Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

KHÁI QUÁT VỀ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.34 KB, 23 trang )

KHÁI QUÁT VỀ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề cơ bản về tài sản của doanh nghiệp.
1.1.1. Những vấn đề chung về doanh nghiệp.
• Khái niệm doanh nghiệp:
Trong một nền kinh tế tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập. Chính các chủ thể kinh tế
đã tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển, trong đó các
doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng và cũng chính là bộ phận thực hiện các mục tiêu kinh
tế quan trọng của một quốc gia. Vậy doanh nghiệp là gì? Sau đây là một vài khái niệm về
doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh
trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có
nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải
các cá nhân.
(Theo Luật doanh nghiệp): Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
• Các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam
Ở Việt Nam nền kinh tế đang được phát triển theo hướng đa dạng hình thức sở hữu
và doanh nghiệp cũng bao gồm các loại hình: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Các loại hình doanh nghiệp trên phân biệt với nhau ở hình thức sở hữu và phạm vi trách
nhiệm, chẳng hạn như: với doanh nghiệp nhà nước vốn do Nhà nước nắm giữ 100%, còn
các loại hình còn lại vốn có thể là do nhiều cá nhân góp lại. Hình thức doanh nghiệp phổ
biến nhất hiện nay và cũng là xu hướng đó là công ty cổ phần. Bởi vì loại hình này có
những ưu điểm như: công ty do nhiều cổ đông góp vốn như vậy việc huy động vốn sẽ dễ
dàng hơn, đồng thời các cổ đông có quyền và nghĩa vụ đối với công ty. Phần lợi tức mà họ
nhận được phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả kinh doanh. Thêm vào đó Hình thức này cũng


là cơ sở tiền đề quan trọng giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Do vậy
với công ty cổ phần đã phát huy được tính công bằng và thúc đẩy nền toàn bộ nền kinh tế
phát triển.
Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong đó các doanh nghiệp có các chủ thể kinh tế sau: Kinh doanh cá thể, kinh doanh
góp vốn, công ty.
- Kinh doanh cá thể là một loại hình sơ khai nhất, có thể chỉ do một cá nhân tự đứng
lên làm chủ và điều hành sản xuất kinh doanh. Loại hình này phổ biến là kinh tế các hộ gia
đình. Tính chất giản đơn của kinh doanh cá thể còn được thể hiện ở chỗ: doanh nghiệp loại
này không cần các điều lệ chính thức, ít chịu sự quản lý của nhà nước, không phải nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp, nhưng phải nộp thuế thu nhập cá nhân, chủ doanh nghiệp chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, khả năng thu hút vốn bị hạn
chế bởi khả năng của người chủ. Vốn chủ yếu là do tự có của cá nhân và đóng góp của
những người trong gia đình. Tuổi thọ của người chủ quyết định thời gian hoạt động của
doanh nghiệp.
- Kinh doanh theo hình thức góp vốn là loại hình doanh nghiệp được thành lập khá dễ
dàng do các thành viên góp vốn lại với nhau để hoạt động sản xuất kinh doanh, do vậy chi
phí huy động vốn thấp. Các thành viên chính thức phải chịu trách nhiệm vô hạn với các
khoản nợ của doanh nghiệp, mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần vốn góp tương
ứng. Khả năng về vốn của doanh nghiệp bị hạn chế tuy nhiên đã dễ dàng hơn so với hình
thức kinh doanh cá thể. Và loại hình doanh nghiệp này phải nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp. Nếu một trong các thành viên chính thức bị chết hoặc rút vốn thì doanh nghiệp bị
tan vỡ.
- Công ty chính là hình thức phát triển nhất và là xu hướng chiếm ưu thế. Đây là loại
hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: lợi ích của chủ sở hữu, hội đồng
quản trị và các nhà quản lý. Ở đó có sự tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý. Điều
này mang lại cho công ty các ưu thế như: Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ
đông mới, sự tồn tại công ty không phụ thuộc vào tuổi thọ của bất cứ một ai mà phụ thuộc
vào số lượng cổ đông, và trách nhiệm của công ty là hữu hạn.
Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy

mô và trình độ phát triển nhất định. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động
dưới hình thức công ty, đây cũng chính là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp.
• Môi trường hoạt động của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp trong giai đoạn nền kinh tế thị trường đều phải hoạt động trong
một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Muốn đứng vững và phát triển được bản thân mỗi
DN phải thích ứng với tất cả những nhân tố bên ngoài, có thể kể đến đó là khoa học công
nghệ, chính sách của Nhà nước… Các nhân tố đó tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ là đòn bẩy giúp nền kinh tế phát triển bởi nó làm thay đổi phương
thức sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động. Vậy các DN phải làm sao áp dụng công
nghệ một cách kịp thời để không bị lạc hậu so với các DN khác. Hay chính sách của Nhà
nước tác động mạnh mẽ tới hoạt động của DN bởi vì một chính sách nới lỏng hay thắt chặt
sẽ có thể khuyến khích hoặc hạn chế doanh nghiệp trong việc sản xuất, kinh doanh một
loại hàng hóa nào đó. Từ đó tác động tới doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt
khác phải tồn tại trong môi trường cạnh tranh nên buộc mỗi doanh nghiệp phải dự tính
được rủi ro, đồng thời phải có biện pháp nâng cao chất lượng, mẫu mã… để có thể chiến
thắng các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp cũng đồng thời phải đáp ứng được đòi hỏi của
các đối tác về mức vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn. Tóm lại doanh nghiệp trong thời kì
hiện nay luôn phải cạnh tranh nhau một cách khốc liệt để đứng vững và quan trọng hơn đó
chính là việc dự đoán được các rủi ro tài chính có thể xảy ra để có những quyết định quản
lý phù hợp.
1.1.2. Khái niệm tài sản của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có phải có hai
khoản mục là tài sản và nguồn vốn. Khoản mục tài sản nằm bên phải trái bảng cân đối kế
toán. Vậy tài sản được hiểu như thế nào?
• Khái niệm tài sản: Tài sản là khoản mục nằm bên trái bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp chính là các bộ phận được hình thành
trong quá trình đầu tư.
Tài sản là toàn bộ tiềm lực kinh tế của đơn vị, biểu thị cho những lợi ích mà đơn vị
thu được trong tương lai hoặc những tiềm năng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn
vị. Nói cách khác, tài sản là tất cả những thứ hữu hình hoặc vô hình gắn với lợi ích trong

tương lai của đơn vị thoả mãn các điều kiện:
- Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị
- Có giá trị thực sự đối với đơn vị
- Có giá phí xác định
Một trong những nội dung chính của hoạt động tài chính doanh nghiệp đó là đầu tư
vào đâu, hay doanh nghiệp sẽ mua sắm tài sản như thế nào cho phù hợp.
Việc đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với doanh
nghiệp, nó quyết định đến hoạt động kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Việc
hình thành các tài sản của doanh nghiệp là từ quá trình đầu tư của doanh nghiệp. Muốn đầu
tư vào các tài sản doanh nghiệp phải có vốn, có nghĩa là phải có tiền để đầu tư. Đến đây
bài toán lại quay về tìm các cách thức huy động vốn. Doanh nghiệp thu hút được vốn đầu
tư từ nhiều nguồn khác nhau và tùy theo tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp mà lựa
chọn cách thức huy động vốn phù hợp.
1.1.3. Phân loại tài sản:
Tài sản có thể được phân chia thành nhiều nhóm theo từng tiêu thức khác nhau.Có thể
phân loại theo đặc tính cấu tạo vật chất hoặc phân loại theo tính chất luân chuyển tài sản.
Trong phạm vi của đề tài xin tập trung vào cách phân loại thứ hai đó là phân theo tính chất
luân chuyển của tài sản.
Phân loại theo tính chất luân chuyển tài sản được phân thành: tài sản lưu động và tài
sản cố định.
Trong phần này chỉ xin tập trung trình bày những nét cơ bản vào tài sản cố định, phần
tài sản lưu động sẽ được nói ở phần sau.
1.1.3.1.Khái niệm về tài sản cố định
TSCĐ là những tài sản thoả mãn đồng thời hai điều kiện: có thời gian sử dụng từ một
năm trở lên, và có giá trị từ mười triệu đồng trở lên.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu và có đặc điểm cơ bản là tham gia
vào nhiều chu kỳ sản xuất, không có sự thay đổi về hình thái vật chất từ chu kỳ sản xuất
đầu tiên cho đến khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất. Mọi tư liệu lao động là tài sản hữu
hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều tài sản riêng lẻ liên kết với nhau
để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận

nào trong đó thì cả hệ thống không thể hoạt động được.
Qua khái niệm về tài sản cố định ta thấy những tư liệu lao động được coi là tài sản cố
định khi đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn sau:
 Tiêu chuẩn về thời gian: Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
 Tiêu chuẩn về giá trị: Những tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên
Trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay, khi khoa học đã trở thành một lực
lượng sản xuất trực tiếp thì khái niệm về tài sản cố định cũng được mở rộng nó bao gồm cả
những tài sản cố định không có hình thái vật chất. Loại này là những chi phí mà doanh
nghiệp bỏ ra cũng đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn nêu trên và thường bao gồm: chi phí
thành lập doanh nghiệp, chi phí về bằng phát minh sáng chế…
Tài sản cố định là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của bất kỳ một doanh
nghiệp. Dù là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương
mại dịch vụ, tài sản đóng vai trò không thể thiếu đối với các doanh nghiệp nhất là khi khoa
học công nghệ ngày càng phát triển hiện nay. Các doanh nghiệp ra sức hiện đại hoá tài sản
cố định nhằm nâng cao năng lực sản xuất của mình. Tuy nhiên tỷ trọng của tài sản cố định
trong tổng tài sản ở từng doanh nghiệp khác nhau cũng có sự khác nhau do đặc điểm ngành
nghề kinh doanh chẳng hạn như: đối với các doanh nghiệp sản xuất tài sản cố định chiếm
chủ yếu trong tổng tài sản. Còn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương
mại dịch vụ, tài sản cố định chiếm một phần không lớn vì hoạt động của họ chủ yếu là sử
dụng tài sản lưu động, tuy nhiên vai trò của tài sản cố định cũng hết sức quan trọng nó
cũng góp phần lớn vào việc tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, một doanh nghiệp không
thể hoạt động bình thường nếu như không có tài sản lưu động.
1.1.3.2.Phân loại tài sản cố định
Để quản lý tốt tài sản cố định trong doanh nghiệp, tài sản cố định thông thường được
phân thành các loại sau:
 Tài sản cố định phục vụ cho mục đích kinh doanh kiếm lời, bao gồm: tài sản cố
định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Tài sản cố định vô hình là loại tài sản cố
định không có hình thái vật chất. Tài sản cố định hữu hình là loại tài sản cố định
có hình thái vật chất cụ thể bao gồm: nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải thiết bị truyền dẫn, thiết bị dụng cụ quản lý, vườn cây lâu

năm, súc vật làm việc, và các loại tài sản cố định khác…
 Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng
 Phân loại tài sản cố định: tài sản cố định hữu hình và tài sản cố đinh vô hình, tài
sản cố định thuê tài chính.
Ngoài hai loại tài sản cố định nêu trên, trong các doanh nghiệp nhà nước còn có thể
có loại tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ nhà nước theo quyết định của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Đối với tài sản cố định điều quan trọng nhất các doanh nghiệp cần quan tâm đó chính
là quản lý khấu hao bởi vì trong quá trình sử dụng loại tài sản này bị giảm dần về mặt giá
trị. Hao mòn được chia thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Ngày nay do khoa
học công nghệ phát triển nhanh chóng nên hao mòn vô hình xảy ra càng nhanh biểu hiện
đó là tình trạng giảm giá tài sản và lỗi thời về mặt công nghệ. Quản lý tốt khấu hao là một
trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
1.2. Tài sản lưu động
Bộ phận thứ hai của tài sản đó chính là khoản mục tài sản lưu động. Quản lý tài sản
lưu động là một trong ba vấn đề trọng tâm của quản lý tài chính doanh nghiệp. Qua đó cho
thấy tầm quan trọng của tài sản lưu động trong một doanh nghiệp. Vậy tài sản lưu động
được hiểu là gì?
1.2.1. Khái niệm tài sản lưu động (TSLĐ)
TSLĐ là tất cả những tài sản ngắn hạn, và thường xuyên luân chuyển trong quá trình
kinh doanh. Tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh, thay đổi
hình thái vật chất và chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm được sản xuất.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động sản xuất, kinh doanh tiến hành
bình thường đều phải cần có tài sản lưu động. Trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp tài sản lưu động được phân bổ. Việc dự tính lượng tài sản lưu động hay
nói cách khác quá trình quản lý và sử dụng tài sản lưu động là một việc hết sức quan trọng
đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Đối với bất kì một doanh nghiệp nào tài sản lưu
động được xem là lượng tiền ứng trước nhằm thỏa mãn nhu cầu về các đối tượng lao động.
Do tài sản lưu động tồn tại ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh nên nó sẽ
đảm bảo cho các hoạt động đó diễn ra một cách liên tục. Nếu sử dụng một cách hợp lý tài

sản lưu động thì quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị gián đoạn, làm tăng
chi phí và làm quá trình sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng xấu.
Nhu cầu về tài sản lưu động của doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Cơ cấu tài sản
lưu động trong tổng tài sản phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ví dụ như đối với doanh
nghiệp thương mại TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với TSCĐ nhưng trong một doanh
nghiệp sản xuất thì điều này lại ngược lại. Cơ cấu về tài sản lưu động còn cho biết tình
hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp, về khả năng thanh toán và các rủi ro tài chính của
doanh nghiệp.
1.2.2. Phân loại TSLĐ
Tài sản lưu động được phân loại theo nhiều cách theo các tiêu thức khác nhau:
1.2.2.1. Phân loại theo lĩnh vực tham gia luân chuyển
TSLĐ được phân thành: TSLĐ sản xuất, TSLĐ lưu thông, TSLĐ tài chính, TSLĐ dự
trữ
Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất
(nguyên, nhiên vật liệu công cụ dụng cụ…đang dự trữ trong kho) và tài sản trong sản xuất
(giá trị sản phẩm dở dang).
Tài sản lưu động lưu thông bao gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông (thành
phẩm, hàng hoá dự trữ trong kho, hàng gửi bán), tài sản trong quá trình lưu thông (vốn
bằng tiền, các khoản phải thu).
Tài sản lưu động tài chính: là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với mục đích
kiếm lời (đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán…).
Tài sản lưu động dự trữ: là những tài sản tồn tại trong quá trình dự trữ còn lại.
1.2.2.2.Phân loại theo mức độ thanh khoản
Theo cách phân loại này, người ta dựa vào khả năng huy động cho việc thanh toán
(Đây cũng chính là các khoản mục TSLĐ trong bảng cân đối kế toán) để chia tài sản lưu
động thành các loại sau:
Thứ nhất: Ngân quỹ
 Ngân quỹ bao gồm tiền mặt tại két của doanh nghiệp, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển. Đây là khoản mục có tính thanh khoản cao nhất trong bảng cân đối kế toán.
Không một doanh nghiệp nào có thể hoạt động mà thiếu tiền mặt. Tiền được sử dụng

để thanh trả lương, mua nguyên vật liệu, mua sắm tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ…
Tiền mặt là một khoản không sinh lãi cho doanh nghiệp, tiền mặt dư thừa làm giảm hiệu
suất sinh lời của vốn chủ sở hữu và sẽ làm giảm giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Vì vậy
quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất.
Các doanh nghiệp phải nắm giữ tiền mặt vì các lý do sau:
Thứ nhất: Duy trì số dư tiền mặt doanh nghiệp mới đảm bảo khả năng giao dịch hàng
ngày của doanh nghiệp bao gồm thanh toán cho khách hàng, và thu tiền từ khách hàng.
Thứ hai: Nó bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh
nghiệp. Hay đó chính là khoản tiền trả cho khoản phí, lãi vay… Số dư tiền mặt loại này gọi
là số dư bù đắp
Thứ ba: Duy trì số dư tiền mặt nhằm mục đích đầu tư ngắn hạn. Đó là những khi cơ
hội đầu tư kiếm lời đến nếu có đủ lượng tiền sẽ đem đến doanh nghiệp những khoản lợi
lớn.
Thứ tư: Việc nắm giữ tiền mặt đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động
không lường trước được của các luồng tiền vào và ra. Loại tiền này tạo nên số dư dự
phòng.
Thứ năm: Doanh nghiệp có thể được hưởng lợi thế trong việc thương lượng khi mua
hàng khi có một lượng tiền mặt đủ lớn trong doanh nghiệp. Loại tiền này tạo nên số dư đầu
cơ.
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp việc giữ tiền mặt trong doanh nghiệp
có lợi thế sau: Do có đủ lượng tiền mặt thanh toán tiền trước hoặc thanh toán đúng hạn nên
khi doanh nghiệp mua hàng hoá dịch vụ có thể được hưởng lợi thế chiết khấu. Việc nắm
giữ tiền mặt ở mức hợp lý làm cho khả năng thanh toán ngắn hạn được duy trì tốt giúp có
thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng mức tín dụng rộng rãi. Thêm
vào đó khi có đủ lượng tiền mặt cũng giúp doanh nghiệp có thể ứng phó kịp thời với các
nhu cầu trong chiến dịch Marketting của đối thủ cạnh tranh cũng như với những trường
hợp khẩn cấp như: hỏa hoạn, đình công, hay vượt qua khó khăn do các yếu tố thiên nhiên;
thời vụ; hay chu kỳ kinh doanh
 Quản lý tiền mặt
Quản lý tiền mặt liên quan chặt chẽ tới việc quản lý các loại tài sản gắn liền với tiền

mặt như các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao.
Các loại chứng khoán gần như tiền mặt có vai trò như là bước đệm của tiền mặt, khi
lượng tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản, khi
cần có thể chuyển chúng thành tiền mặt mà ít tốn kém chi phí. Các nhà quản trị tài chính sử
dụng những chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì lượng tiền mặt mong
muốn. Ta có thể thấy được điều này qua sơ đồ luân chuyển sau:

×