Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ VÀ THƯƠNG MẠI TSC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.34 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ
VÀ THƯƠNG MẠI TSC
2.1. Giới thiệu chung về công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
2.1.1 Giới thiệu về công ty
Công ty dịch vụ và thương mại (tiếng Anh là: Trade and Service Company,
viết tắt là TSC) là doanh nghiệp đoàn thể do phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam thành lập, đầu tư 100% vốn và quản lý trực tiếp, toàn diện.
Công ty Dịch vụ và Thương mại hoạt động theo cơ chế quản lý đối với các
doanh nghiệp Nhà nước được quy định tại văn bản 283/CN ngày 16 tháng 1 năm
1993 do Bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ ký, thông báo ý kiến của Thủ
tướng chính phủ về việc quản lý các doanh nghiệp đoàn thể.
Công ty Dịch vụ và Thương mại (dưới đây gọi tắt là công ty) có tư cách
pháp nhân đầy đủ, có trụ sở làm việc riêng, có tài khoản tiền đồng Việt Nam và tài
khoản ngoại tệ mở tại các ngân hàng, có con dấu để giao dịch và thực hiện chế độ
hạch toán kinh tế độc lập.
Công ty có trụ sở chính tại 79 Phố Bà Triệu – Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Ngoài ra công ty còn có các chi nhánh tại Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và
Thành Phố Hồ Chí Minh.
2.1.2. Đặc điểm kinh doanh của công ty
Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC) là một doanh nghiệp đoàn thể, hạch
toán độc lập và trực thuộc sự quản lý của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam. Chức năng của công ty là kinh doanh dịch vụ và hàng hoá nhằm tạo ra nguồn
thu bổ sung kinh phí hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư của Phòng Thương
mại.
Tuy là một công ty trực thuộc nhưng công ty được phép chủ động trong việc
tiếp cận tìm kiếm thị trường, khai thác các mặt hàng, các dịch vụ nhằm mục đích
kinh doanh thu lợi. Công ty có chi nhánh tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí minh và có mối quan hệ làm ăn với các cá
nhân và tổ chức trên toàn quốc.
Hiện tại, những hoạt động kinh doanh chính mang lại thu nhập cho công ty
là: lữ hành du lịch, dịch vụ vé máy bay, kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu, hoạt


động tư vấn và hội chợ triển lãm, và xuất khẩu lao động.
Hoạt động lữ hành du lịch: đây là hoạt động quan trọng không chỉ trong việc
tạo ra doanh thu lớn cho công ty mà còn có tác dụng thúc đẩy giao lưu thương mại,
mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hàng năm công ty đã
đưa hàng trăm đoàn doanh nghiệp Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường,
học hỏi kinh nghiệm, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài tại 15 nước. Tổ
chức đón gần một ngàn khách vào tham quan du lịch, khảo sát thị trường, tìm kiếm cơ
hội kinh doanh ở Việt Nam.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá: đây là hoạt động mang lại đầu tư chủ
yếu cho công ty. Là một công ty thương mại nhưng hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá của công ty hầu như chỉ mang tính chất dịch vụ chứ không mang nhiều tính
chất thương mại. Hàng hoá xuất khẩu của công ty chủ yếu là hàng thủ công mỹ
nghệ (hàng sơn mài, mây, tre đan…), các nguyên liệu thô như quặng đồng, kẽm,...
Công ty không trực tiếp mua hàng để xuất khẩu mà chủ yếu do các công ty có
nguồn hàng cần xuất khẩu nhờ bán hộ do công ty có nhiều mối quan hệ làm ăn ở
nước ngoài. Do vậy, công ty không cần vốn để mua hàng mà chủ yếu là mua chịu,
sau khi xuất khẩu thu tiền mới phải thanh toán. Hàng hoá nhập khẩu của công ty
chủ yếu là các máy móc, thiết bị sản xuất, hàng tiêu dùng... Các hàng hoá này hầu
hết công ty đều được các công ty trong nước đặt hàng nhờ công ty nhập hộ, công ty
chỉ làm dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng.
Hoạt động xuất khẩu lao động: đây là hoạt động mang lại lợi nhuận rất lớn
cho công ty. Lao động được công ty đưa ra nước ngoài chủ yếu là các thuyền viên
làm việc trên các tàu viễn dương, các lao động giúp việc cho các gia đình ở nước
ngoài. Thị trường xuất khẩu lao động của công ty chủ yếu là Malaixia, Đài Loan và
Nhật Bản.
Hoạt động tư vấn và hội chợ triển lãm: tổ chức các hội chợ triển lãm hàng
Việt Nam trong và ngoài nước, đồng thời tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam
về luật pháp cũng như các thông tin về môi trường kinh doanh trong và ngoài
nước.
Ngoài ra, công ty còn làm đại lý bán vé máy bay cho hãng hàng không Việt

Nam Airline.
Nhìn chung, trong tất cả các hoạt động của công ty ta nhận thấy tuy là một
công ty thương mại và dịch vụ nhưng chủ yếu công ty vẫn là làm dịch vụ, đây là
một hạn chế. Để tăng lợi nhuận thì trong thời gian tới công ty cần chủ động hơn
trong việc kinh doanh, mở rộng hơn nữa các lĩnh vực dịch vụ cũng như tăng cường
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá.
2.1.3. Tình hình kinh doanh của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
trong những năm gần đây
Trong những năm gần đây, được sự ủng hộ và chỉ đạo sát sao của Ban
thường trực, các chi nhánh, các công ty trong hệ thống Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, cùng với những nỗ lực của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân
viên, công ty đã thu được những kết quả nhất định về kinh doanh.
Mặc dù lượng vốn chủ sở hữu của công ty bỏ ra kinh doanh trong những
năm gần đây hầu như không tăng, nhưng doanh thu và lợi nhuận của công ty ngày
một tăng mạnh cho thấy công ty hiện đang sử dụng vốn khá có hiệu quả.

Biểu 1 : Doanh thu thực hiện chia theo các lĩnh vực kinh doanh
Đơn vị: tỷ đồng
Lĩnh vực kinh doanh Doanh thu
2002
Doanh thu
2001
2002/2001
(%)
Xuất khẩu hàng hoá 15 9 166,7
Xúc tiến thương mại 26 18,6 139,7
Xuất khẩu lao động 1,6 1,2 133.3
Các lĩnh vực khác 54,9 41 133,9
Tổng doanh thu 97,5 69,8 139.7
(Nguồn: Phòng tài chính kế toán)

Cùng với việc hoàn thành vượt mức kế hoạch, công ty đã đóng góp một
phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và tạo ra nguồn thu bổ
sung cho kinh phí hoạt động xúc tiến của Phòng thương mại nói riêng.
Công tác xuất nhập khẩu hàng hoá : duy trì và mở rộng thị trường đã có, khai
thác thêm nhiều thị trường mới. Ngoài Nhật Bản, Tiệp Khắc, Sinhgapo, Hồng Kông, đã
thêm Trung Quốc, Australia tạo hiệu quả kinh doanh cao hơn trước.
Công tác xúc tiến thương mại công ty đã khai thác tốt lợi thế chung của
Phòng Thương mại, cùng với việc được cấp lại giấy phép lữ hành quốc tế đã đẩy
mạnh tổ chức đưa các đoàn doanh nghiệp của Việt Nam đi Hội chợ triển lãm,
khảo sát thị trường, học hỏi kinh nghiệm, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước
ngoài với 120 đoàn, 1750 người, 650 doanh nghiệp đơn vị tại 15 nước. Tổ chức
đón 850 khách vào tham quan khảo sát tại Việt Nam (năm 2002)
Công tác xuất khẩu lao động năm 2002 đã đưa được 727 lao động sang Đài
Loan, làm việc trên các tàu du lịch vùng Thái Bình Dương, hoàn tất thủ tục chuẩn
bị đưa lao động đi làm việc tại Nhật Bản và Malaixia.
Bên cạnh bước tập trung phát triển các dịch vụ trên, công ty đã khai thác
thêm những lợi thế khác để tạo việc làm trong các lĩnh vực như: nhập khẩu hàng
hoá, tạm nhập tái xuất, xuất nhập khẩu uỷ thác...
* Nộp ngân sách Nhà nước và kinh phí cho Phòng Thương mại:
- Nộp ngân sách Nhà nước năm 2001 là 9,1 tỷ đồng, năm 2002 là: 13,4 tỷ
tăng 147% năm 2001.
- Đóng góp kinh phí cho Phòng Thương mại mỗi năm khoảng 200 triệu
đồng.
* Thu nhập và tích luỹ công ty
Lương bình quân 1 tháng 1 lao động năm sau cao hơn so với năm trước
chứng tỏ đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Lương bình
quân tháng 1 nhân viên năm 2001 là 1,3 triệu đồng ; năm 2002 là 1,65 triệu đồng
tăng 128% năm 2001.
Lợi nhuận của công ty cũng tăng qua các năm, năm 2001 lợi nhuận sau thuế
đạt 404,5 triệu đồng, năm 2002 đạt 578 triệu đồng, tăng 143% so với năm 2001.

Nhờ làm ăn có lãi, hàng năm công ty đã tích cực bổ sung nguồn vốn cho công ty
cũng như tích cực đầu tư mua sắm tài sản cố định phục vụ kinh doanh. Năm 2002
công ty đã mua sắm trang bị thêm nhiều phương tiện làm việc cho CBCNV và bổ
sung nguồn vốn bằng 1 ô tô trị giá trên 300 triệu đồng.
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty Dịch vụ và Thương
mại TSC
2.2.1. Thực trạng vốn của công ty
Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC) là một doanh nghiệp hạch toán độc
lập, trực thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, do Phòng Thương
mại trực tiếp quản lý và đầu tư 100% vốn. Do vậy, vốn của công ty cũng giống như
mọi doanh nghiệp khác trong nước đều được huy động từ hai nguồn là nợ phải trả
và vốn chủ sở hữu. Điều khác là, 100% vốn chủ sở hữu ở thời điểm ban đầu khi
thành lập công ty là do Phòng Thương mại cấp (4 tỷ đồng). Song do quá trình phát
triển, hoạt động của công ty ngày càng mở rộng, số vốn được cấp không thể đủ cho
công ty có thể kinh doanh được. Do vậy, để phục vụ quá trình kinh doanh của mình
công ty đã chủ động vay một khối lượng vốn lớn từ các cá nhân, tổ chức, Ngân
hàng trong và ngoài nước. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ
chức có uy tín ở trong và ngoài nước nên việc vay vốn của công ty rất thuận lợi,
đây là một nhân tố rất quan trọng giúp cho công ty có thể sử dụng tỷ lệ nợ cao, có
thể chiếm dụng được lượng vốn khá lớn để kinh doanh.
Tình hình vốn của công ty được thể hiện qua biểu 2 – Nguồn huy động vốn
của công ty
Biểu 2: Nguồn huy động vốn của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Nguồn vốn 2000 2001 2002
A. Nợ phải trả
8.836 14.475 14.358
I. Nợ ngắn hạn
8.575 14.386 14.199
1. Vay ngắn hạn 305 91 356

2. Phải trả người bán 1.869 1.121 3.967
3. Người mua trả tiền trước 128 693 573
4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 384 - 79 - 41
5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ 2.475 8.063 6.264
6. Các khoản phải trả phải nộp khác 3.414 4.498 3.080
II. Nợ khác
261 89 159
1. Chi phí phải trả 261 89 159
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
6.257 6.270 6.743
1. Nguồn vốn kinh doanh 5.900 5.899 6.399
2. Chênh lệch tỷ giá 2 1 19
3. Lãi chưa phân phối 38 71 104
5. Quỹ dự phòng tài chính 27 30 30
6. Quỹ phát triển kinh doanh 234 247 247
7. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm 14 11 9
8. Quỹ khen thưởng phúc lợi 44 11 - 65
Tổng nguồn vốn 15.093 20.745 21.101
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán công ty TSC ngày 31/12 năm 2000, 2001, 2002).
Số liệu ở biểu cho thấy:
Tổng nguồn vốn huy động được của công ty, cũng là tổng số vốn mà công ty
có thể sử dụng, liên tục có sự tăng trưởng nhưng không đều qua các năm.
Năm 2001 so với năm 2000, tổng nguồn vốn tăng khá lớn khoảng 5,6 tỷ
đồng (37%). Trong khi đó, năm 2002 so với năm 2001 tổng nguồn vốn tăng rất ít
chỉ 0,4 tỷ đồng (1,9%).
Nguyên nhân của sự tăng không đồng đều này là do bước vào năm 2001
công ty đã chủ trương mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Lĩnh vực xuất
nhập khẩu hàng hoá không những duy trì được những thị trường truyền thống như
Nhật Bản, Tiệp Khắc, Hồng Kông, Sinhgapore, mà còn mở rộng được sang các thị
trường mới, nhiều tiềm năng như Trung Quốc, Australia. Do việc mở rộng thị

trường, đòi hỏi công ty cũng phải có thêm các nguồn hàng, các chi phí mới phát
sinh do đó công ty đã phải đầu tư thêm một lượng vốn lớn. Bên cạnh đó, công tác
xúc tiến thương mại do việc được cấp lại giấy phép lữ hành quốc tế nên đã đẩy
mạnh tổ chức đưa các đoàn Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, Khảo sát thị trường, dự
hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài, đồng thời tổ chức đón rất nhiều đoàn
khách vào tham quan khảo sát thị trường Việt Nam. Do đó, việc tăng vốn đầu tư
vào công tác xúc tiến thương mại cũng đòi hỏi một lượng vốn lớn. Qua năm 2002,
khi các thị trường đã ổn định, lượng vốn đầu tư đã đáp ứng nhu cầu sử dụng thì
lượng vốn tăng thêm là không đáng kể.
Tổng nguồn vốn tăng lên được giải thích bởi sự tăng giảm của hai bộ phận là
vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
* NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU
Không có nhiều điều để nói về nguồn vốn chủ sở hữu của công ty. Thực vậy,
nguồn vốn chủ sở hữu qua ba năm hầu như không có sự thay đổi về lượng. Từ
lượng vốn là 4 tỷ đồng được cấp bởi Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
ở ngày đầu thành lập công ty, đến nay công ty phát triển nó thành 6,7 tỷ đồng.
Lượng vốn tăng thêm chủ yếu được tích luỹ qua các năm làm ăn có lãi, công ty đã
giữ lại một phần lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng công ty.
Mặc dù không có sự thay đổi đáng kể nào về lượng nhưng xét về tỷ trọng
của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn thì lại có sự thay đổi đáng kể. Năm 2000
vốn chủ sở hữu của công ty chiếm tới 41% trong tổng số nguồn vốn của công ty
nhưng bước sang năm 2001 nó chỉ còn chiếm 30% và năm 2002 cũng chỉ là 32%.
Sở dĩ có sự sụt giảm như vậy, là do trong năm 2001, do yêu cầu của việc mở
rộng kinh doanh hàng hoá, dịch vụ công ty đã chủ động tăng thêm vốn đầu tư như
đã nói ở trên. Nhưng vốn đầu tư vào mở rộng kinh doanh chủ yếu được huy động
từ các khoản vay ngắn hạn và từ việc chiếm dụng vốn, chứ không tăng thêm vốn
chủ sở hữu. Bước sang năm 2002, công ty do làm ăn có lãi nên đã bổ sung nguồn
vốn kinh doanh thêm 500 triệu, do đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn
vốn có tăng thêm 2%.
Để thấy rõ hơn tình hình vốn chủ sở hữu của công ty, ta phân tích cụ thể

từng bộ phận của vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được hình thành từ các bộ phận
chủ yếu là nguồn vốn kinh doanh, lãi chưa phân phối và các quỹ.
Nguồn vốn kinh doanh trong hai năm 2000 và 2001 không có sự thay đổi,
nhưng sang năm 2002, nguồn vốn kinh doanh được bổ sung thêm 500 triệu từ lợi
nhuận của công ty. Đây chính là nguyên nhân chính làm tăng tỷ trọng của vốn chủ
sở hữu.
Phần lãi chưa phân phối của công ty đều tăng qua các năm nhưng số lãi này
không lớn, năm 2002 cao nhất mới đạt 103 triệu đồng.Tuy vậy, sự tăng này cũng
ảnh hưởng tới tỷ trọng vốn chủ sở hữu nhưng là rất nhỏ.
Các nguồn quỹ của doanh nghiệp như quỹ phát triển kinh doanh, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm được công ty duy trì ổn định
qua các năm. Đây là điều tốt, bởi nó sẽ giúp công ty ổn định được nếu gặp những
rủi ro trong kinh doanh và cũng đáp ứng nhu cầu thanh toán khi cần thiết. Riêng
quỹ khen thưởng, phúc lợi lại có xu hướng giảm, thậm chí đạt con số âm vào năm
2002 trên bảng cân đối kế toán. Thoạt nhìn, có thể cho rằng công ty không chú
trọng tới việc khen thưởng cũng như các chương trình phúc lợi của công ty nhưng
trái lại sự sụt giảm hay con số âm không đủ để khẳng định được điều đó. Trong các
năm qua, do công ty ăn có hiệu quả là cũng một phần do công ty đã biết khuyến
khích, khen thưởng kịp thời cán bộ công nhân viên, do quỹ khen thưởng không đủ
đáp ứng nhu cầu chi nên công ty đã phải sử dụng cả lãi chưa phân phối. Tuy vậy,
việc duy trì một quỹ khen thưởng, phúc lợi đủ lớn sẽ giúp công ty có thể chủ động
trong việc sử dụng hơn. Đây là một vấn đề công ty cần chú ý trong thời gian tới.
* NỢ PHẢI TRẢ
Một điều dễ nhận thấy trong các khoản nợ của công ty là công ty không hề
sử dụng các khoản vay dài hạn. Các khoản nợ của công ty chủ yếu bắt nguồn từ
vay ngắn hạn và các khoản phải trả. Như vậy toàn bộ các tài sản thường xuyên và
một phần tài sản không thường xuyên của công ty được tài trợ bằng vốn chủ sở
hữu, phần tài sản không thường xuyên còn lại được tài trợ bằng việc sử dụng nợ.
Biểu 3: Các hệ số nợ của công ty TSC
Các hệ số 2000 2001 2002 01/00 02/01

Hệ số nợ tổng vốn 0,59 0,70 0,68 0,11 - 0,02
Hệ số nợ vốn chủ sở hữu 1,41 2,31 2,13 0,9 - 0,18
Hệ số cơ cấu nguồn vốn 0,41 0,30 0,32 - 0,11 0,02
(Nguồn: Phòng - tài chính kế toán)
Qua biểu 3 có thể dễ dàng nhận xét về cơ cấu nguồn vốn của công ty. Với hệ
số nợ trên tổng nguồn vốn cao và có xu hướng tăng cùng với sự tăng nguồn vốn
cho thấy việc công ty mở rộng kinh doanh hoàn toàn dựa vào việc sử dụng nợ. Mặt
khác, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu quá cao đồng thời với việc tỷ trọng vốn chủ sở
hữu trong tổng vốn thấp và có xu hướng giảm chứng tỏ khả năng tự chủ về tài
chính của công ty còn rất thấp. Để nghiên cứu kỹ hơn về các khoản nợ của công ty
ta quan sát biểu 4.
Biểu 4: Nợ phải trả của công ty TSC
Đơn vị: triệu đồng
Nợ phải trả 2000 2001 2002
I. Nợ ngắn hạn 8.574 14.386 14.1989
1. Vay ngắn hạn 305 91 356
2. Phải trả người bán 1.869 1.121 3.967
3. Người mua trả tiền trước 128 693 573
4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà
nước
384 - 79 - 41
5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ 2.474 8.062 6.264
6. Các khoản phải trả phải nộp khác 3.414 4.498 3.080
II. Nợ khác 261 89 159
1. Chi phí phải trả 261 89 159
Tổng số 8.835 14.475 14.358
(Nguồn: Phòng tài chính – kế toán)
Số liệu ở biểu 3 cho thấy tỷ lệ nợ của công ty khá cao nhưng tỷ lệ vay ngắn
hạn Ngân hàng lại rất thấp (cao nhất cũng chỉ chiếm khoảng 3%). Như vậy nợ của
công ty chủ yếu nằm trong các khoản phải trả. Đây là một điều rất tốt đối với mỗi

doanh nghiệp bởi lượng vốn chiếm dụng được nhiều, mà lượng vốn này hầu như
không có chi phí, do đó lợi nhuận kiếm được không lo phải trả lãi vay. Việc công
ty sử dụng tỷ lệ nợ cao là xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
- Trước hết, do công ty TSC là một công ty trực thuộc Phòng Công nghiệp
và Thương mại Việt Nam, vốn của công ty do Phòng Thương mại cấp. Nhưng
lượng vốn được cấp ban đầu không thể đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh. Mặt
khác, phạm vi hoạt động kinh doanh rộng cả trong và ngoài nước, thực hiện nhiều
chức năng hay nghiệp vụ kinh doanh do đó đòi hỏi phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vì vậy, nhu cầu sử dụng nợ của công ty là điều tất yếu. Nhờ uy tín của Phòng
Thương mại, nên việc sử dụng nợ của công ty tỏ ra rất thuận lợi, việc vay vốn
Ngân hàng rất dễ dàng, và nhất là việc mua bán chịu của công ty đối với các công
ty trong nước nhất là các công ty cùng trực thuộc sự quản lý của Phòng Thương
mại không gặp khó khăn gì. Do có những thuận lợi như vậy nên công ty có thể sử
dụng tỷ trọng nợ rất cao, và có thể còn cao hơn trong thời gian tới.
- Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của công ty. Công ty TSC là
công ty thương mại và dịch vụ nhưng trong mọi hoạt động của công ty tính thương
mại rất ít mà hầu như công ty chỉ làm dịch vụ. Ví dụ, trong việc kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hoá: việc nhập khẩu một hàng hoá nào đó không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của công ty mà đều do các công ty trong nước đặt hàng, đặt tiền
cho công ty, sau đó công ty mới mua hàng hoá ở nước ngoài để nhập về. Trong
lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá cũng vậy, các công ty trong nước có hàng cần xuất
khẩu trong khi công ty lại có thị trường ở nước ngoài, do đó công ty cứ việc lấy
hàng xuất bán thu tiền sau đó mới thanh toán với phía trong nước. Tuy cũng có lúc
công ty phải đặt cọc để giữ mối hàng nhưng lượng đặt cọc cũng không lớn nên
không phát sinh những khoản chi bất thường lớn. Những khoản vay ngắn hạn
Ngân hàng chính là nhằm đáp ứng cho những nhu cầu bất thường này.
Tuy việc sử dụng nợ có chi phí thấp, nhưng rủi ro từ nợ cũng không phải là
ít. Điều gì sẽ xảy ra đối với công ty khi các khoản nợ đến hạn thanh toán mà các
khoản phải thu chưa đòi được hoặc không đòi được. Hoặc giả dụ, khi công ty
không thể huy động được nợ do các bạn hàng không đồng ý bán chịu, hoặc lãi suất

vay nợ quá cao thì công việc kinh doanh nhất định sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, trong
thời gian tới công ty cần có kế hoạch cơ cấu lại nguồn vốn cho phù hợp. Bên cạnh
sử dụng nợ, công ty cũng có thể tự tích luỹ nội bộ để có thể có một lượng vốn chủ
sở hữu lớn hơn để đảm bảo an toàn trong kinh doanh.
Như vậy, điều kiện tiền đề để công ty có thể hoạt động sản xuất kinh doanh
là vốn đã có nguồn tài trợ. Nhưng vấn đề là lượng vốn đó được sử dụng đầu tư vào
đâu cho có hiệu quả mới là điều thực sự đáng quan tâm hơn.
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty, việc xem xét tình
hình phân bổ vốn của công ty là việc làm cần thiết.
Như đã biết, doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào tài sản, như vậy cơ
cấu tài sản cũng phản sánh cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu sử dụng
vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong biểu 5: Cơ cấu sử dụng vốn của công
ty TSC.

×