngân hàng mà tuỳ thuộc mục
đích và khía cạnh nghiên cứu. Khi xét trên phơng diện những loại hình dịch vụ
cung cấp, ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.


Song dới giác độ nghiên cứu của một nhà quản lý, chúng ta có thể đa ra một
khái niệm chung nhất về ngân hàng nh sau Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng đợc thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng gồm ngân hàng thơng mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu t, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác .
1.1.2.Khái niệm tín dụng ngân hàng
1.1.2.1.Tín dụng là gì?
Khó có thể đa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng, vì vậy tuỳ thuộc góc độ
nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Tuy nhiên, khi xem xét tín dụng nh là một chức năng cơ bản của ngân hàng thì
tín dụng đợc hiểu là: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá)
giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài
sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi
vay có trách nhiệm hòan trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán .
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả và có các đặc trng sau:
Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
Trong những năm 1960 trở về trớc hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ
có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật
ngữ tín dụng và cho vay đợc coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm
1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã đợc
các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách
hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức
tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc- thiết
bị).
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngời cho vay khi chuyển giao

tài sản cho ngời đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng ngời đi vay sẽ
trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong
thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên
cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà chú trọng đến các
bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hởng đến chất lợng tín dụng.
Giá trị hoàn trả thông thờng phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là ngời đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực
hiện đợc nguyên tắc này phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ
lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi xuất thực dơng.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay đợc cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định
quan hệ tín dụng nh hợp đồng tín dụng, khế ớc Thực chất là lệnh
phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho
vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2.2. Các loại hình cho vay của ngân hàng.
Hoạt động cấp tín dụng giữ vai trò quan trọng đối với bản thân ngân hàng bởi
thu nhập từ hoạt động này không những chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập
của ngân hàng mà còn đảm bảo cho việc trả lãi các nguồn vốn huy động. Việc cấp
tín dụng đợc thực hiện trên cơ sở nguồn vốn huy động đợc và nhu cầu về vốn của
khách hàng. Hoạt động cấp tín dụng có thể hiểu là việc mua bán quyền sử dụng
vốn tệ trong đó ngời mua là các chủ thể kinh tế có nhu cầu về vốn để tài trợ cho
các hoạt động nh: Sản xuất kinh doanh, mua sắm, dự trữ còn ngời bán chính
là ngân hàng.
Để hiểu rõ hơn về hoạt động này, chúng ta cần phân loại chúng theo những tiêu
thức nhất định:
- Căn cứ theo thời hạn cho vay
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cấp tín dụng thờng có thời hạn dới một
năm và mục đích sử dụng chủ yếu là để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời nh phục
vụ cho thanh toán tiền hàng hoá, tài trợ vốn lu động hay thanh toán ngoại thơng
+ Cho vay trung hạn: Đây là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5

năm và thờng sử dụng để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc mà thời gian
khấu hao thờng không quá dài để có thể hoàn trả vốn đúng hạn cho ngân hàng.
+ Cho vay dài hạn: Là khoản cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thờng sử
dụng để xây nhà xởng, đầu t dây chuyền công nghệ với những dự án sản xuất lớn
có thời gian thu hồi vốn dài. Các khoản vay này thờng đòi hỏi thế chấp và chịu
nhiều rủi ro.
- Căn cứ theo khách hàng vay vốn
+ Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và
các định chế tài chính khác.
+ Cho vay các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh.
+ Cho vay cá nhân.
- Căn cứ theo mục đích sử dụng khoản vay
+ Cho vay nhằm mục đích phục vụ sản xuất- kinh doanh.
+ Cho vay nhằm phục vụ đời sống, tiêu dùng.
- Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
+ Cho vay không bảo đảm: Là loại hình cho vay không có có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của ngời thứ 3, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể
cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn
thu nợ thứ hai bổ sung.
+ Cho vay có bảo đảm là loại hình cấp tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm
nh thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ 3. Đối với các
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có
bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu
thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Căn cứ theo phơng thức cho vay
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là hình thức cấp tín dụng mà ngân
hàng và khách hàng cùng ký kết một hơp đồng hạn mức trong đó qui định một

khối lợng tiêu dùng mà khách hàng đợc phép vay của ngân hàng trong một thời
gian nhất định, hết thời gian này thì số còn lại mà khách hàng không sử dụng sẽ
không còn giá trị nữa. Trong hợp đồng hạn mức có thể bao gồm các điều khoản
nh việc sử dụng vốn vay, lãi suất, kỳ hạn trả nợ, cung cấp các báo cáo tài chính và
các dữ liệu về tình hình sản xuất- kinh doanh khác, tài sản đảm bảo, và trong tr-
ờng hợp vỡ nợ, các điều khoản liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng chi trả
những khoản vay còn tồn đọng. Trong thời gian của hợp đồng hạn mức, khi khách
hàng có nhu cầu vay vốn mà không vợt quá hạn mức đã ký thì chỉ cần nộp đơn xin
vay và lập hợp đồng vay là đợc ngân hàng xem xét với những điều kiện vay vốn
đã đợc thoả thuận trớc trong hợp đồng hạn mức tín dụng.
+ Cho vay từng lần: Đây là hình thức cấp tín dụng mà ngân hàng và ngời
vay sẽ ký kết hợp đồng riêng đối với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu.
Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng đợc thực hiện từ
đầu, khách hàng và ngân hàng sẽ thoả thuận riêng cho từng lần đó về số lợng tín
dụng, thời hạn khoản vay, lãi suất áp dụng, tài sản đảm bảo, báo cáo tài chính
1.2. Lý luận tổng quan về cho vay tiêu dùng
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng
Cho vy tiêu dùng đợc hình thành và phát triển từ việc giải quyết hai mâu thuẫn.
Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán của các cá nhân
ngời tiêu dùng và mâu thuẫn giữa sản xuất hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá tiêu
dùng.
Với mâu thuẫn thứ nhất, ngời tiêu dùng hay còn gọi là ngời nhận tài trợ, là
những ngời thuộc mọi tầng lớp dân c, không phân biệt màu da, lứa tuổi, nghề
nghiệp, trình độ học vấn là những ngời có công việc và thu nhập ổn định, có nhu
cầu mua sắm nhằm nâng cao chất lợng cuộc sống khi cha có đủ tiền để thực hiện
những mong muốn trên. Thuật ngữ nhu cầu ở đây đợc hiểu theo ba mức độ khác
nhau là nhu cầu tự nhiên, mong muốn và yêu cầu.
Nhu cầu tự nhiên là vốn có, là một mặt gắn liền với quá trình tồn tại của con
ngời nh những đòi hỏi về ăn, ở, mặc
Mong muốn là nhu cầu có dạng đặc thù, tơng ứng với trình độ văn hoá và

nhân cách của mỗi cá nhân. Mong muốn thì có nhiều nhng khả năng đáp ứng
mong muốn là có hạn.
Yêu cầu là mong muốn gắn liền với khả năng thanh toán. Ngời ta lựa chọn
hàng hoá thoả mãn tốt nhất nhu cầu riêng lẻ của họ nhng có tính đến khả năng
thanh toán.
Trong khi nhu cầu tự nhiên là vô hạn thì nhu cầu có khả năng thanh toán là
hữu hạn. Để biến nhu cầu tự nhiên thành nhu cầu có khả năng thanh toán thì phải
tính đến tình trạng thu nhập trong tơng lai của ngời tiêu dùng.
Trên thực tế, ngời tiêu dùng không thể có ngay đợc các khoản thu nhập, các
khoản tiền lớn trong hiện tại mà phải qua quá trình tích luỹ lâu dài, có thể gần cả
đời ngời. Do đó, thông qua việc cấp tín dụng, ngân hàng đã cho phép khách hàng
đợc sử dụng trớc hàng hoá khi khi cha có khả năng thanh toán.
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa việc sản xuất hàng hoá và tiêu thụ hàng
hoá của các nhà sản xuất- kinh doanh. Những ngời sản xuất chỉ đạt đợc hiệu quả
trong hoạt động của mình khi họ nắm bắt đợc nhu cầu và đáp ứng tốt nhu cầu này.
Các công ty thơng mại lớn có thể cho phép các công ty con của mình bán chịu
hàng hoá cho khách hàng, chủ yếu là bán trả góp để nâng cao khả năng cạnh
tranh. Tuy nhiên, trong trờng hợp này, thờng thì ngời tiêu dùng chỉ đợc thoả mãn
với một số loại hàng hoá nhất định. Khi đó, các tổ chức tín dụng có thể đáp ứng
nhu cầu về nhiều loại hàng hoá khác nhau do các công ty thơng mại khác nhau
cung cấp thông qua tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho ngời tiêu dùng (bằng việc
mua các phiếu tiêu dùng của ngời bán lẻ hàng hoá cho khách hàng tiêu dùng) do
vậy đã xuất hiện cho vay tiêu dùng.
1.2.2. Đối tợng của hoạt động cho vay tiêu dùng
- Phân theo mức thu nhập
+ Những ngời có thu nhập thấp: Nhu cầu tín dụng của nhóm ngời này thờng
rất hạn chế do nguồn thu nhập không đủ để thoả mãn những nhu cầu đa dạng của
họ. Tuy nhiên, họ cũng có những mong muốn chi tiêu không khác mấy so với với
những ngời có thu nhập cao hơn. Do đó, nếu có biện pháp phù hợp cũng có thể
hình thành đợc các khoản vay hợp lý đến các nhóm đối tợng này.

+ Những cá nhân có thu nhập trung bình: Nhu cầu tín dụng của nhóm này
có xu hớng tăng trởng ngày càng mạnh bởi khoản tích luỹ của nhóm này tuy ít
song thu nhập trong tơng lai của họ có phần ổn định có thể chi trả cho những nhu
cầu tiêu dùng hiện tại.
+ Những cá nhân có thu nhập cao: Những ngời này thờng cần tới những
khoản vay với t cách là những khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm cho khả
năng thanh toán đặc biệt khi tiền của họ đã bị trói chặt vào những khoản đầu t dài
hạn. Mặc dù việc vay mợn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ thể hiện một tỷ
trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhng lại là những món tiền lớn so
với các nhóm khách hàng khác nên các ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến
nhóm khách hàng này.
- Phân theo tình trạng công tác hay lao động: Nhu cầu tiêu dùng của các cá
nhân còn phụ thuộc vào tính chất công việc, nghề nghiệp hoặc nơi công tác. Xét
theo khía cạnh này, chúng ta có các nhóm khách hàng sau:
+ Những ngời làm công ăn lơng.
+ Những ngời có công việc kinh doanh riêng.
+ Những ngời hành nghề chuyên nghiệp (Bác sĩ, ca sĩ, t vấn).
+ Những ngời lao động tự do.
Trên thực tế, những ngời thuộc 3 nhóm đầu có thu nhập cao và ổn định hơn so
với những ngời thuộc nhóm cuối nên nhu cầu vay tiêu dùng cũng chủ yếu phát
sinh từ 3 nhóm trên.
1.2.3. Lịch sử phát triển của cho vay tiêu dùng trên thế giới
Vào những năm 1980, hệ thống ngân hàng thơng mại của Mỹ phải tiến hành
cải cách với lý do dới sức ép của cạnh tranh, việc thực hiện nghiệp vụ của các
ngân hàng thơng mại gặp nhiều bất lợi. Trong thực tế, sức mạnh cạnh tranh đã tạo
ra những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ, dân số học, luật pháp và chính nó
cũng góp phần vào sự thay đổi về dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, đồng thời cũng
làm giảm vai trò của các ngân hàng thơng mại trong hệ thống tài chính dẫn đến sự
thay đổi cơ cấu trong các ngân hàng . Môi trờng cạnh tranh thay đổi một cách
nhanh chóng, cùng với nó là việc các ngân hàng không còn duy trì đợc khả cạnh

tranh nh trớc. Hiện tợng này mang nét đặc trng của cuộc khủng hoảng trong
những năm 1930 nhng nó xoá dần khả năng đứng vững của các ngân hàng dẫn
đến một hệ thống ngân hàng yếu kém, hoạt động không hiệu quả.
Cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng bắt đầu vào những năm 1970 khi
các nhà môi giới lập ra thị trờng tiền tệ bán lẻ dẫn đến cuộc cạnh tranh giữa các
công ty tài chính tiêu dùng, các công ty thơng mại với các ngân hàng. Do đó, đến
đầu những năm 1980, trớc đòi hỏi của các ngân hàng về một lĩnh vực tham gia ở
mức độ cao hơn, Quốc hội Mỹ đã cho phép các ngân hàng cung ứng nhiều sản
phẩm và dịch vụ mới.
Những thay đổi đó đòi hỏi các ngân hàng phải đổi mới công nghệ để thích ứng
và để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đầu tiên, đó là việc các ngân hàng sử dụng
hệ thống máy vi tính nhằm giảm thời gian và chi phí quản lý. Kế đến là sự xuất
hiện của máy rút tiền tự động (Automated Teller Machine- ATM) đợc đặt các
trung tâm buôn bán, phi trờng, các trung tâm vận tải nhằm tạo thuận lợi cho ngời
sử dụng dịch vụ ngân hàng và giảm chi phí xây cất cho ngân hàng.
Cùng với thời gian, hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng đã thay đổi. Nếu
nh trớc đây các ngân hàng chỉ giới hạn phạm vi hoạt động trong cho vay thơng
mại thì ngày nay họ đã mở rộng thêm hoạt động cho vay tiêu dùng đặc biệt là sau
cuộc khủng hoảng vào những năm 1930.
Cải cách lớn nhất trong lĩnh vực tài chính trong thời gian này là việc các qui
định về kiểm soát tiền tệ và các qui định khác đối với các tổ chức tài chính làm
nhiệm vụ ký thác đã đợc ban hành thành luật. Sắc luật này cho phép các ngân
hàng tiết kiệm công cộng liên bang đợc kinh doanh, hợp tác và có các quan hệ cho
vay với các doanh nghiệp nhận tiền ký thác, đơc tiến hành cho vay tiêu dùng và
cung ứng các dịch vụ khác.
Nh vậy hệ thống ngân hàng Mỹ đã có sự cải tổ để nâng cao tính cạnh tranh
không chỉ với các tổ chức tài chính trong nớc mà với cả các tổ chức nớc ngoài. Từ
đó cho vay tiêu dùng đã ra đời và chính thức đợc công nhận nh một nghiệp vụ của
ngân hàng. Đến năm 1987, sau khoảng 7 năm ban hành luật này, các ngân hàng
Mỹ đã cung cấp 80% khối lợng tín dụng tiêu dùng, trong đó 45% dựa trên cơ sở

cho vay trả góp. Ngày nay cho vay tiêu dùng đã phát triển mạnh theo xu thế
chung của nền kinh tế thế giới.
Một yếu tố khách quan nữa thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng là xuất phát
từ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thông qua mối quan hệ này, ngân
hàng thấy đợc các nhu cầu từ cả phía ngời sản xuất lẫn ngời tiêu dùng: Các nhà
sản xuất cần có sự hỗ trợ để gia tăng tiêu thụ hàng hoá còn ngời tiêu dùng cần tìm
nguồn tài trợ cho các nhu cầu của mình.
1.2.4. Khái niệm cho vay tiêu dùng
1.2.4.1. Khái niệm
Có nhiều quan điểm khác nhau về cho vay tiêu dùng, có ngời cho rằng: Cho
vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng đối với ngời tiêu dùng nhằm tài trợ cho
chính sự tiêu dùng, ngời khác lại nói: Tín dụng tiêu dùng là quan hệ kinh tế
giữa một bên là ngân hàng và một bên là cá nhân ngời tiêu dùng, trong đó ngân
hàng chuyển giao tiền cho khách hàng với nguyên tắc ngời đi vay (khách hàng) sẽ
hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định trong tơng lai.Nhng tựu
chung lại, chúng ta có thể hiểu cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng
trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử
dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi sau một thời gian nhất định .
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tiêu dùng rất hữu ích nhằm tài trợ cho nhu
cầu chi tiêu, mua sắm, sửa chữa nhà cửa của các cá nhân, hộ gia đình. Các
khoản vay này giúp ngời tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trớc khi họ
có khả năng chi trả, tạo cho họ có đợc một cuộc sống với chất lợng cao hơn nh
mua xe, mua nhà, nghỉ ngơi, du lịch
1.2.4.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
- Qui mô mỗi khoản vay nhỏ nhng số lợng các khoản vay lớn
Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thờng có
nhu cầu vốn không lớn lắm. Đó là vì: Khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng gì
ngời tiêu dùng phải có một khoản tích luỹ từ trớc (vì không khi nào các ngân hàng
cho vay đến 100% nhu cầu vốn) và các vật dụng trong gia đình thờng không quá

đắt đỏ, kể cả khi ngời tiêu dùng vay để mua nhà, xây nhà hoặc sửa chữa nhà để ở
thì qui mô các khoản đó cũng không quá lớn đối với một ngân hàng. Nhng số l-
ợng các khoản vay tiêu dùng lại lớn do đối tợng của cho vay tiêu dùng là mọi tầng
lớp dân c trong xã hội.
- Các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cứng nhắc
Không nh hầu hết các khoản vay kinh doanh hiện nay, lãi suất có thể thay đổi
theo điều kiện thị trờng, các khoản vay tiêu dùng thờng có lãi suất ở một mức cố
định, đặc biệt là trong cho vay tiêu dùng trả góp. Ngay cả khi quan hệ tín dụng đ-
ợc xác lập thì mức lãi suất đã đợc đa ra và duy trì trong suốt thời hạn vay (kể cả có
thay đổi lãi suất thì việc thay đổi đó cũng đợc qui định ngay trong hợp đồng tín
dụng khi ký kết).
- Các khoản cho vay tiêu dùng thờng có độ rủi ro cao
Vì đối tợng của hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình nên
bên cạnh các yếu tố khách quan từ bên ngoài còn có các yéu tố chủ quan từ chính
ngời tiêu dùng. Các yếu tố khách quan nh thiên tai, bệnh tật, mất mùa, thất nghiệp
và chu kỳ kinh tế. Thời kỳ nền kinh tế mở rộng và mọi ngời dân đều lạc quan tin
tởng vào tơng lai thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng lên nhng khi nền kinh tế suy thoái,
các cá nhân, hộ gia đình thờng có t tởng phòng bị cho tơng lai, họ sẽ hạn chế tiêu
dùng và tăng cờng tích luỹ. Đây là thời kỳ khó khăn cho các nhà sản xuất và các
ngân hàng trong việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra, cho vay tiêu
dùng còn chịu ảnh hởng bởi các yếu tố chủ quan từ phía ngời tiêu dùng khi họ
muốn vay mợn để chi tiêu nhng không muốn trả. Trong những trờng hợp nh vậythì
dù có nắm giữ tài sản đảm bảo hay không thì các ngân hàng vẫn phải đối mặt với
rủi ro giảm thu nhập. Mặt khác, do các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cứng
nhắc nên khi chi phí huy động tăng lên, ngân hàng phải đối mặt với rủi ro lãi
suất.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn
Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng là qui mô mỗi khoản vay nhỏ, thời
gian vay thờng không dài trong khi tâm lý ngời đi vay là không muốn công khai
tình hình tài chính nên việc thẩm định trớc khi cho vay tốn nhiều thời gian và chi

phí. Đồng thời, số lợng các khoản vay tiêu dùng lớn nên ngoài các chi phí trên
ngân hàng còn phải chịu các chi phí khác nh chi phí quản lý khoản vay, theo dõi
và kiểm tra khách hàng thờng xuyên
- Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục tín dụng có khả năng
sinh lời cao nhất mà ngân hàng thực hiện, do các khoản cho vay tiêu dùng đợc
định giá rất cao (bao hàm cả một phần rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi
suất vay vốn trên thị trờng lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu
hết các khoản cho vay tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Việc định giá cao
là do cho vay tiêu dùng là khoản mục cho vay có chi phí lớn và đọ rủi ro cao. Hơn
nữa khi vay tiền, ngời tiêu dùng dờng nh kém nhạy cảm với lãi suất. Ngời tiêu
dùng thờng quan tâm đến khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù
rõ ràng là lãi suất ghi trên hợp đồngảnh hởng đến qui mô số tiền phải trả). Trong
khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng mà hộ gia đình quan
tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các
khoản tiền vay của ngời tiêu dùng. Những ngời có thu nhập ổn định thờng có xu
hớng chi tiêu nhiều hơn thu nhập vì họ cho rằng thu nhập trong tơng lai sẽ có thể
đảm bảo chi trả cho những nhu cầu hiện tại. Mặt khác, nếu nh trong kinh doanh
ngời ta thờng phải hạch toán lỗ, lãi thì trong tiêu dùng ngời ta đặt yếu tố thoả mãn
lên hàng đầu dù có phải trả chi phí lớn hơn.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận do hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại mà
dù phải đối mặt với khá nhiều thách thức nhng các ngân hàng trên toàn thế giới

×