MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
NGHỀ Ở TỈNH PHÚ THỌ
I. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG, MỤC TIÊU CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
NGHỀ
1. Một số quan điểm chủ đạo:
1.1. Nâng cao vai trò đào tạo nghề.
- Phải thực sự coi đào tạo nghề là một nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát
triển nguồn nhân lực, đồng thời coi đào tạo nghề cũng là nâng cao dân trí, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước. Đào tạo nghề phải được tăng nhanh cả về quy mô,
chất lượng, hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý hơn cho thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố. Phát triển đào tạo nghề phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của đất nước trong từng giai đoạn, gắn với nhu cầu phát triển của các ngành
kinh tế, các vùng kinh tế, vùng dân cư, với từng địa phương, gắn với thị trường sức
lao động theo quan hệ cung cầu.
- Nhà nước thống nhất quản lý về mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo
nghề, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống trường và trung tâm dạy nghề, cấp
phát bằng, chứng chỉ, định hướng và hướng dẫn đối với các cơ sở dạy nghề quy mô
nhỏ.
1.2. Xã hội hoá đào tạo nghề.
- Thực hiện xã hội hoá đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn nhân lực trong
và ngoài tỉnh cho các hoạt động đào tạo nghề. Khuyến khích mọi thành phần kinh
tế tham gia đào tạo nghề và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ
hội học nghề, tìm kiếm việc làm. Đa dạng hố các loại hình đào tạo, loại hình
trường lớp. Người học nghề và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng
góp theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Bên cạnh việc thực hiện công bằng xã hội trong đào tạo nghề, đáp ứng yêu
cầu đào tạo cho đông đảo người lao động, cần đầu tư có trọng điểm để tạo nên một
bộ phận đào tạo nghề chất lượng cao làm chuẩn mực và đẻ đào tạo tđội ngũ công
nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ có khả năng tham gia cạnh tranh trong thị
trường lao động trong nước.
- Song song với việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động công nghiệp và
dịch vụ, phải coi trọng và tăng cường lãnh đạo nghề cho lao động nông thôn mà
chủ yếu là đào tạo ngắn hạn các nghề trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ sản, sơ
chế, chế biến và bảo quản nông, lâm, ngư nghiệp và các nghề truyền thống.
1.3. Đào tạo gắn với sử dụng.
Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động chưa có việc
làm, tạo việc làm mới cho những người lao động mất việc làm trong quá trình sắp
xếp lại lao động và cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
1.4. Tăng cường ngân sách cho đào tạo nghề.
Nhà nước và địa phương các cấp tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề
đồng thời có chính sách, cơ chế hợp lý, đẩy mạnh xã hội hố để huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực. Nguồn ngân sách Nhà nước tập trung đầu tư cho
các cơ sở đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn.
2. Phương hướng :
- Phối hợp chặt chẽ và tranh thủ sự giúp đỡ của các trường trung học chuyên
nghiệp, các trường dạy nghề của Trung ương, các cơ sở dạy nghề trong cả nước và
trên địa bàn tỉnh nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và
công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ của tỉnh. Tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để người lao động có kiến thức, có trình độ chun mơn đáp ứng u cầu
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trước mắt cũng như lâu dài.
- Tiếp tục xây dựng mạng lưới cơ sở dạy nghề đa sở hữu, xã hội hố cơng
tác dạy nghề, truyền nghề gắn việc dạy nghề làm nòng cốt để xây dựng và khôi
phục các làng nghề truyền thống, hướng dẫn cho người lao động ứng dụng các tiến
bộ KHKT vào sản xuất, trước hết là trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, kinh tế
trang trại phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố nơng thơn.
- Đào tạo nguồn nhân lực phải gắn với phát triển kinh tế xã hội và phù hợp
với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
- Thực hiện phương châm không chỉ đào tạo nghề ở trong các trường chuyên
nghiệp, các cơ sở dạy nghề mà phải đào tạo trong suốt quá trình lao động. Ngồi
việc học giỏi lý thuyết , học viên phải giỏi thực hành và vận dụng vào điều kiện
thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội. Không những hiểu biết thành thạo một nghề
mà người lao động còn biết nhiều nghề, am hiểu những kiến thức khác như: luật
pháp, ngoại ngữ, tin học.....
3. Mục tiêu đào tạo nghề :
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố của tỉnh. Do đó phải mở rộng quy mơ và
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo dạy nghề. Phải hết sức coi
trọng và bồi dưỡng lực lượng lao động giỏi, có trình độ kỹ năng nghề nghiệp tạo
sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức quản lý và vận hành nền kinh tế, thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà quy hoạch tổng thể đến năm 2010 của tỉnh đề
ra.
3.1 Mục tiêu tổng quát :
- Tạo môi trường thuận lợi để người lao động có cơ hội lựa chọn ngành
nghề, phát huy được năng lực sở trường của người lao động. Đào tạo đội ngũ cán
bộ, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ theo tinh thần Nghị quyết 05/NQ-TW
của Ban thường vụ tỉnh uỷ về đào tạo phát triển nguồn nhân lực đến năm 2010.
- Công tác đào tạo dạy nghề phải tạo ra đội ngũ lao động có trình độ chun
mơn kỹ thuật cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung, đặc biệt là ở nơng
thơn và đáp ứng cho sự nghiệp cơng nghiệp hố,hiện đại hố của tỉnh. Cung cấp
ngày càng nhiều lao động có trình độ chun môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học,
quản lý cho lĩnh vực hợp tác quốc tế về lao động, cho các công ty liên doanh, cho
các khu công nghiệp tập trung. Nâng dần cơ cấu số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực của tỉnh đến năm 2010 tiến tới cơ cấu : 1 đại học - 4 trung học - 10 công nhân
kỹ thuật và đạt tiêu chuẩn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của tỉnh từ 35
- 38% so với tổng nguồn lao động.
3.2 Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn :
Trong giai đoạn 1997 - 2000 song song với việc đào tạo đáp ứng nhu cầu lao
động cho các ngành đồng thời chú trọng đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật cho
nông lâm nghiệp. Trong giai đoạn này đã đào tạo mới 25 ngành lao động, bình
qn mỗi năm khoảng 8 ngàn người (dạy nghề chính quy 4 ngàn) . Đưa tỷ lệ lao
động qua đào tạo từ 16% năm 1997 lên 20% năm 2000.
Chỉ tiêu
Năm 2000
Giai đoạn 2001 -
Giai đoạn
1. Lao động trong độ tuổi có khả
629,2
2005
705,6
2006 - 2010
748,5
132,5
193,5
272
18,5
34,5
79,0
20
20
45
128,5
27
21
62
188
35
năng lao động
Trong đó : Có CMKT
Chia ra :
- ĐH,CĐ,Trên ĐH
- THCN và tương đương
- CNKT và tương đương
2. Tỷ trọng lao động có CMKT so
với nguồn lao động (%)
3. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo
12
17,5
23,5
nghề so với nguồn lao động (%)
Trong giai đoạn 2001 - 2005 đào tạo mới là 49,5 ngàn người (trong đó dạy
nghề chính quy khoảng 26 ngàn người), bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho
khoảng 10 ngàn lao động.
Trong giai đoạn 2006 - 2010 đào tạo mới là 59,5 ngàn lao động (trong đó
đào tạo chính quy khoảng 29 ngàn người) , bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho
khoảng 11,9 ngàn lao động.
Để đạt được mục tiêu như trên, địi hỏi tỉnh Phú Thọ phải có sự cố gắng, nỗ
lực rất lớn trong công tác đào tạo nghề. Do đó, Phú Thọ phải có những chính sách,
những giải pháp đúng đắn ngay từ bây giờ.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ Ở TỈNH PHÚ
THỌ
Để thực hiện chiến lược đào tạo vào từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ
công nhân kỹ thuật, chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề có tính chiến lược đối
với các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm trước mắt tỉnh
cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
1. Cần nhanh chóng sắp xếp, bố trí các cơ sở đào tạo nghề.
Để làm được việc này, trước hết cần tiến hành khẩn trương một số cơng
việc:
- Rà sốt lại điều kiện và khả năng của từng trường (kể cả công lập và dân
lập) trên tất cả các phương tiện, trong đó đặc biệt chú trọng đến các vấn để:
+ Mặt bằng của nhà trường
+ Hệ thống phòng học và các thiết bị phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu.
+ Hệ thống các cơ sở làm việc của cán bộ giáo viên.
+ Số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên.
+ Hệ thống thư viện, thông tin tư liệu
+ Hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên cứu học
tập của giáo viên và học sinh...
Từ sự phân tích đó tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của từng trường, từng cơ sở
đào tạo nghề để có hướng xử lý cho phù hợp.
- Thơng qua việc điều tra xã hội học đối với số học viên đã tốt nghiệp ra
trường cũng như đối với các cơ quan, đơn vị sử dụng số họcviên do các trường đào
tạo ra để đánh giá một cách thực chất chất lượng đào tạo của các trường trong thời
gian vừa qua. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các trường và
trung tâm đào tạo phù hợp với yêu cầu của tỉnh.
Việc bố trí, sắp xếp lại hệ thống các trường rất phức tạp, bởi lẽ nó đụng
chạm đến nhiều vấn đề lớn như:
+ Đất đai để xây dựng trường sở.
+ Tài chính để xây dựng trường, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ cho
việc dạy và học.
+ Việc làm của cán bộ, giáo viên, vị trí của mỗi con người trong các trường
và thu nhập của họ.
Do đó, khơng thể tiến hành sắp xếp một cách ồ ạt bằng các mệnh lệnh hành
chính đơn thuần, mà phải có sự lựa chọn, làm thử để rút kinh nghiệm, làm từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Do điều kiện, ngân sách, vì vậy trước mắt không nên thành lập quá nhiều
trường, chỉ thành lập thêm những trường khi có nhu cầu ở các vùng kinh tế trọng
điểm, khu công nghiệp,... Điều quan trọng hơn là củng cố, tăng cường nâng cấp
cho các trường để mở rộng quy mô, hoạt động hết công suất, nâng cao chất lượng.
Cụ thể như sau:
- Hình thành các trường trọng điểm: Đây là hệ thống xương sống của ngành
nhằm mục đích đào tạo kỹ thuật viên và CNKT lành nghề yêu cầu phát triển của
tỉnh. Các trường này sẽ giữ vai trị nịng cốt của hệ thống các trường cơng lập bên
cạnh việc đa dạng hố các loại hình đào tạo nghề nghiệp khác. Để khai thác các
điều kiện hiện có, tỉnh nên giao cho các trường trọng điểm nhiệm vụ dạy nghề, bồi
dưỡng, tập huấn chuyển giao kỹ thuật như sau:
+ Trường dạy nghề Phú Thọ. Đây là trường trọng điểm đào tạo đa ngành với
quy mô thường xuyên từ 600 - 800 học sinh/năm. Trường cung cấp công nhân kỹ
thuật có chất lượng cao đạt chuẩn quốc gia để phục vụ nhu cầu khu công nghiệp,
khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm các ngành kinh tế, kỹ thuật có thế mạnh
của tỉnh.
+ Trường trung học Nơng lâm: Là trường trọng điểm thực hiện chương trình
đào tạo nơng dân, cần được nâng cao trình độ giáo viên, đổi mới nội dung công ty,
nhất là phương pháp tổ chức đào tạo để phù hợp với lao động của nông dân.
+ Trường trung học kinh tế: Nghiên cứu để đào tạo một số nghề thương mại,
dịch vụ; dịch vụ ăn uống, quản lý nhà hàng, khách sạn, nhân viên du lịch... Hàng
năm trường tuyển sinh từ 80 - 100 học sinh vào học nghề chính quy, tổ chức dạy
nghề ngắn hạn, bồi dưỡng nhân viên nghiệp vụ kỹ thuật, nâng dạy nghề hơn 300
lượt người.
+ Trường Trung học y tế: Củng cố và mở rộng nhóm nghề kỹ thuật viên y,
dược phục vụ chế biến dược phẩm, dược liệu, sản xuất thuốc y học cổ truyền đáp
ứng yêu cầu lao động kỹ thuật y tế cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Xây dựng một số cơ sở dạy nghề lưu động đáp ứng nhu cầu học tập nghề
nghiệp của các vùng sâu, vùng xa và vùng núi cao đảm bảo sự cơng bằng và bình
đẳng tạo cơ hội cho mọi người có mong muốn học tập nghề.
2. Xây dựng đội ngũ giáo viên đào tạo nghề:
Giáo viên là nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo, việc xây dựng đội
ngũ giáo viên dạy nghề là quá trình liên tục, phải được tiến hành thường xuyên.
2.1. Đáp ứng yêu cầu về số lượng giáo viên.
Phải có kế hoạch dự báo nhu cầu giáo viên ở từng huyện, từng vùng.. để tỉnh
có định hướng trước nhu cầu tuyển sinh ở từng trường, từng mơn cũng như có sự
cân đối ở tầm vĩ mô bảo đảm đủ số lượng giáo viên trước từng năm học. Đa dạng
hố hình thức đào tạo - bồi dưỡng giáo viên một cách có hiệu quả, kết hợp hợp lý
giữa đào tạo chính quy và đào tạo tại chức.
Cần phải có chỉ tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên theo địa chỉ (ngành, vùng,
huyện) dựa trên quy hoạch tổng thể của sự phát triển giáo dục theo từng giai đoạn.
Kết hợp giải pháp cơ bản lâu dài với giải pháp tình thế, nhất thời (ký hợp
đồng với những giáo viên nghỉ hưu có trình độ chun mơn cao, có tâm huyết nghề
nghiệp tiếp tục giảng dạy...). Có chính sách , chế độ bổ nhiệm và phân phối đồng
bộ sao cho đội ngũ giáo viên có thể hồn thành được nhiệm vụ dạy học đúng với
chuyên môn đào tạo của mình.
Tiến hành đánh giá phân loại đội ngũ giáo viên, giảm số cán bộ hành chính
để tăng thêm cán bộ giảng dạy có trình độ và đảm bảo cơ cấu, chủng loại đáp ứng
yêu cầu đào tạo nghề trong hiện tại và tương lai.
2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Đòi hỏi cần quan tâm đồng bộ từ tuyển chọn - đào tạo trong các trường sư
phạm - đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên thường xuyên trong các trường đào
tạo. Giáo viên dạy nghề phải có trình độ chun mơn, thành thạo về thực hành để
có thể dạy lý thuyết kết hợp với thực hành. Bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho giáo
viên là nhiệm vụ thường xuyên, có như thế việc dạy nghề mới đảm bảo chất lượng.
Về công nghệ mới, hướng bồi dưỡng công nghệ mới cho giáo viên tập trung
vào những công nghệ đã và sẽ áp dụng vào địa phương, trang thiết bị hiện đại, vật
liệu mới trong các ngành công nghiệp. Các trường, cơ sở dạy nghề cần chủ động
phối hợp với các cơ sở sản xuất để đào tạo, mở các lớp bồi dưỡng về công nghệ
mới cho các giáo viên dạy nghề.
Về ngoại ngữ: ngoại ngữ là một yêu cầu xã hội trong thời kỳ mở cửa, mục
tiêu trong năm năm tới phải phấn đấu 100% giáo viên dạy nghề biết ngoại ngữ
trong đó 40% trình độ B, 5 - 10% thành thạo đẻ giao tiếp được.
Về tin học: Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin
được sử dụng ngày càng rộng rãi trong giáo dục đào tạo, tin học sẽ được đào tạo
chính khố trong các trường để người cơng nhân có thể sử dụng thành thạo nó như
là một phương tiện sản xuất. Muốn vậy, bồi dưỡng tin học cho giáo viên phải đi
trước một bước.
Tăng cường bồi dưỡng phấn đấu từ nay đến năm 2005 có 80% giáo viên đạt
trình độ chuẩn; 30% có tay nghề bậc 6/7 - 7/7 hoặc tươngđương đối với giáo viên
thực hành, 100% giáo viên dạy nghề được phổ cập tin học trong đó 15 - 20% có
khả năng sử dụng tin học vào bài giảng và quản lý. Các hình thức bồi dưỡng giáo
viên bao gồm:
- Bồi dưỡng dài hạn: thời gian kéo dài trên 1 năm, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ.
- Bồi dưỡng ngắn hạn: là hình thức phổ biến, bồi dưỡng phương pháp sư
phạm công nghệ mới, ngoại ngữ, tin học.v.v... thường được tổ chức tại cơ sở hoặc
trong các đợt bồi dưỡng hè.
- Bồi dưỡng qua hội thảo, hội giảng: Hội giảng được tổ chức thường xuyên
hàng năm để giáo viên được thể hiện năng lực sư phạm, kỹ năng giảng dạy, học tập
kinh nghiệm của đồng nghiệp. Hội thảo nhằm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
theo chuyên đề như phương pháp giảng dạy, phương pháp giáo dục quản lý học
sinh...
Ngồi ra cịn có hình thức như tự bồi dưỡng, tham quan và thực tập cả trong
và ngoài nước.
Để có thể xây dựng được đội ngũ giáo viên dạy nghề đáp ứng đủ yêu cầu về
số lượng, bảo đảm chất lượng đòi hỏi Nhà nước phải đưa ra những chính sách, chế
độ đãi ngộ thoả đáng nhằm phát huy tiềm năng và nhiệt huyết của đội ngũ này.
2.3. Đổi mới hệ thống chính sách đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Đội ngũ giáo viên, cho dù ở bậc học nào, họ là người đại diện cho trí tuệ của
dân tộc. Do đó, về nguyên tắc họ phải được xã hội trân trọng. Sự trân trọng ở đây
không phải chỉ trên phương diện tinh thần là được xã hội tơn vinh mà cịn phải
được trân trọng trong phân phối và thụ hưởng các quyền lợi vật chất, trước mắt là
chế độ tiền lương.
Hệ thống tiền lương của chúng ta hiện nay còn nhiều bất cập. tiền lương của
chúng ta không đủ nuôi sống bản thân người giáo viên chứ chưa nói gì đến chuyện
ni sống gia đình họ. hệ thống tiền lương củachúng ta đã làm cho đội ngũ cán bộ
khơng tồn tâm, tồn ý với cơng việc mà họ gánh vác. Song nó lại là cơ sở đẻ ra
nhiều tiêu cực trong xã hội. Trong tình hình chung đó, đội ngũ giáo viên là những
người có mức thu nhập thấp và có cuộc sống đạm bạc nhất trong hệ thống viên
chức Nhà nước. Chính vì thế mà các hiện tượng tiêu cực cũng đã xâm nhập và phát
triển khá mạnh mẽ trong hệ thống giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề
nói riêng.
- Tiền lương chưa khuyến khích người ta làm việc theo khả năng và cũng
chưa khuyến khích người tài giỏi
Cơ cấu lao động của nước ta hiện nay đang có sự bất hợp lý nghiêm trọng.
Để có được cơ cấu lao động hợp lý trước hết phải có chiến lược giáo dục và đào
tạo đúng, tức là một bộ phận lớn học sinh khi tốt nghiệp THCS phải chuyển sang
học nghề, để đến khoảng tuổi 18 họ thực sự có một nghề vững chắc, có thể tự kiếm
sống đẻ ni mình và gia đình trong tương lai. Chỉ những em học khá giỏi mới
được chuyển sang học THPT, sau đó chuyển lên đại học, trung học hoặc học nghề.
Phải có hệ thống lương phù hợp, tức là phải xếp mức lương khởi điểm cao
cho công nhân kỹ thuật, tức là tiền lương này bảo đảm cho người cơng nhân kỹ
thuật cũng có mức lương đủ ni sống mình và gia đình.
- Nên xem xét lại hệ số lương của ngành giáo dục. Cần có một hệ thống
thống nhất do giáo dục - đào tạo. Sau đó, tuỳ tính chất của từng cấp học, tuỳ điều
kiện của từng vùng (thành phố, nông thôn, trung du, miền núi...) để có một mức
phụ cấp riêng. Mức phụ cấp này là phần mềm, chỉ được hưởng khi đang làm việc
tại đó, khi chuyển đi nơi khác sẽ được hưởng mức phụ cấp đã quy định tại nơi đến.
Như vậy sẽ cơng bằng và hợp lý hơn.
* Chính sách bồi dưỡng đối với đội ngũ giáo viên
Để có được những sinh viên giỏi, tất yếu phải có đội ngũ giáo viên giỏi.
Người giáo viên không những phải giỏi về chuyên mơn mà cịn phải giỏi về tin
học, về ngoại ngữ và phải là người có tư cách đạo đức tốt, thực sự là tấm gương
cho học sinh noi theo. Muốn có được những người thày như vậy, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân mỗi giáo viên, Nhà nước cũng cần có chính sách đào tạo, bồi
dưỡng thoả đáng.
Trong chính sách và chế độ hiện hành của Nhà nước không có một khoản
đầu tư nào dành cho việc bồi dưỡng thực tế cho giáo viên đào tạo nghề. Đây là
điều bất hợp lý, đề nghị Nhà nước nghiên cứu sớm có giải pháp khắc phục. Hàng
năm, trong kinh phí cấp cho các trường phải có một khoản dành cho việc bồi
dưỡng kiến thức thực tế cho giáo viên.
Đương nhiên, các trường cũng cần phải xem xét lại quy mô đào tạo hiện
nay. Vì lương của giáo viên q thấp, ngồi tiền lương ra, người giáo viên khơng
biết làm gì thêm để kiếm tiền ni gia đình và bản thân, trước thực trạng đó, để
tăng thu nhập cho giáo viên, buộc các trường phải tăng quy mô đào tạo, nhiều nơi
mở quá khả năng của mình (về giảng đường, về giáo viên, về giáo trình và tài
liệu).
Để có thu nhập, giải quyết nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, khơng ít giáo
viên đã phải giảng liên tục 3 ca trong mỗi ngày. Giáo viên khơng cịn thời gian đi
thực tế, đọc tài liệu tham khảo và nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ
chun mơn.
Rõ ràng nếu Nhà nước khơng sớm giải quyết một cách căn bản chế độ đãi
ngộ với giáo viên nói chung, giáo viên đào tạo nghề nói riêng, các trường khơng
tính tốn kỹ quy mơ đào tạo của mình cứ chạy theo số lượng như hiện nay, thì sự
xuống cấp về chất lượng đào tạo là điều khó tránh khỏi.
+ Có chính sách cung cấp thơng tin cho đội ngũ giáo viên đào tạo nghề.
Các giáo viên đào tạo nghề ngoài việc truyền thụ cho người học những kiến
thức về chun mơn cịn phải bồi dưỡng cho người học những hiểu biết cơ bản về
chủ nghĩa Mác-Lê nin, các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước... Chính vì thế
giáo viên đào tạo nghề cũng rất cần được cung cấp thông tin. Đáng tiếc là từ lâu
nay Nhà nước chưa có chính sách cung cấp thơng tin cho đội ngũ giáo viên đào tạo
nghề. Các bản tin tham khảo nội bộ, các thơng tư, nghị định của Chính phủ, cơng
báo... các cán bộ đồn thể các cơ sở thì được cung cấp rất đầy đủ trong khi hàng
loạt giáo viên nói chung, giáo viên đào tạo nghề nói riêng không hề được cung cấp.
Đây cũng là điều bất hợp lý, cần có sự sửa đổi.
* Chính sách khen thưởng
Khen thưởng là hình thức ghi nhận cơng lao của người lao động từ đó động
viên họ tích cực trong lao động, cơng tác, học tập. Việc tặng huy chương vì sự
nghiệp giáo dục thực chất cũng là nhằm mục đích đó. Tuy nhiên, để nhận được huy
chương này, nam giới phải có 30 năm, nữ giới phải có 25 năm làm việc trong nghề.
Do điều kiện lịch sử để lại, những người có số năm như quy định đa phần đã về
hưu hoặc sắp về hưu, vì thế tác dụng động viên còn hạn chế.
3. Phát triển, đổi mới nội dung và hình thức đào tạo.
Đồi mới quy trình, nội dung phương pháp đào tạo theo hướng mềm hố, đa
dạng hố chương trình, tạo điều kiện cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu thị trường lao
động đa dạng và tạo cơ hội học tập cho thanh niên. Sử dụng các phương pháp tiên
tiến trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhưmg vẫn đảm bảo tính
truyền thống, kế thừa, phát triển trên một nền học vấn rộng. Loại bỏ những nội
dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến
thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ khoa học công nghệ, tăng năng lực hành nghề,
năng lực tự học phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.
Nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy đối với đào tạo nghề dài hạn
được thống nhất quản lý và biên soạn của Tổng cục dạy nghề (Bộ lao động Thương binh -Xã hội)
Về phương thức đào tạo cần kết hợp và phân công giữa nhà trường với cơ sở
sản xuất. Nhà trường đào tạo cho người công nhân có một cái “nền” về kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp, có tác phơng cơng nghiệp, kỹ thuật lao động, biết cách ứng
xử trong sản xuất. Còn ở cơ sở sản xuất hướng dẫn về vận hành, quy trình, quy
phạm, kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm...
Nhà nước, các trường và cơ sở đào tạo nghề cần tập trung xây dựng một số
chương trình đào tạo theo hướng:
- Phần cơ bản cho tất cả các ngành, nghề
- Một số nghề phổ biến cần có nội dung chuẩn.
- Phần cơ sở (chủ yếu là phần cứng) cho một số ngành, nghề phổ biến và
những ngành nghề múi nhọn đã tiếp cận với công nghệ hiện đại, tiên tiến đáp ứng
nhu cầu phát triển của tỉnh. Theo đó xây dựng các chuẩn đánh giá.
- Phần chun mơn, thích ứng cho các cơ sở sử dụng nhân lực đảm bảo hoặc
căn cứ vào các hợp đồng đào tạo.
- Cần xây dựng một trung tâm xây dựng chương trình (bộ phận đủ mạnh để
xây dựng nội dung chương trình, sách giáo khoa cho đào tạo nghề nghiệp ).
- Phương pháp đào tạo phải gắn với sản xuất. Đẩy mạnh việc nghiên cứu
ứng dụng phương pháp dạy nghề theo mơđun đào tạo ngắn hạn và thí điểm cho
một số nghề dài hạn.
- Cần đặc biệt chú ý tới hình thức đào tạo lại đội ngũ lao động trong khi
đang tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp hiện nay.
Từ nay đến năm 2010 đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và
chất lượng theo 2 hướng:
- Đào tạo nghề dài hạn
Đào tạo dài hạn (bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo lại) để có đội ngũ cơng
nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ lành nghề đủ khả năng tiếp cận và sử dụng
thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Tập trung đầu tư các
điều kiện cho dạy nghề để năm 2005 đạt chuẩn quốc gia về chất lượng đào tạo
nghề.
Hình thức đào tạo này chủ yếu tập trung tại các trường dạy nghề, lớp dạy
nghề bên cạnh doanh nghiệp.
- Đào tạo và đa dạng hoá đào tạo nghề bằng nhiều hình thức: Tổ chức theo
lớp, dạy kèm cặp trong doanh nghiệp, truyền nghề.. để rèn luyện kỹ năng hành
nghề; tập huấn chuyển giao công nghệ và truyền lại cho người học nghề những
công nghệ mới, những bí quyết nghề nghiệp. Nâng dần chất lượng dạy nghề ngắn
hạn để có khả năng hành nghề sau khi đào tạo.
Đào tạo ngắn hạn phải bám sát các nhu cầu hiện tại của xã hội. Thời gian
qua loại hình dạy nghề ngắn hạn đã có những đóng góp nhất định trong quá trình
giải quyết việc làm và đảm bảo cuộc sống cho người lao động với những đối tượng
thật đa dạng: học sinh phổ thông, thôi bỏ học; bộ đội xuất ngũ, lao động hợp tác
quốc tế trở về; một số người thuộc diện tệ nạn xã hội đã hoàn lương...
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công tác dạy nghề cho nông dân
và nông thôn cũng là một mảng quan trọng. Chưa bao giờ nông dân cần khoa học
kỹ thuật và nâng cao trình độ mọi mặt như bây giờ. Việc không ngừng bồi dưỡng
kỹ thuật và cơng nghệ sinh học mới sẽ góp phần tạo ra những chuyển biến về nông
lâm nghiệp của tỉnh nhà. Đối với đào tạo nghề ở nông nghiệp, nông thôn thì có thể
tạo dựng được những trung tâm huấn luyện và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông
nghiệp ngay tại địa phương bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Cách dạy cách học ở
đây không giống với các trường dạy nghề tập trung ở thành phố. Do đó khơng
nhất thiết phải đầu tư tốn kém, xây dựng nhà cửa to đẹp, mua phương tiện đi lại
đắt tiền, thậm chí có thể lấy ngay một trang trại, một điển hình sản xuất giỏi làm
điểm đầu tư thêm để biến thành cơ sở dạy nghề cho nơng dân quanh vùng. Nếu
làm được thì đây có thể là một trong những biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn đầu
tư xây dựng hàng nghìn cơ sở dạy nghề cho nông dân ở khắp các vùng, các địa
phương.
Dưới một khía cạnh khác, dạy nghề ngắn hạn cịn có vai trị nâng cao chất
lượng nguồn lao động và tao đà để đưa người lao động vào những chương trình bổ
túc nghè, đặt họ lên những bậc thợ ngày một cao hơn. Tuy nhiên xét về mặt lâu dài
việc đào tạo nghề cho người lao động không chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt của
nền sản xuất và đời sống mà cịn cần có sự chuẩn bị cho tương lai lâu dài, dựa trên
những dự báo có cơ sở khoa học.
4. Tăng cường nguồn lực về tài chính
Việc nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng phụ
thuộc vào nhiều nhân tố như:
- Trình độ của đội ngũ giáo viên
- Các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học
tập.
- Khả năng và trình độ của người học
- Cơ cấu nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy.v.v...
Trong tình hình của Phú Thọ, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật giữ vị trí hết
sức quan trọng. Để cho các trường đào tạo nghề có được cơ sở vật chất kỹ thuật
tương xứng với nhu cầu phát triển đòi hỏi Phú Thọ phải nâng mức đầu tư cho các
trường đào tạo nghề hơn nữa. Chỉ có nâng mức đầu tư thì các trường mới có điều
kiện đổi mới chương trình, trang thiết bị và xây dựng thêm các sở vật chất kỹ thuật
cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy và học tập, đặc biệt là hệ thống giảng đường,
chỗ làm việc cho giáo viên, hệ thống thư viện, thiết bị thực hành.
Tất nhiên, nguồn đầu tư này phải đa dạng. Phải được lấy từ nhiều nguồn
khác nhau như ngân sách Nhà nước, các khoản đóng góp của người học, của
người sử dụng lao động... Để thực hiện mục tiêu công tác dạy nghề trong những
năm tới và quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề, dự báo như cầu về tài chính như
sau:
Tổng số tiền đầu tư cho cơ
Năm
sở dạy nghề
Tổng Thiết
số
bị
Xây
dựng
Chia ra
Đơn vị thành lập mới
Mở rộng quy mô của các
trường hiện có
cơ
bản
2000
20012005
20062010
Chi
đào
tạo
Xây
Tổng Thiết
số
dựng
cơ
bị
bản
Chi
đào
tạo
Xây
Tổng
số
Thiết
dựng
bị
cơ
bản
0,5
đào
tạo
9,7
2,2
3,3
4,2
5,0
1,7
3,3
0
86,5
40
16
30,5
48
30
10
8,0
38,5 10,0
16
37,5 18,0
6,0
6,0
6,0
91,5 50,0 10,0 31,5
109.5 56,0
4,7
Chi
0
4,2
6,0
22,5
( Nguồn: Phòng Đào tạo nghề-Sở Lao động- TB&XH Phú Thọ)
Huy động nguồn lực đào tạo nghề bao gồm:
Ngân sách Nhà nước quyết định số 50/1999/QĐ-TTg ngày 24/3/199 cảu Thủ
tướng Chính phủ quy định tăng tỷ lệ Ngân hàng Nhà nước cho đào tạo nghề trong
tổng Ngân sách cho Giáo dục và đào tạo lên 6,5% vào năm 1999 và 7,3% vào năm
2000. Để đạt được tỷ lệ trên, Ngân sách Phú Thọ chi cho đào tạo nghề năm 2000 từ
10 - 12 tỷ đồng (năm 1998 chi cho dạy nghề 60 triệu đồng và năm 1999 là 315
triệu đồng).
+ Vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản đối với cơ sở dạy nghề thành lậpmới và
củng cố nâng cấp cơ sở dạy nghề hiện có hàng năm khoảng từ 2,0 đến 3,2 tỷ đồng.
+ Kinh phí thường xuyên thực hiện chỉ tiêu dạy nghề hàng năm khoảng 5,0
đén 5,5 tỷ đồng.
+ Vốn chương trình mục tiêu hàng năm khoảng 3,0 - 3,5 tỷ đồng.
Tranh thủ khai thác nguồn vốn chương trình mục tiêu thơng qua các chương
trình quốc gia về đào tạo nghề từ Ngân sách Trung ương để hỗ trợ cho hoạt động
đào tạo nghề của địa phương.
Để đầu tư có hiệu quả, từ nay đến năm 2005 Ngân sách Nhà nước đầu tư có
trọng điểm vào xây dựng mới trường dạy nghề Phú Thọ và củng cố nâng cấp phục
vụ cho dạy nghề của trường Trung học nông lâm, trung học kinh tế Phú Thọ,
Trung tâm dạy nghề huyện, thị trước mắt do các huyện thị tự cân đối.
- Các nguồn ực từ xã hội hoá đào tạo nghề.
+ Các khoản đóng góp của người học theo quy định của Nhà nước. Hàng
năm huy động từ nguồn này khoảng 2 - 3 tỷ đồng.
+ Các khoản đóng góp bằng tiền và hiện vật của các tổ chức kinh tế cử
người đi học.
+ Các khoản thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ ở các xưởng
trường, thu hồi vật tư phế liệu tử sản phẩm thực tập.
+ Các khoản thu từ các dự án đầu tư của nước ngồi dưới mọi hình thức của
Chính phủ và tổ chức phi chính phủ.
Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng hệ thống giáo trình đảm bảo tính khoa
học và hiện đại. Để đào tạo những cơng nhân kỹ thuật có chất lượng cao chúng ta
phải giải quyết nhiều vấn đề, song điều có tính chất mấu chốt là phải có một hệ
thống giáo trình tốt, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa săt hợp với điều kiện lại vừa
mang tính hiện đại.
Hệ thống giáo trình dùng ở các trường đào tạo hiện nay đã được đổi mới
khá nhiều, song vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số giáo trình có được cải tiến, đổi
mới, song trên nhiều phương diện vẫn còn lạc hậu, chưa theo kịp được sự thay đổi
của khoa học, kỹ thuật, máy móc thiết bị. Chính vì vậy, việc tập trung đầu tư để
cho các trường đào tạo nghề xây dựng được một hệ thống giáo trình phù hợp với
sự thay đổi của máy móc thiết bị, khoa học kỹ thuật là một địi hỏi búc xức hiện
hay.
Để sớm có được hệ thống thống giáo trình có chất lượng là cơ sở cho việc
giảng dạy ở tất cả các trường, cơ sở đào tạo nghề, đề nghị Nhà nước nên có sự đầu
tư thoả đáng để tập hợp các nhà khoa học, các chuyên gia của từng chuyên ngành
để soạn ra giáo trình giảng dạy cho các chuyên ngành đó.
Tổng cộng các khoản thu từ Ngân sách và các khoản thu từ xã hội hoá là
nguồn lực tài chính đảm bảo cho cơng tác dạy nghề của tỉnh Phú Thọ.
5. Giải pháp về chính sách quản lý Nhà nước.
5.1. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo và
dạy nghề.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền đối với công
tác đào tạo, dạy nghề. Phải coi công tác đào tạo nghề là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu để có quy hoạch, kế hoạch phát triển, có biện pháp quản lý vầ
các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở đào tạo nghề của mọi thành
phần kinh tế, huy động mọi nguồn lực thực hiện xã hội hố cơng tác đào tạo, dạy
nghề.
Đảm bảo sự liên thông giữa giáo dục phổ thông với các cơ sở đào tạo, dạy
nghề; tăng cường việc hướng nghiệp cho học sinh cuối cấp phổ thông trung học,
phổ thông cơ sở, động viên học sinh đi vào học nghề cho phù hợp với đặc điểm
tình hình kinh tế xã hội của tỉnh, có lợi cho chính mình và xã hội.
Thành lập phòng đào tạo nghề thuộc Sở Lao động - TBXH để thống nhất
quản lý Nhà nước trên địa bàn theo Nghị định 33/1998/NĐ-CP ngày 23/5/1998 của
Chính Phủ. Ở các huyện, thành thị phải có người chuyên trách làm cơng tác đào
tạo, dạy nghề nằm trong phịng LĐTBXH.
5.2. Về cơ chế chính sách.