Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.18 KB, 35 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT
1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Định nghĩa
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán trích chuyển vốn
trên tài khoản từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của người thụ hưởng,
hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng và các
tổ chức tài chính khác.
1.1.2. Đặc điểm
Ngược lại với hình thức thanh toán bằng tiền mặt, và xuất phát từ việc không
sử dụng đến tiền mặt của nó, thanh toán không dùng tiền mặt có một số điểm khác
biệt sau:
Thứ nhất, thanh toán không dùng tiền mặt có sự tách biệt giữa không gian và
thời gian, giữa sự vận động của vật tư, hàng hoá và tiền tệ. Nó được thực hiện
không chỉ trên cơ sở giữa bên mua và bên bán mà còn qua một chủ thể trung gian
là ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác. Thực hiện thanh toán một thương vụ
có an toàn hay không không chỉ phụ thuộc vào người xuất khẩu, người nhập khẩu
mà còn phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề như mã hoá thông tin, bảo mật, lọc thông
tin gây nhiễu, đối chiếu số liệu qua mạng máy tính...
Thứ hai, khi thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, sẽ giảm thiểu được
các công việc như vận chuyển, đếm, bảo quản tiền mặt...Vì thế sẽ hạn chế được
những mất mát, nhầm lẫn do việc sử dụng tiền mặt gây nên. Do đó, ta có thể khẳng
định rằng: Độ an toàn trong thanh toán không dùng tiền mặt là cao. Mặt khác, nó
sẽ giải quyết tình trạng bị ứ đọng vốn gây lãng phí vốn. Từ đó, vốn được khai thác
triệt để đem lại lợi ích cho bản thân các doanh nghiệp, cho các ngân hàng (do việc
thu phí đem lại) và đáp ứng được một phần vốn cho nền kinh tế (bởi vì khi sử dụng
thanh toán không dùng tiền mặt sẽ rút ngắn thời gian thanh toán và tăng nhanh
vòng quay của vốn).
Thứ ba, thanh toán không dùng tiền mặt tạo môi trường ứng dụng công nghệ
ngân hàng. Hệ thống ngân hàng trên thế giới dù phát triển đến mức nào thì cũng


vẫn phải quan tâm đến mảng thanh toán, nhất là thanh toán không dùng tiền mặt.
Cùng với sự phát triển của công nghệ điện tử, nhu cầu thanh toán ngày càng mở
rộng, sự cạnh tranh ngày càng phát triển, các ngân hàng sẽ không ngừng hoàn thiện
mình bằng việc đầu tư vào công nghệ thông tin và xử lý dữ liệu.
1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
Hệ thống ngân hàng, cùng với sự đổi mới nền kinh tế đã thực hiện quá trình
hiện đại hoá, đặc biệt là trong việc thanh toán, nhờ áp dụng những thành tựu khoa
học kỹ thuật như áp dụng công nghệ tin học ngân hàng, công nghệ thông tin ... mà
thanh toán quốc tế được tổ chức thành một hệ thống nhất định. Trong hệ thống
này, ngân hàng là một trung tâm thanh toán, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá dịch
vụ đều được kết thúc bằng thanh toán. Quan hệ thanh toán liên quan đến mọi hoạt
động trong xã hội. Vì vậy, tổ chức tốt công tác thanh toán đặc biệt là thanh toán
không dùng tiền mặt có ý nghĩa rất lớn. Nó được thể hiện ở những mặt sau:
- Thanh toán không dùng tiền mặt là một quá trình thanh toán không có sự
xuất hiện của tiền mặt mà bằng cách trích chuyển từ tài khoản của người chi trả
vào tài khoản của người thụ hưởng. Do vậy nó góp phần tạo điều kiện cho quá
trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, an toàn ... từ đó sẽ góp phần
thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thanh toán vừa là khâu mở đầu, vừa là
khâu kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó, nếu tổ chức tốt khâu thanh
toán sẽ làm tăng sự vận động của vật tư và tiền vốn, giúp cho các doanh nghiệp thu
được vốn nhanh để phục vụ cho chu kỳ sản xuất sau cũng tức là phục vụ cho quá
trình tái sản xuất không ngừng phát triển.
- Thanh toán không dùng tiền mặt tiết kiệm chi phí cho lưu thông tiền mặt
như các chi phí: in ấn, phát hành, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm. Hơn nữa,
thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm nhẹ khâu kế hoạch và điều hoà lưu thông
tiền tệ, tăng sức mua của đồng tiền, góp phần làm cho lưu thông tiền tệ ổn định.
Mặt khác, ngày nay, trong khi nền kinh tế thương mại và đầu tư quốc tế làm cho
tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng tăng, thì quá trình thanh toán không
chỉ giới hạn trong nước mà còn mở rộng ra khu vực thế giới. Vì thế, thanh toán
không dùng tiền mặt ngày càng hấp dẫn với các nhà đầu tư và các nhà xuất khẩu.

Và qua đó, ngân hàng có cơ hội tiếp cận khách hàng ở nước ngoài, tạo cơ hội lập
một hình ảnh và vị trí trên thị trường ngân hàng thế giới và đó là cơ sở đầu tiên
vững chắc cho kế hoạch mở rộng thanh toán về lâu dài của ngân hàng. Đối với một
ngân hàng, mỗi giao dịch thành công là một điểm cộng cho ngân hàng trong mắt
thị trường quốc tế. Điều này có lợi cho Việt Nam để hướng tới hoà nhập với thị
trường thế giới.
- Thanh toán không dùng tiền mặt buộc các đơn vị sản xuất kinh doanh, cá
nhân muốn thực hiện thanh toán mở tài khoản tại ngân hàng phục vụ mình và trên
tài khoản luôn phải có số dư để đảm bảo cho khả năng thanh toán, chi phí của mình
khi có nghiệp vụ phát sinh bất cứ lúc nào. Qui định này, sẽ vừa đảm bảo cơ sở cho
công tác thanh toán, vừa tạo được khả năng tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
vào ngân hàng, dùng làm nguồn vốn lưu động cho vay phục vụ phát triển sản xuất,
đáp ứng mọi nhu cầu vốn cần thiết trong xã hội. Đây là nguồn vốn lớn, nếu có kế
hoạch sử dụng tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho ngân hàng nói riêng và
cho nền kinh tế nói chung. Ngoài ra, nó còn đem lại lợi ích kinh tế cho chính khách
hàng vì khi khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán, ngân hàng sẽ trả cho
khách hàng số lãi nhất định.
- Khi thanh toán không dùng tiền mặt, khách hàng phải mở tài khoản tại
ngân hàng và ký thác vốn của mình vào đó. Điều này tạo tiền đề thuận lợi để cho
ngân hàng kiểm soát được một phần lượng tiền trong nền kinh tế, từ đó tiến hành
cung ứng một lượng tiền thích hợp cho nền kinh tế. Hơn nữa, nó còn đánh giá được
khả năng tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp cũng như
của tổng thể nền kinh tế.
- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho các ngân hàng thương mại thực
hiện tốt vai trò làm trung gian thanh toán của mình bằng sản phẩm dịch vụ đa
dạng. Qua đó ngân hàng sẽ thu được những khoản phí không nhỏ, góp phần làm
tăng thu nhập ngân hàng.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt tác động tới tất cả các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng như: nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nghiệp vụ tín dụng,
nghiệp vụ huy động vốn… Mặt khác, đây còn là một trong những cơ sở cho sự ổn

định tiền tệ, giải quyết được vấn đề tiền mặt trong nền kinh tế, làm cho lưu thông
hàng hoá được trôi chảy, từ đó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Đồng thời còn làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế và phát huy vai trò kiểm soát
bằng đồng tiền của ngân hàng đối với nền kinh tế. Do vậy, một trong những trọng
trách của ngân hàng là không ngừng phát huy vai trò to lớn của thanh toán không
dùng tiền mặt đối với sản xuất kinh doanh.
2. CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
2.1. Các phương tiện thanh toán quốc tế
Phương tiện thanh toán là công cụ giúp con người thực hiện việc trả tiền cho
nhau trong quan hệ buôn bán. Tiền mặt là một phương tiện thanh toán nhưng trong
thanh toán quốc tế nó giữ vai trò thứ yếu. Phương tiện thanh toán chủ yếu trong
thanh toán quốc tế là: Hối phiếu (Bill of Exchange), Séc (Cheque), Thẻ tín dụng
(Credit card) và các phương tiện thanh toán khác. Mỗi công cụ thanh toán đều có
công dụng riêng của nó, thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh
toán của các chủ thể kinh tế.
2.1.1. Hối phiếu (Bill of Exchange)
a. Khái niệm.
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát
cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày cụ
thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định được trong tương lai phải trả một
số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người
khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
b. Luật áp dụng.
Về phương diện pháp lý, cho đến nay, có ba nguồn luật điều chỉnh lưu thông
hối phiếu, đó là:
- Luật thống nhất về hối phiếu (Uniform law for Bill of Exchange - ULB)
trong công ước Giơnevơ năm 1930.
- Luật hối phiếu của Anh 1882 (Bill of Exchange Act of 1882 - BEA).
- Luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 (Uniform Commercial Code
of 1962 - UCC)

c. Các bên liên quan
- Người ký phát hối phiếu (Drawer): Người ký phát hối phiếu là người bán,
người chủ nợ. Người ký phát hối phiếu có trách nhiệm pháp lý chính đối với hối
phiếu cho đến khi nó được chấp nhận, có trách nhiệm thanh toán cho người giữ hối
phiếu, hoặc đền bù cho người ký hậu nếu hối phiếu bị từ chối thanh toán. Trong
ngoại thương người ký phát hối phiếu là người xuất khẩu;
- Người trả tiền hối phiếu (Drawee): Người trả tiền hối phiếu là người mua,
là người thứ ba được sự chỉ định của người mua (thường là ngân hàng đóng vai trò
ngân hàng chấp nhận hoặc ngân hàng mở tín dụng thư);
- Người thụ hưởng (Beneficiary): Là người nhận được số tiền ghi trên hối
phiếu, đó là người ký phát hoặc một người nào đó do người ký phát chỉ định;
- Người chuyển nhượng hối phiếu (Endorser): Là người đem quyền lợi
hưởng hối phiếu của mình chuyển cho người khác bằng thủ tục ký hậu;
- Người cầm phiếu (Bearer): Là người có quyền nhận tiền trên hối phiếu khi
hối phiếu được trả tiền.
d. Phân loại hối phiếu
Tuỳ theo từng căn cứ khác nhau mà người ta có thể chia hối phiếu theo từng
loại khác nhau.
- Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành ba
loại: Hối phiếu trả tiền ngay (At sight bill), hối phiếu trả tiền sau một số ngày nhất
định (At…days after sight bill) - thường là từ 5 đến 7 ngày, hối phiếu có kỳ hạn
(Usance bill).
- Căn cứ vào hối phiếu có kèm chứng từ hay không, có thể chia hối phiếu
thành hai loại: Hối phiếu trơn (Clean bill) và hối phiếu kèm chứng từ
(Documentary bill).
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu, có thể chia hối phiếu
thành hai loại: Hối phiếu đích danh (Nominal bill) và hối phiếu vô danh (Bill to
bearer).
- Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành hai loại:
Hối phiếu thương mại (Trade bill) và hối phiếu ngân hàng (Bank bill).

2.1.2. Séc (Cheque, Check)
a. Khái niệm
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra
lệnh cho ngân hàng trích trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của
người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng
chuyển khoản.
b. Luật áp dụng
- Luật thống nhất về séc (Uniform law for Check - ULC) theo công ước
Giơnevơ năm 1931.
- Văn kiện về séc quốc tế của Uỷ ban về luật thương mại quốc tế Liên Hợp
Quốc, kỳ họp thứ 15 tại New York từ ngày 26/07/1982 đến 26/09/1982.
c. Các bên liên quan
- Người phát séc để trả nợ gọi là người phát hành séc (Drawer);
- Người phát séc là ngân hàng thanh toán (Paying bank);
- Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ séc (Beneficiary);
- Người cầm séc là người có quyền hưởng lợi tờ séc sau khi séc được phát
hành (Drawee).
d. Phân loại séc
- Đứng ở một góc độ, có thể chia thành: Séc ghi tên (Nominal cheque), séc
vô danh (Cheque to bearer), séc theo lệnh (Cheque to order).
- Đứng ở góc độ khác có thể chia thành: Séc gạch chéo (Crossed cheque)-
Gồm séc gạch chéo thường (Cheque crossed generally) và séc gạch chéo đặc biệt
(cheque crossed specially), séc chuyển khoản (Cheque transfera -ble), séc du lịch
(Traveller’s cheque), séc xác nhận (Certified cheque).
Ở nước ta hiện nay đang sử dụng hai loại séc chủ yếu là séc bảo chi và séc
chuyển khoản.
2.1.3. Kỳ phiếu (Promissory note)
a. Khái niệm
Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu
phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh cuả người

này trả cho người khác qui định trong kỳ phiếu đó.
b. Luật áp dụng
- Luật hối phiếu và kỳ phiếu quốc tế của Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế
của Liên Hợp Quốc, kỳ họp thứ 15, New York ngày 26/07/1982 đến 06/08/1982,
tài liệu số A/CN 9/211 ngày 18/02/1982.
c. Các bên liên quan
- Người phát hành kỳ phiếu (Drawer): Là con nợ;
- Người hưởng lợi (Beneficiary, drawee): Là người có tên trên kỳ phiếu,
là chủ nợ.
2.1.4. Thẻ thanh toán (Credit card)
a. Khái niệm
Thẻ thanh toán là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho
khách hàng của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hoặc
lĩnh tiền tại các ngân hàng đại lý thanh toán hoặc các quầy trả tiền mặt tự động.
b. Các bên liên quan
- Chủ thẻ (Card’s owner): Là người trực tiếp mua thẻ tại ngân hàng và dùng
thẻ để mua hàng hoá và dịch vụ;
- Cơ sở chấp nhận thẻ (Card acceptable point) : Là các doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá dịch vụ cho người sử dụng thẻ;
- Ngân hàng phát hành (Issuing bank): Là ngân hàng đã bán thẻ cho khách
hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền do người sử dụng thẻ trả cho người thụ
hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh ngân hàng
phát hành và quản lý thẻ;
- Ngân hàng thanh toán (Paying bank): Là các chi nhánh ngân hàng do ngân
hàng phát hành thẻ qui định. Ngân hàng đại lý chi nhánh có trách nhiệm thanh toán
cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.
c. Các loại thẻ hiện nay
- Thẻ rút tiền mặt (Payment card).
- Thẻ tín dụng (Credit card).
- Thẻ ghi nợ (Debt card).

- Thẻ thông minh (Smart card).
Để rút tiền mặt, người ta có thể sử dụng các máy rút tiền tự động: DAB
(Distributuers autinatiques de banque), CD’s (Cash dispense), ATM
(Automatic teller machine).
2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất trong bất kỳ một hoạt
động thanh toán nào, đặc biệt là trong Thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán
quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán
ngoại thương giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Trong quan hệ ngoại
thương có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như chuyển tiền, ghi sổ,
nhờ thu, tín dụng chứng từ…Mỗi phương thức đều có ưu và nhược điểm, thể hiện
thành mâu thuẫn về quyền lợi giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu; nhưng xét
cho cùng, việc lựa chọn phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người
bán là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng
đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.
Ta có thể chia các phương thức thanh toán thành hai nhóm chính: Nhóm
phương thức thanh toán không phụ thuộc vào chứng từ và nhóm phương thức
thanh toán phụ thuộc vào chứng từ.
- Nhóm phương thức thanh toán không phụ thuộc vào chứng từ (còn gọi là
nhóm phương thức thực giao - thực thanh): Là nhóm phương thức mà việc đòi tiền
và trả tiền giữa người bán và người mua chỉ dựa trên cơ sở hàng hoá mà không phụ
thuộc vào chứng từ hàng hoá. Ở đây, ngân hàng chỉ đóng vai trò thứ yếu. Chính vì
thế nhóm phương thức này chỉ được áp dụng khi quan hệ giữa người bán và người
mua là thực sự tin cậy. Nó bao gồm các phương thức thanh toán sau: Phương thức
Ngân hàng chuyển tiền
Ngân hàng đại lý
Người chuyển tiền
Người hưởng lợi
thanh toán chuyển tiền, phương thức thanh toán ghi sổ, phương thức thanh toán
bảo lãnh.

- Nhóm phương thức thanh toán phụ thuộc vào chứng từ: Là nhóm phương
thức thanh toán căn cứ vào chứng từ hàng hoá để xác định việc đòi tiền và trả tiền.
Với nhóm phương thức này, ngân hàng làm nhiệm vụ khống chế bộ chứng từ đối
với việc nhận hàng của người mua hoặc người trả tiền. Đối với nhóm phương thức
này, bao gồm các phương thức: Nhờ thu, tín dụng chứng từ, uỷ thác mua.
Trong đề tài này, ta sẽ xem xét cụ thể một số phương thức thanh toán sau:
2.2.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance)
a. Định nghĩa
Chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu
ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người
hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng
yêu cầu.
b. Các bên tham gia
- Người trả tiền (Payer) (người mua, người mắc nợ), người chuyển tiền
(người đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra ngoài nước)
là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài;
- Người hưởng lợi (Payee) là người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư
hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định;
- Ngân hàng chuyển tiền (Remmiting bank) là ngân hàng ở nước người
chuyển tiền;
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền (Corresponding bank) là ngân
hàng ở nước người hưởng lợi.
c. Qui trình thanh toán
(3)
(2) (4)

(1)
Chú thích:
(1) Giao dịch thương mại;
(2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (Bằng thư hoặc bằng điện) cùng với uỷ

nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng);
(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng;
(4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi.
d. Phân loại
Gồm hai loại:
- Chuyển tiền bằng thư M/T (Mail Transfer)
- Chuyển tiền bằng điện báo T/T (Telegraphic Transfer)
Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT (Society for Worldwide Interbank
Financial Telecomunication – Hiệp hội truyền tin về tài chính liên ngân hàng toàn
cầu) thì hầu hết các chuyển tiền được thực hiện qua mạng này. Từ năm 1997, các
ngân hàng trên thế giới đều thông qua mạng lưới truyền thông liệu ngân hàng Quốc
tế (SWIFT) cho phép tự động hoá toàn việc sử dụng các lệnh thanh toán, sự chính
xác các thông tin đến và đi (dựa vào kỹ thuật mã số) và tốc độ chóng mặt của
thông tin.
đ. Ưu, nhược điểm của phương thức chuyển tiền
Người bán
Người mua
Ngân hàng bên mua
Ngân hàng bên bán
(2)(1)
(3)
(3)
(3)
Ưu điểm: Đây là phương thức đơn giản, nhanh chóng, việc chuyển tiền
không phải thông qua những thủ tục rườm rà, phức tạp. Ngân hàng khi thực hiện
phương thức này không bị ràng buộc bởi bất kỳ trách nhiệm nào đối với cả bên
mua và bên bán nên thường ít gặp rủi ro.
Nhược điểm: Phương thức thanh toán này không đảm bảo quyền lợi cho bên
xuất khẩu vì theo phương thức này, việc giao hàng và thanh toán là tách rời nhau.
Chính vì vậy, việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của bên mua, từ

đó nảy sinh trường hợp chậm thanh toán, đòi giảm giá, gây khó khăn cho bên bán
(gây tình trạng ứ đọng vốn, giảm vòng quay của vốn). Bên cạnh đó, rủi ro cũng xảy
ra cho người mua khi họ chuyển tiền trước khi nhận hàng thì có thể không những
bị ứ đọng vốn mà còn đứng trước những rủi ro về hàng hóa.
2.2.2. Phương thức ghi sổ (Open account)
a. Định nghĩa
Người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau
khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quí,
nửa năm) người mua trả tiền cho người bán.
b. Các bên tham gia:
Chỉ bao gồm người bán (Seller) và người mua (Buyer) tham gia vào hoạt
động thanh toán.
c. Qui trình thanh toán




Ngân hàng chuyển chứng từ
Người bán
Người mua
Ngân hàng thu và xuất trình chứng từ
Gửi hàng và chứng từ

Chú thích:
(1) Giao hàng hóa hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá;
(2) Báo nợ trực tiếp;
(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến định kỳ
thanh toán.
2.2.3. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment)
a. Khái niệm

Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó
người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách
hàng uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối
phiếu của người bán lập ra.
b. Luật áp dụng
Văn bản pháp lý thông dụng của nhờ thu là “Qui tắc thống nhất về nhờ thu”
số 522 của Phòng thương mại Quốc tế, bản sửa đổi năm 1995 (Uniform Rules for
the collection, 1995 Revision No 522, ICC) và bắt đầu có hiệu lực 01/01/1996.
c. Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có :
- Người bán tức là người hưởng lợi (Principal) ;
- Ngân hàng bên bán là ngân hàng nhận được sự uỷ thác của người bán
(Remmiting bank) ;
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán là ngân hàng ở nước người mua
(Collecting bank and/ or presenting bank) ;
- Người mua tức người trả tiền (Drawee).
c. Qui trình thanh toán bằng phương thức nhờ thu
*). Nhờ thu phiếu trơn
(2)
Ngân hàng chuyển chứng từ
Người bán Người mua
NH thu và NH xuất trình chứng từ
(4)

(1) (4) (4) (3)

Chú thích :
(1) Nhờ thu hối phiếu;
(2), (3) Đòi tiền người mua;
(4) Trả tiền cho người bán.
*). Nhờ thu kèm chứng từ

(2)
(4)
(1) (4) (4) (3)
Gửi hàng
Chú thích :
Qui trình thanh toán giống như nghiệp vụ nhờ thu hối phiếu trơn, chỉ khác ở
khâu (1) là lập bộ chứng từ nhờ ngân hàng thu hộ tiền. Bộ chứng từ gồm có hối
phiếu và các chứng từ gửi kèm theo, ở khâu (3) là ngân hàng đại lý chỉ trao chứng
từ nếu như người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu.
d. Ưu, nhược điểm của phương thức nhờ thu

×