Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Từ cuốn sách “đô thị vị nhân sinh”, nghĩ về văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.47 KB, 7 trang )

TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ

TỪ CUỐN SÁCH “ĐÔ THỊ VỊ NHÂN SINH”,
NGHĨ VỀ VĂN HĨA ĐƠ THỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
VĂN GIÁ

Tóm tắt
Cuốn sách “Đơ thị vị nhân sinh” của Giáo sư Jan Gehl khơng phải là một cơng trình nghiên cứu hàn
lâm, mà là một cơng trình nghiên cứu thực tiễn, hướng vào vấn đề quy hoạch kiến trúc và phát triển đô
thị hiện đại. Do những quan niệm lầm lạc, do sức ép về kinh tế và dân số, khoảng 50 năm trở về trước,
hầu hết các đô thị ở các quốc gia trên thế giới được xây dựng hoặc khơng có triết lý, hoặc đi theo triết lý
phục vụ phương tiện xe cơ giới, phục vụ chính các cơng trình, chứ khơng phục vụ con người. Từ đó dẫn
đến rất nhiều đơ thị phát triển lộn xộn, tùy tiện, ngày càng gia tăng nạn kẹt xe, ô nhiễm môi trường,
mất an ninh, chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị thấp… Cuốn sách “Đô thị vị nhân sinh” đưa ra
triết lý đơ thị vì con người, cho con người; theo đó tồn bộ quy hoạch, thiết kế, phát triển đô thị đều tuân
thủ một cách tinh tế và cẩn trọng triết lý nhân văn này. Bài viết đúc rút một số luận điểm cơ bản của
cuốn sách và từ đó liên hệ với tình trạng đơ thị cũng như hướng phát triển đô thị ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Đơ thị vị nhân sinh, phát triển đơ thị, văn hóa đơ thị, Giáo sư Jan Gehl
Abstract
The book “Cities for people” by Professor Jan Gehl is not an academic research project, but a
practical research project, aimed at the issue of architecture planning and modern urban development.
Due to misconceptions and pressures of economic and population, about 50 years ago, most cities
in every country were built with no philosophy, or follow the philosophy of serving motor vehicles,
serving the functions of the constructions themselves, not serving people. Therefore, many urban
areas have developed disorderly, arbitrarily, increasing traffic jam, environmental pollution, insecurity,
low quality of life of urban residents... The book “Cities for people“ offers the philosophy of urban for
people; Accordingly, all urban planning, design, and development subtly and carefully comply with
this humanistic philosophy. The article draws some basic points of the book and relates it to the urban
situation as well as the direction of urban development in Vietnam today.
Keywords: Cities for people, urban development, urban culture, Professor Jan Gehl
1. Một cuốn sách có giá trị khai sáng



L

à một người khơng sinh ra từ đô thị
nhưng sống trong đô thị, quan sát
thấy đô thị ở nước ta hiện nay ngày
càng phồn hoa nhưng chất lượng cuộc sống
lại ngày một kém đi, tôi tự đặt ra nhiều câu
hỏi, nhưng có nhiều câu khơng dễ trả lời. Gần
đây, may mắn được đọc quyển sách “Đơ thị vị
nhân sinh” của vị Giáo sư đáng kính Jan Gehl,
tơi đã tìm ra được nhiều câu trả lời thỏa đáng
và cũng gợi ra cho tôi nhiều suy nghĩ về đô thị
Việt Nam hiện nay, đặc biệt vấn đề làm thế nào
để con người có được một cuộc sống hạnh
phúc nơi đô thị.
Số 28 - Tháng 6 - 2019

Jan Gehl là một kiến trúc sư và cựu giáo sư
tại Học viện Mỹ thuật Hoàng gia Đan Mạch,
chuyên gia hàng đầu về quy hoạch kiến trúc đô
thị; đối tác sáng lập của Gehl Architects - Công
ty Tư vấn chất lượng đơ thị. Ơng là tác giả của
các dự án nâng cấp đô thị của 11 thành phố
lớn thuộc các quốc gia Đan Mạch, Thụy Điển,
Hà Lan, Anh, Mỹ, Úc và nhiều cơng trình quy
hoạch đơ thị và kiến trúc khác. Ông cũng là tác
giả của các cuốn sách “Life between Buildings”,
“New City Spaces”, “Public Spaces - Public Life” và
“New City Life”. Được xuất bản lần đầu tiên năm

2010, cho đến nay cuốn sách “Đô thị vị nhân
sinh” (tên gốc tiếng Anh là “Cities for People”)

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

107


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

đã được dịch sang 36 thứ ngơn ngữ khác nhau;
bản tiếng Việt do Nhà xuất bản Xây dựng xuất
bản mới đây (tháng 3 năm 2019) là bản chuyển
ngữ thứ 37.
Thoạt nghe, nhiều người nghĩ đây là cuốn
sách chỉ dành riêng cho ngành kiến trúc và
xây dựng. Nhưng không chỉ có vậy, cuốn sách
dành cho bất cứ ai quan tâm đến các vấn đề
quy hoạch, phát triển kiến trúc đơ thị; cuộc
sống xã hội, văn hóa đơ thị. Khơng chỉ những
chuyên gia về kiến trúc và xây dựng cần đọc
cuốn sách này, mà các nhà quản lý đô thị, các
nhà nghiên cứu văn hóa đơ thị cũng khơng thể
khơng đọc. Với những giá trị mang tính khai
sáng, cuốn sách này cần được phổ biến trong
giới đại học, tức các nhà giảng dạy, nghiên cứu
và sinh viên. Xin nói ngay, do khơng phải là
người có chun mơn về các ngành xây dựng

và kiến trúc, nên tơi đọc cơng trình này dưới
góc nhìn của một người nghiên văn hóa và
con người nói chung.
Như chúng ta biết, triết lý chính là một quan
niệm xương sống có ý nghĩa chỉ đạo, tập hợp
và thống nhất toàn bộ diễn giải và thực hành
của con người về một hoạt động nào đó. Nếu
khơng có triết lý, mọi suy nghĩ và thực hành
sẽ trở nên hỗn độn, phân tán, manh mún, tùy
tiện. Khi một chương trình, một dự án có triết
lý, tức là có tư tưởng, sẽ có giá trị soi sáng, nhất
quán, mạch lạc và độc đáo. Tác giả Jan Gehl là
người có một triết lý về quy hoạch đô thị, thể
hiện một cách nhất quán, xuyên suốt, chỉ đạo
mọi suy tưởng, diễn giải và đề xuất của ông,
đúng như tên gọi của cuốn sách: “Đơ thị vị
nhân sinh”.
“Đơ thị vị nhân sinh” - có phải đây là một
cách nói hoa mỹ? Người ta có thể lập luận: đơ
thị nào chẳng là đơ thị vì con người, cho con
người; khơng vì/cho con người thì vì/cho cái
gì? Thực ra khơng đơn giản như vậy. Khi bước
vào chủ nghĩa hiện đại trong quy hoạch đô thị
và kiến trúc từ những năm 50 thế kỷ XX, hầu
hết các đơ thị trên thế giới quy hoạch và phát
triển vì và chỉ vì… giao thơng cơ giới, sau đó
là vì các tịa cao ốc và siêu đơ thị. Kết quả là,
càng quy hoạch ưu tiên cho giao thơng cơ giới
thì phương tiện giao thông cơ giới ngày càng
108


Số 28 - Tháng 6 - 2019

tăng, nạn tắc nghẽn giao thông ngày càng
tệ hại, kéo theo vô vàn hệ lụy về an ninh, sức
khỏe, kinh tế, văn hóa, xã hội; cũng thế, càng
vì các cơng trình, càng dẫn đến một đơ thị xa
cách, thiếu thân thiện với con người, thậm chí
khơng có một cuộc sống đô thị theo đúng
nghĩa. Tất cả đều phụ thuộc vào quan niệm,
triết lý của các nhà quy hoạch. Cho nên, ở
cuốn sách này, ngay từ chương đầu tiên, tác
giả đã bàn đến vấn đề con người trong đơ thị,
con người chính là linh hồn đơ thị, làm nên
cuộc sống đô thị. Mọi quy hoạch và thiết kế
không vì cuộc sống hằng ngày của con người
đơ thị chắc chắn sẽ thất bại. “Đơ thị vị nhân
sinh” chính là một triết lý của đơ thị, có ý nghĩa
tồn cầu, có khả năng khai sáng và truyền cảm
hứng cho tất cả những ai sống ở đô thị, quan
tâm tới quy hoạch và kiến trúc đơ thị.
2. Một cuốn sách nói cho ta biết thế giới
đang quan tâm tới đô thị như thế nào
Thế nào là một đô thị vị nhân sinh? Dựa
trên các quan sát trực quan, thống kê, phân
tích và đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu
cuộc sống của các cư dân đơ thị điển hình trên
tồn thế giới, tác giả cuốn sách đã đưa ra một
mơ hình đô thị vị nhân sinh với 4 điểm cốt lõi:
Sống động, An toàn, Bền vững, Lành mạnh.

2.1. “Thành phố sống động” là một đơ thị
thực sự có “cuộc sống đơ thị”, nơi con người
được đi bộ, đi xe đạp, được tôn trọng, được
tham gia vào các hoạt động đường phố một
cách chủ động, hứng thú và an tồn. Một đơ
thị thưa vắng người đi bộ, đạp xe, ít tham
dự vào cuộc sống đô thị một cách hiện sinh;
một đô thị khiến cư dân đóng cửa ở nhà hơn
là muốn ra đường; một đô thị với không gian
quá lớn, kiến trúc quá đồ sộ, khoảng cách di
chuyển quá xa, hai bên đường khép kín và tẻ
nhạt, ít hoặc khơng có cây xanh đồng nghĩa với
việc quy hoạch ưu tiên cho xe hơi… sẽ là đơ thị
“chết”, tẻ nhạt, khơng vì con người, con người
bị đẩy lùi vào hàng thứ yếu. Dĩ nhiên, một đô
thị mật độ dân số cao, trong khi đó quy hoạch
kém, cũng lại là đơ thị khơng chất lượng. Vấn
đề đặt ra ở đây là chất lượng không gian đô
thị. Một quy hoạch không gian từ đường phố,
vỉa hè, quảng trường, nhà ở, công viên, bảo


TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ

tàng,… nếu thực hiện tốt, cư dân sẽ có hứng
thú tham gia vào cuộc sống đơ thị và chính họ
làm nên một đơ thị sống động, một đơ thị thực
sự có đời sống hiện hữu.
2.2. “Thành phố an toàn” được hiểu trước
hết là an toàn về giao thông. Từ những năm

50 của thế kỷ trước, sự phát triển và xâm lấn
của xe máy, xe hơi đã tấn công vào đô thị, ngày
càng trở thành nỗi sợ hãi của con người. Tham
khảo từ cuộc sống của các thành phố truyền
thống như Venice (nơi duy trì một chính sách
đã có từ lâu: tất cả các cư dân và du khách đều
đi bộ, một chính sách nhất quán và bền vững
ưu tiên hàng đầu cho chất lượng thành phố),
tinh thần nhất qn của tác giả cơng trình
nghiên cứu này là khuyến khích và tạo điều
kiện tốt nhất cho cư dân đi bộ và xe đạp, bất
kể đó là ai. Khi chính sách này được thực hiện,
các nghiên cứu và ứng dụng sẽ đầu tư tốt nhất
cho không gian vỉa hè dành cho người đi bộ,
làn đường dành riêng cho người đi xe đạp, giải
quyết xung đột giữa các loại phương tiện… Dĩ
nhiên không thể tất cả các cư dân đô thị đều đi
bộ và đi xe đạp, mà quan trọng nhất là duy trì
tốt một tình trạng giao thơng hỗn hợp, ưu tiên
tốt nhất cho những người đi bộ và xe đạp, chứ
không phải cho xe cơ giới như lâu nay (từ phân
làn, biển hiệu, chỉ dẫn, trạm đỗ, đến ý thức của
mỗi người). Thành phố Copenhagen hiện nay
đứng hàng đầu thế giới và trở thành mẫu mực
về một thành phố xe đạp, với con số đáng kinh
ngạc: từ năm 2008, đã có đến 37% người làm
tại cơng sở đi xe đạp [1, tr.107].
Thành phố an tồn cịn được hiểu về mặt
an ninh. Mỗi một người trong bất kỳ thời gian
nào khi xuống đường, đi bộ, đi xe đạp trên

khơng gian đơ thị sẽ cảm thấy thanh bình,
được bảo vệ, tin cậy, không rơi vào cảm giác
hoang mang, lo sợ. Điều này không chỉ liên
quan đến an ninh xã hội, mà cịn liên quan đến
quy hoạch đơ thị: bố trí ánh sáng hợp lý, cấu
trúc địa phận và đường phố mạch lạc, thân
thiện; ngược lại là tình trạng tăm tối, rối loạn,
hoang vắng, cỏ dại, các ngõ ngách u ám…
2.3. “Thành phố bền vững” hướng đến
việc đi bộ và đi xe đạp như một hứng thú, tự
nguyện, nó ngược lại với những người chỉ
Số 28 - Tháng 6 - 2019

thích ngồi sau vơ-lăng xe hơi và máy tính. Mục
đích của đi bộ và xe đạp là hướng tới hình
thức vận chuyển giá rẻ, yên tĩnh, không gây
ô nhiễm; chống nguy cơ cạn kiệt năng lượng,
tránh phá hủy môi trường, tài nguyên, sức
khỏe; chống ùn tắc giao thông, giảm ô nhiễm
dạng hạt và lượng khí thải carbon… Theo lập
luận của tác giả, hình thức đi bộ và xe đạp là
bước quan trọng tiến tới mơ hình đơ thị bền
vững [1, tr.105]. Tác giả đưa ra con số: Hai làn
đường xe đạp rộng 2m đủ cho 10.000 người
đi xe đạp/giờ; trong khi đó một đường 2 làn di
chuyển hai chiều chỉ phục vụ 1.000 - 2.000 ô
tô/giờ; và một chỗ đỗ xe hơi có thể để 10 chiếc
xe đạp. Một đơ thị bền vững là nơi có khơng
gian đơ thị hợp lý, ưu tiên cho đi bộ, xe đạp và
giao thông cơng cộng, các nhóm xã hội được

tham gia và hưởng lợi bình đẳng về các cơ sở
hạ tầng.
2.4. “Thành phố lành mạnh” là thành phố
có chính sách sức khỏe tốt: chống tình trạng
béo phì, tạo điều kiện khuyến khích cư dân rèn
luyện thể chất hằng ngày, tăng cường đi bộ
và xe đạp, tránh tập trung quá nhiều thời gian
vào tay lái xe hơi và máy tính, hứng thú tham
gia quan sát, cảm nhận, giao tiếp và hưởng thụ
cuộc sống đô thị sống động… Giáo sư Jan viết:
“‘Một quả táo mỗi ngày để không phải gặp bác
sĩ’ là một khẩu hiệu sức khỏe đã được tuyên
truyền bấy lâu nay. Còn lời khuyên của ngày
hôm nay cho cuộc sống lành mạnh là hãy đi bộ
10.000 bước mỗi ngày” [1, tr.115].
Vậy để đạt được mơ hình đơ thị như trên,
giới quy hoạch và phát triển đô thị phải quan
tâm tới những vấn đề gì? Các chương tiếp
theo của cuốn sách đã chỉ ra hai nguyên tắc
tối quan trọng: Thứ nhất, tổ chức một “Đô thị
ngang tầm mắt” (chất lượng cho các quy mô
nhỏ trong khơng gian đơ thị vừa tầm quan sát
nhìn ngắm của con người, đơ thị thích hợp để
đi bộ, thích hợp để du khách lưu lại, thích hợp
để gặp gỡ, để thể hiện bản thân, vui chơi và
tập luyện; địa điểm tốt, tỷ lệ đẹp; thời tiết đẹp;
để trải nghiệm thú vị, để thích hợp đi xe đạp);
thứ hai, quy hoạch đô thị tuân thủ trật tự ưu
tiên: cuộc sống con người, không gian và sau
cùng mới là các công trình cụ thể.


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

109


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Rốt cục, yếu tố con người là hạt nhân trung
tâm, làm hệ quy chiếu cho toàn bộ quy hoạch
và xây dựng đô thị trong hôm nay và ngày mai.
Đơ thị vì con người, đó là triết lý đơ thị, là tinh
thần lan tỏa từ cơng trình nghiên cứu xuất sắc
của Jan Gehl.
3. Liên hệ đô thị Việt Nam hiện nay và vấn
đề xây dựng văn hóa đơ thị
3.1. Một quan sát có tính trực quan
Nước ta nằm trong nhóm các nước đang
phát triển, chịu sức ép của rất nhiều vấn đề:
trình độ và năng lực quản trị xã hội thấp, nạn
tham nhũng và nhóm lợi ích lũng đoạn, gia
tăng dân số, kinh tế chậm phát triển, nạn tàn
phá thiên nhiên, trình độ khoa học kỹ thuật và
cơng nghệ chưa cao, thu nhập bình quân đầu
người thấp, nền giáo dục hỗn loạn; ý thức về
pháp luật, văn minh văn hóa của người dân
cịn nhiều hạn chế… Cho nên việc quy hoạch,
xây dựng và phát triển đô thị trở nên hết sức

nan giải. Tuy nhiên, đây là việc cấp thiết, không
thể không làm, cần tiến hành cùng lúc với quy
hoạch ở mọi lĩnh vực khác.
Chúng ta đang thấy các di sản kiến trúc
truyền thống gồm kiến trúc cổ (gốc bản địa)
và kiến trúc cũ (của nước ngoài, chủ yếu thời
Pháp thuộc) đang bị hư hoại hoặc bị con người
phá hủy vì nhiều lý do khác nhau. Chúng ta
đang chứng kiến một tình trạng quy hoạch,
xây dựng và kiến trúc vơ tội vạ, chồng lấn,
nham nhở, theo hướng phá nát không gian
- không gian trung tâm và không gian phụ
cận. Các khu đơ thị mới có thể quy mơ rất lớn,
hồnh tráng, nhưng thiếu thân thiện với con
người, các cơng trình rời rạc, khép kín, khơng
có giao tiếp; khơng có khách bộ hành, người
đạp xe; khơng có những điểm gặp gỡ, vui
chơi, sinh hoạt, chia sẻ đường phố… Yếu tố
cuộc sống con người của đô thị không được
coi trọng. Họ chỉ coi trọng các cơng trình/cụm
cơng trình riêng lẻ, biệt lập, xa cách với con
người.
Phần lớn các đô thị của chúng ta đang rơi
vào tình trạng bế tắc về giao thơng, càng loay
hoay giải quyết lại càng ùn tắc và mức độ tai
nạn chưa hề suy giảm.
110

Số 28 - Tháng 6 - 2019


Con người đô thị phần lớn lấy xe máy làm
phương tiện chính, người trung lưu trở lên thì
đi ơ tơ, chỉ có người nghèo đi xe đạp, người dân
càng ngày càng lười đi bộ; nếu muốn đi xe đạp
hoặc đi bộ cũng không được tạo điều kiện về
cơ sở hạ tầng, ln cảm thấy tai nạn rình rập,
thậm chí có tâm lý sĩ diện hão cho rằng đi xe
đạp là nghèo hèn, đi ô tô mới là sang chảnh…
Sống trong đô thị, người dân phải hứng
chịu nhiều thứ: Tắc đường; ô nhiễm (bụi, tiếng
ồn, nguồn nước, nguồn thực phẩm); cảm giác
an toàn, an ninh bị đánh mất; nạn xả rác bừa
bãi, xây dựng vơ tội vạ, nhiều di tích cảnh quan
bị tàn phá với ngàn lẻ một lý do. Trên thực tế
là chúng ta chưa xây dựng được một văn hóa
đơ thị, trong đó có “văn hóa xe đạp”, “văn hóa
đi bộ”, những khái niệm trở đi trở lại nhiều lần
như một lời kêu gọi khẩn thiết trong cơng
trình nghiên cứu của Jan.
3.2. Sự nhập cuộc mạnh mẽ
Để xây dựng một văn hóa đơ thị hiện đại,
cần phải có một nhận thức chung và một
chương trình hành động căn cơ, cụ thể, kiên
nhẫn và tỉ mỉ của tất cả các thành phần xã hội.
Nhưng trong tình hình cần kíp hiện nay, theo
chúng tôi cần tập trung trước hết vào 4 đối
tượng: Các nhà quản lý, các nhà chuyên môn,
giới truyền thơng và nhà trường.
Nhà quản lý là khâu khó nhất, nhưng nếu
làm được sẽ có hiệu quả nhất. Họ sẽ có một

nhận thức tốt về một quy hoạch đơ thị vị nhân
sinh, để từ đó quy định thiết chế, tham gia tư
vấn/hoạch định chính sách, thực hành quản
lý, thúc đẩy phát triển. Chỉ khi các nhà quản lý
nhập cuộc mạnh mẽ mới có thể hướng tồn bộ
xã hội vào câu chuyện này được. Nó ngược lại
với thói quan liêu, cửa quyền, nhận thức chậm,
bảo thủ; ngược với tham những và nhóm lợi
ích. Kinh nghiệm quốc tế cho hay, một thành
phố “sống động, an toàn, bền vững và lành
mạnh” phụ thuộc phần lớn vào ơng thị trưởng,
vào ý chí, tầm hiểu biết, tình u đối với thành
phố đó và tinh thần nhân văn của ông ta.
Nhà chuyên môn đương nhiên phải là
người có chun mơn giỏi, có nghiên cứu sâu
về cuộc sống thực tiễn, văn hóa bản địa và
khu vực và ý thức nhân văn trong quy hoạch


TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ

một cách trong sáng, vì con người. Có những
quy hoạch do khơng có nghiên cứu sâu hoặc
hiểu sai về cuộc sống đô thị, dẫn đến một thực
tiễn đơ thị mà ở đó con người bị nuốt chửng,
bị xóa đi trong khơng gian; hoặc ở cực khác,
con người luôn sống trong cảm giác bị đầy
đọa. Một kiến trúc sư địi hỏi phải tính tốn
hết sức bài bản, thậm chí tỉ mỉ khơng gian và
cơng trình ở cấp độ vĩ mô và cả vi mô sao cho

tất cả vì cuộc sống của con người, kể cả những
trẻ em, người già, người khuyết tật. Một quy
hoạch đúng và nhân văn sẽ làm cuộc sống nở
hoa trong không gian vật lý đơ thị và trong cả
tâm hồn dân chúng.
Vai trị của giới truyền thông ngày càng
trở nên quan trọng, hiểu theo nghĩa họ tham
dự và tác động vào xã hội như một thế lực
hùng mạnh. Nếu truyền thơng tích cực, nó
góp phần kiến tạo xã hội. Ngược lại, nó tham
gia hủy hoại xã hội, hủy hoại văn hóa và nhân
tính. Trong cơng cuộc kiến tạo văn hóa đơ thị,
truyền thơng phải là lực lượng chung tay thiết
lập nhận thức chung, đánh thức khát vọng tập
thể, ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm cơng
dân. Đội ngũ các nhà báo chính là lực lượng
quan trọng nhất của hoạt động truyền thông.
Họ lên tiếng phê phán những cái hạn chế, tiêu
cực; vun đắp và lan tỏa những yếu tố tích cực,
truyền cảm hứng cho tinh thần đẹp đẽ của đô
thị vị nhân sinh, của văn hóa đơ thị mới.
Cuối cùng là vai trò của nhà trường. Hiện
nay vấn đề sinh thái nhân văn đang được nhà
trường dần chú ý thông qua các nghiên cứu,
thực hành, giảng dạy. Tuy nhiên, vấn đề văn
hóa đô thị hầu như chưa được quan tâm tới.
Phải bắt đầu từ con trẻ, từ học sinh các cấp
tới đại học, sao cho tất cả ý thức được về văn
hóa đô thị. Với học sinh, không nên sa vào lý
thuyết chung chung, mà nên bắt đầu từ giáo

dục hành vi. Làm sao cho chúng hiểu cho
được tính thiết thực của việc bỏ rác vào thùng,
không xả rác bừa bãi; không ngắt hoa, chặt cây
vơ tội vạ; biết thích thú đi bộ hay đi xe đạp mỗi
khi đến trường hoặc di chuyển trong phố,…
đã là rất có ý nghĩa.

một nguồn cảm hứng mạnh mẽ mới có thể
hy vọng hình thành sớm trong nay mai. Như
chính kiến trúc sư, nhà quy hoạch và tư vấn
quy hoạch đô thị nổi tiếng, tác giả của cơng
trình nghiên cứu này đã nói: “Ta định hình
thành phố - thành phố định dạng ta”. Để hình
thành một đô thị vị nhân sinh đẹp đẽ và đáng
sống, phải cần sự nỗ lực từ chính con người, để
rồi sau đó trái quả đơ thị ngọt lành lại sẽ trả ơn
con người, đền bù xứng đáng cho con người.
Thay lời kết
Theo một nghĩa nào đó, có những cuốn sách
hay có thể làm thay đổi thế giới, có thể truyền
cảm hứng mạnh mẽ cho con người. Cơng trình
“Đơ thị vị nhân sinh” chính là một cuốn sách
như vậy. Tháng 4 năm 2019, tác giả cuốn sách,
Giáo sư Jan Gehl đã có những cuộc tiếp xúc với
giới chuyên môn và truyền thông tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy chỉ ở mỗi nơi có
một ngày, nhưng ơng đã kịp truyền cảm hứng
mạnh mẽ cho giới chuyên môn và một bộ phận
cơng chúng Việt Nam. Hiện nay, nước ta nằm
trong nhóm các nước đang phát triển, và các

đô thị mới cũng đang phát triển theo. Nếu có
nhận thức tốt và quyết tâm thực hành tốt triết lý
“Đô thị vị nhân sinh”, chắc chắn chúng ta sẽ hạn
chế được những sai lầm trong phát triển đô thị
mà nhiều nước trên thế giới đã từng mắc phải,
từ đó sớm có được những đơ thị sống động, an
toàn, bền vững và lành mạnh.
V.G
(PGS.TS, Nguyên Trưởng khoa Viết văn, Báo chí,
Trường ĐHVHHN)
Tài liệu tham khảo
1. Jan Gehl (2019), Đô thị vị nhân sinh, Nguyễn
Minh Huyền, Nguyễn Quang Minh dịch, Nxb. Xây
dựng, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 6 - 5 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 6 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019

Một cơng cuộc kiến tạo văn hóa đơ thị phải
được đánh thức đồng loạt và được thổi vào đó
Số 28 - Tháng 6 - 2019

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

111


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU


TIN TỨC - SỰ KIỆN

Hội nghị trao đổi kinh nghiệm về “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ,
chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong các trường
đại học, cao đẳng
Sáng ngày 22/5/2019, tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã diễn ra Hội nghị trao đổi kinh
nghiệm học tập về “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân
dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở trong các trường đại học, cao đẳng. Hội nghị do Đảng ủy Khối các trường đại học, cao
đẳng Hà Nội phối hợp cùng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức.
Hội nghị đã tập trung làm rõ các vấn đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ, tơn trọng
nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân; từ thực tiễn cơ sở để đưa ra những phương thức, giải pháp
phát huy vai trò của cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường; đề xuất giải pháp tiếp tục xây dựng
ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân đối với các hoạt động
khoa học giáo dục của nhà trường nhằm góp phần thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ
chun mơn của từng đơn vị.
Tại Hội nghị, đồng chí Vũ Tuấn Dũng - Bí thư Đảng ủy Khối đã khẳng định vai trò to lớn của
nhân dân đối với cách mạng, đối với xây dựng đất nước, đồng thời nhấn mạnh: tư tưởng yêu nước,
thương dân, trọng dân, suốt đời vì cách mạng, vì dân mà hy sinh phấn đấu, khơng ham danh lợi,
với một lối sống chân thực, giản dị, khiêm nhường của Bác Hồ là tấm gương đạo đức vô cùng
trong sáng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và noi theo.
Theo đồng chí Bùi Tuấn Ngọc - Phó Trưởng ban Dân vận Thành ủy Hà Nội, từ thực tiễn xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các trường đại học, cao đẳng, khẳng định cần tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho sinh viên, có các biện pháp nâng cao đời sống, mơi trường học tập cho
sinh viên. PGS.TS. Nguyễn Xuân Sơn - Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và
Quản lý Hữu Nghị cho rằng, “dân” trong trường đại học, cao đẳng chính là sinh viên, cán bộ, giảng
viên, người lao động. Phải tôn trọng sinh viên, cán bộ, giảng viên thì đội ngũ lãnh đạo, quản lý sẽ
nhận lại sự tôn trọng tương xứng. Cùng với quan điểm trên, PGS.TS. Nguyễn Văn Trào - Bí thư Đảng
ủy, Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội chia sẻ quan điểm “tơn trọng sinh viên chính là tơn trọng

khách hàng” và thực hiện các hoạt động của trường theo hướng dịch vụ hóa.
Nhằm “Xây dựng ý thức tơn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
trong các trường đại học, cao đẳng, đồng chí Đào Xuân Dũng - Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành
ủy Hà Nội chỉ ra các biện pháp: cần đẩy mạnh học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở; vận động cán bộ, giảng viên, sinh viên tham gia phong trào quần chúng; phải sâu
sát cơ sở để nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, giảng viên, sinh viên.
Hội nghị là một hoạt động thiết thực nhằm hướng tới kỷ niệm 129 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh, 50 năm thực hiện Di chúc của Người; đồng thời là dịp để trao đổi kinh nghiệm, tuyên
truyền cho cán bộ chủ chốt, lan tỏa tới cán bộ, giảng viên, sinh viên nhận thức sâu sắc giá trị, nội
dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và đặc biệt là chuyên đề năm 2019 về
“Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên có phẩm chất chính
trị, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Nhà trường dân chủ, văn minh.
Hội thảo khoa học “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số
và miền núi”
Ngày 12/06/2019, Khoa Văn hóa dân tộc thiểu số (VHDTTS) đã tổ chức hội thảo khoa học “Đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi”.
112

Số 28 - Tháng 6 - 2019


TIN TỨC - SỰ KIỆN

Du lịch hiện nay được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, trong đó phát triển du lịch
vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi (MN) được coi là trọng điểm bởi đây là vùng có nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú, văn hóa tộc người đa dạng, thích hợp để phát triển nhiều loại
hình du lịch. Một trong những yếu tố cần thiết để phát triển du lịch ở vùng này chính là nguồn
nhân lực có kỹ năng và kiến thức chuyên môn vững vàng. Với mong muốn đào tạo nguồn nhân

lực phục vụ cho phát triển du lịch vùng DTTS và MN, Khoa VHDTTS đã xây dựng chuyên ngành “Tổ
chức và quản lý hoạt dộng du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi ”.
Với sự tham dự của đại diện các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch, cơ sở đào tạo du lịch, các
địa phương vùng DTTS và MN, các công ty du lịch, Hội thảo tập trung thảo luận các nội dung: 1.
Tiềm năng và thực trạng khai thác tài nguyên du lịch vùng DTTS và MN; 2. Thực trạng phát triển
và nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển du lịch vùng DTTS và MN từ thực tiễn các địa phương;
3. Yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực phục vụ du lịch vùng DTTS và MN (về kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm…) và sự cần thiết của việc mở chuyên ngành đào tạo về tổ chức và quản lý du lịch
vùng DTTS và MN.
TS. Nguyễn Anh Cường - Trưởng khoa VHDTTS báo cáo đề dẫn về tiềm năng và thực trạng phát
triển du lịch vùng DTTS và MN, thực trạng đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở các cơ sở đào tạo và
những yêu cầu đặt ra cho việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch vùng DTTS và MN.
Từ góc độ địa phương, bà Nguyễn Thu Đào - Phó Giám đốc Trung tâm xúc tiến du lịch tỉnh Hà
Giang trình bày tham luận về sự phát triển của du lịch Hà Giang. Ngành du lịch Hà Giang hiện đang
được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhưng nguồn nhân lực phục vụ du lịch còn rất thiếu
và yếu, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây cũng là thực trạng chung về tiềm năng,
thực trạng phát triển du lịch và nhu cầu về nguồn nhân lực du lịch ở các tỉnh miền núi phía Bắc
như Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lào Cai.
PGS.TS. Dương Văn Sáu - Trưởng khoa Du lịch, người gắn bó với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân
lực du lịch ở Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho rằng hoạt động du lịch vùng DTTS và MN có nhiều
tiềm năng, vì vậy, việc mở chuyên ngành Tổ chức và quản lý hoạt dộng du lịch vùng DTTS và MN là rất
cần thiết và triển vọng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là đào tạo nguồn nhân lực du lịch vùng DTTS và MN
phải đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn, phải tìm ra cái khác biệt về bản sắc văn hóa để giới
thiệu/kết nối đến du khách; người làm du lịch phải biết biến bản sắc văn hóa dân tộc thành nguồn
lực kinh tế; đồng thời thông qua hoạt động du lịch để bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc.
Dưới góc độ người sử dụng nguồn nhân lực du lịch, ông Lê Trung Thu - Giám đốc Công ty du
lịch Viettourist cho biết hiện nay ở vùng DTTS và MN nước ta đang rất thiếu và “khát” nguồn nhân
lực du lịch có trình độ cao và có sự gắn bó với vùng DTTS và MN. Do vậy, việc việc đào tạo nguồn
nhân lực này đang là yêu cầu cấp thiết để khai thác các nguồn lực tại chỗ phát triển ngành du lịch
ở địa phương. Ông cho rằng việc đào tạo nguồn nhân lực đặc thù cho vùng DTTS và MN cần nhấn

mạnh việc đào tạo những học viên có kiến thức, kỹ năng để biến/xây dựng văn hóa dân tộc thành
các sản phẩm du lịch độc đáo. Ơng Lương Thỉnh - Giám đốc Cơng ty Lương Gia Travel trao đổi về
cách PR và xây dựng đội ngũ nhân lực đào tạo ngành Tổ chức và quản lý hoạt động du lịch vùng
DTTS và MN. Còn PGS.TS. Bùi Thanh Thủy - Trưởng khoa Gia đình và Cơng tác xã hội lại nhấn mạnh
đến vấn đề xây dựng chương trình khoa học, phù hợp nhằm đào tạo được đội ngũ nhân lực du lịch
có kiến thức và kỹ năng tốt trong việc tổ chức và quản lý du lịch vùng DTTS và MN.
Ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, cơ sở đào tạo nhân lực, người sử dụng lao động, các nhà
tổ chức và quản lý du lịch ở địa phương… tham gia trong Hội thảo là những tham góp quý báu để
Khoa VHDTTS có những điều chỉnh, bổ sung nhằm xây dựng một chương trình đào tạo phù hợp
với tình hình thực tiễn, đáp ứng u cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao, phục vụ sự phát triển
của ngành du lịch vùng DTTS và MN nước ta hiện nay.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Số 28 - Tháng 6 - 2019

113



×