Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật môi trường: Đánh giá hàm lượng thuốc trừ sâu clo hữu cơ trong nước, trầm tích, thủy sinh vật tại cửa sông Sài Gòn – Đồng Nai và thử nghiệm độc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.04 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

-----------------------------

Nguyễn Xuân Tòng

ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG THUỐC TRỪ SÂU CLO HỮU CƠ TRONG NƯỚC,
TRẦM TÍCH, THỦY SINH VẬT TẠI CỬA SƠNG SÀI GỊN – ĐỒNG NAI VÀ THỬ
NGHIỆM ĐỘC TÍNH CỦA DDTs LÊN PHƠI, ẤU TRÙNG HÀU THÁI BÌNH
DƯƠNG, CÁ MEDAKA

Chun ngành: Kỹ thuật Mơi trường
Mã số: 9 52 03 20

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG

Hà Nội – Năm 2021


Cơng trình được hồn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam.

Người hướng dẫn khoa học 1: TS. Mai Hương
Người hướng dẫn khoa học 2: PGS.TS. Dương Thị Thủy

Phản biện 1: …


Phản biện 2: …
Phản biện 3: ….

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Học viện, họp tại Học viện Khoa
học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng
… năm 202

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia Việt Nam


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) nhóm clo hữu cơ (OCPs) đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới trong
nhiều thế kỷ qua để kiểm soát sâu bọ, nấm và các lồi cơn trùng khác nhau nhằm tăng năng suất sản xuất và
bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phòng chống muỗi gây bệnh sốt rét. Tuy nhiên, OCPs bị nghiêm cấm hoặc hạn
chế sử dụng trên toàn cầu vào một vài thập kỷ trước vì chúng gây độc cho các sinh vật sống.
Gần đây, các khu vực đô thị và công nghiệp phát triển nhanh chóng có thể là các nguồn ô nhiễm OCPs tiềm
ẩn kết hợp với việc sử dụng OCPs trái phép ở phía thượng nguồn làm cho nồng độ OCPs tăng lên trong nước
mặt và trầm tích phía hạ lưu hệ thống sơng Sài Gịn – Đồng Nai. Do đó, nghiên cứu về OCPs trong nước
mặt, trầm tích và các lồi sinh vật vùng cửa sơng là rất quan trọng. Vì vậy nghiên cứu của chúng tơi đã được
tiến hành từ năm 2017 – 2018 ở vùng cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai. Do đó, tơi quyết định chọn đề tài
“Đánh giá hàm lượng thuốc trừ sâu clo hữu cơ trong nước, trầm tích, thủy sinh vật tại cửa sơng Sài Gịn –
Đồng Nai và thử nghiệm độc tính của DDTs lên phơi, ấu trùng hàu Thái Bình Dương, cá medaka”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu của luận án là xác định dư lượng thuốc trừ sâu OCPs trong nước, trầm tích, thủy sinh vật tại cửa
sơng Sài Gịn – Đồng Nai và đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu DDTs lên phơi, ấu trùng hàu Thái Bình
Dương (Crassostrea gigas), cá medaka (Oryzias latipes).

3. Các nội dung nghiên cứu chính của luận án
Khảo sát hiện trạng ô nhiễm thuốc trừ sâu OCPs trong nước, trầm tích ở cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai theo
mùa và theo nhóm.
Khảo sát hiện trạng ơ nhiễm thuốc trừ sâu OCPs trong cá, nhuyễn thể hai mảnh vỏ và xác định nguồn gốc ô
nhiễm ở cửa sông Sài Gịn – Đồng Nai.
Đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu DDTs đến sinh trưởng của hàu Thái Bình Dương (Crassostrea gigas) và
cá medaka (Oryzias latipes) thông qua việc xác định LC50/EC50 và quan sát ảnh hưởng đến hình thái phơi, ấu
trùng.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về hóa chất BVTV
1.2. Tình hình nghiên cứu và hiện trạng tồn dư hóa chất BVTV trong mơi trường sinh thái thủy sinh
1.3. Tổng quan về hàu Thái Bình Dương (Crassostrea gigas), cá medaka (Oryzias latipes) và ứng dụng
trong đánh giá độc học sinh thái
1.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Hóa chất, dụng cụ và thiết bị thí nghiệm
2.2. Địa điểm lấy mẫu
2.3. Các phương pháp lấy mẫu
2.4. Phương pháp phân tích mẫu
2.4.1. Phân tích các thơng số hóa lý
Bảng 2. 1. Kỹ thuật phân tích các thơng số hóa lý mẫu nước mặt và trầm tích
Nền mẫu

Thơng số hóa lý

Kỹ thuật phân tích

pH, độ dẫn điện (EC), tổng chất Hydrolab
Nước mặt


Model

(Multi

rắn hòa tan (TDS), nhiệt độ

430iWTW)

Độ đục

Đĩa Secchi (đường kính 30 cm)

Set


2
Lắc 10 g trầm tích khơ trong 25
mL nước 10 phút. Lắng 10 phút,
pH

đo bằng máy đo pH điện tử (HI
8424,

HANNA

Instruments,

Sarmeola di Rubano PD, Ý)
Trầm tích


Máy phân tích tổng cacbon (Multi
Tổng cacbon hữu cơ (TOC)

C/N 3000, Analytik Jena AG,
Jena, Đức)
Máy phân tích kích thước hạt laser

Kích thước hạt

Microtrac S3500 (Microtrac Inc.,
Montgomeryville, PA, Hoa Kỳ)

2.4.2. Xác định OCPs trong mẫu nước
50 mL n–hexan được đưa vào phễu tách 2 lít chứa 1 lít nước cất và được lắc thủ cơng trong 5 phút và để lắng.
Sau khi chiết tách hoàn toàn, pha hữu cơ được dẫn lưu vào bình nón 250 mL, trong khi pha nước được chiết lại
hai lần với 50 mL n–hexan. Ba pha hữu cơ chiết xuất được kết hợp và sấy khô bằng cách đi qua một phễu thủy
tinh chứa natri sulfat khan. Phần hữu cơ được cô đặc bằng thiết bị cô quay chân không, tiến hành phân tích
OCPs trên thiết bị GC/ECD.
2.4.3. Xác định OCPs trong mẫu trầm tích
20g trầm tích khơ được chiết Soxhlet với 300 mL hỗn hợp n–Hexan:axeton (1:1) trong thời gian 16 giờ. Dịch
chiết sẽ được cô đặc và định mức về 10 mL. 5 mL dịch chiết được làm sạch trên cột nhồi florisil đã hoạt hóa
(Cột chiết có chiều dài 40 cm và đường kính 2 cm). Q trình rửa giải bằng 120 mL hỗn hợp n-hexan:DCM
(4:1) để thu OCPs. Dịch chiết sẽ được cô đặc và rửa loại chất màu và mùn bằng axit (nếu cần). Cuối cùng
dịch chiết được cô về 1 mL và chuyển vào lọ đựng mẫu, tiến hành phân tích OCPs trên thiết bị GC/ECD.
2.4.4. Xác định OCPs trong mẫu sinh vật
Quy trình xử lý mẫu sinh vật cho phân tích OCPs tương đối giống với quy trình xử lý mẫu trầm tích. Tuy
nhiên, trong mẫu sinh vật, hàm lượng lipit thường lớn nên quá trình rửa mẫu bằng axit sulfuric đặc được lặp
lại nhiều lần hơn (5 lần). Đồng thời, với mẫu sinh vật, không cần thêm phoi đồng để loại bỏ các hợp chất
sunfua.
2.5. Các phương pháp thử nghiệm trên phôi-ấu trùng hàu Thái Bình Dương và cá medaka

2.5.1. Phơi, ấu trùng hàu Thái Bình Dương
DDT 100 ppm được bổ sung vào trầm tích lần lượt với hàm lượng 2; 10; 20; 50; 200; 1000 µl cùng với tỷ lệ
nước biển nhân tạo:trầm tích (1:4), hỗn hợp được khuấy trong 5 phút. Tiến hành lắc trong 8 giờ và lắng qua
đêm để gạn nước trong.
20 mL dung dịch phôi, ấu trùng hàu được cho vào 1 mL dung dịch DDT ở các nồng độ khác nhau, mỗi nồng
độ lặp lại 3 lần.
2.5.2. Phôi, ấu trùng cá medaka
Chọn những phôi khỏe mạnh (những phơi có cấu trúc trong suốt, màng phơi cịn ngun vẹn, khối nỗn
hồng đặc đều) chuyển vào giếng thí nghiệm theo các nồng độ tương ứng của DDT là: 0,04; 0,08; 0,12; 0,16;
0,2; 0,24; 0,28 µg/L và đối chứng (0 µg/L). Mỗi thí nghiệm lặp lại ba lần, mỗi giếng có 10 phơi/nồng độ.


3
2.6. Các phương pháp đánh giá độc tính
2.6.1. Xác định LC50, EC50 và tỷ lệ sống chết
2.6.2. Phương pháp phân tích qRT-PCR để đánh giá ảnh hưởng của hóa chất BVTV đến cá medaka ở
mức độ sinh học phân tử
2.6.3. Các phương pháp quan sát hình thái, cấu tạo tế bào
2.7. Xử lý thống kê số liệu
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phân nhóm địa điểm lấy mẫu
Các vị trí lấy mẫu được phân thành các nhóm dựa trên sự tương đồng về nồng độ 06 hóa chất BVTV OCPs
trong nước và trầm tích bằng phương pháp phân tích cụm (CA). Mười hai vị trí lấy mẫu được nhóm thành
hai cụm (Hình 3.1).

Hình 3.1. Biểu đồ phân tích cụm trên khơng gian các vị trí lấy mẫu
3.2. Hiện trạng OCPs trong nước và trầm tích
3.2.1. Các thơng số hóa lý trong nước mặt và trầm tích
Tất cả các thơng số chất lượng nước (ngoại trừ độ đục) ở cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai khi so sánh với quy
chuẩn quốc gia 08–MT: 2015/BTNMT cột A1 về chất lượng nước mặt chỉ ra rằng giá trị đo các thông số

chất lượng nước được quan trắc nằm trong phạm vi giới hạn cho phép.
Sự thay đổi các tính chất hóa – lý trong trầm tích bị ảnh hưởng chủ yếu bởi các yếu tố cấu trúc, ví dụ: loại
trầm tích, kết cấu, vật liệu gốc và các yếu tố địa hình. Vào thời điểm mùa khơ, giá trị hóa lý trong trầm tích
cao chủ yếu liên quan đến lưu lượng nước thấp, dẫn đến tốc độ lắng đọng trầm tích cao. Trầm tích được thu
thập từ các nhánh sơng có thơng số hóa lý ở mức độ cao hơn so với các mẫu được thu thập từ dịng chính của
cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai.


4
3.2.2. Nồng độ OCPs trong nước
3.2.2.1. Biến thiên theo mùa
Sự biến đổi nồng độ OCPs theo mùa trong nước phụ thuộc phần lớn vào lượng mưa làm di chuyển các chất ô
nhiễm từ thượng nguồn hoặc những khu vực xung quanh, làm chúng lắng đọng trong các khu vực hạ lưu các
con sông, kết quả là nồng độ OCPs ở hạ lưu của sông vào thời điểm mùa mưa cao hơn mùa khô (Bảng 3.3).
Bảng 3. 3. Nồng độ của OCP (µg/L) trong nước ở hai mùa
OCPs

Mùa mưa

Mùa khơ

QCVN 08-

Min-max

TB

Min-max

TB


Nhóm DDTs

0,022–0,3

0,137

0,021–1,42

0,301

Nhóm HCHs

0,022–0,37

0,107

0,068–0,74

0,292

Aldrin

KPH–0,065

0,008

0,02–0,133

0,068


Heptachlor

0,002–0,031

0,009

0,004–0,25

0,040

Dieldrin

KPH–0,09

0,007

KPH–0,172

0,024

Endrin

0,007–0,036

0,019

0,004–0,12

0,027


MT:2015/BTNMT

Phụ lục 3

3.2.2.2. Thay đổi theo khơng gian (theo các nhóm)
Nồng độ DDTs, HCHs, aldrin, heptachlor và dieldrin trong nước ở nhóm 1 cao hơn đáng kể so với nhóm 2
(Bảng 3.7) cho thấy ảnh hưởng từ các hoạt động nơng nghiệp.
Bảng 3.7. Nồng độ của OCPs (µg/L) trong nước ở hai nhóm
OCPs

Nhóm 1

Nhóm 2

QCVN 08-

Min-max

TB

Min-max

TB

Nhóm DDTs

0,13–1,42

0,46


0,02–0,54

0,139

Nhóm HCHs

0,11–0,75

0,34

0,02–0,51

0,151

Aldrin

0,005–0,13

0,06

KPH–0,1

0,029

Heptachlor

0,006– 0,07

0,04


0,002–0,07

0,018

Dieldrin

0,006–0,17

0,04

KPH–0,07

0,008

Endrin

0,008–0,12

0,03

0,03–0,11

0,021

MT:2015/BTNMT

Phụ lục 3

3.2.3. Nồng độ OCPs trong trầm tích

3.2.3.1. Biến thiên theo mùa
Dư lượng các OCPs được tìm thấy trong trầm tích cũng giống như những OCPs được phát hiện trong các
mẫu nước, nồng độ vào thời điểm mùa mưa cao hơn đáng kể so với mùa khô (Bảng 3.10).
Bảng 3.101. Nồng độ của OCPs (µg/kg) trong trầm tích theo hai mùa
OCPs

Mùa mưa

Mùa khô
Min-max

TB

Min-max

TB

DDTs

0,09–9,75

3,4

1,22–23,17

8,04

HCHs

0,61–5,66


2,29

1–13,15

4,51

Aldrin

KPH–1,68

0,40

KPH–8,96

1,52

Heptachlor

KPH–3,44

1,01

0,22–24,9

3,58

Dieldrin

KPH–2,2


0,54

KPH–1,42

0,32

Endrin

KPH–2,51

0,97

0,19–4,97

1,40

QCVN 43:2017/BTNMT

Phụ lục 7


5
3.2.3.2. Thay đổi theo khơng gian (theo các nhóm)
Đối với trầm tích, nồng độ nhóm 1 bao gồm DDTs 11,8 µg/kg, HCHs 6,20 µg/kg, aldrin 2,37 µg/kg,
heptachlor 5,94 µg/kg, dieldrin 0,93 µg/kg và endrin 1,64 µg/kg cao hơn nhiều so với nhóm 2 lần lượt là
3,75; 2,47; 0,49; 1,08; 0,26 và 1,03 µg/kg (Bảng 3.14). Nồng độ của endrin trong trầm tích khơng chênh lệch
nhiều giữa hai nhóm.
Bảng 3.14. Nồng độ của OCPs (µg/kg) trong trầm tích ở hai nhóm
OCPs


Nhóm 1

Nhóm 2

QCVN 43:2017/BTNMT

Min-max

TB

Min-max

TB

DDTs

4,6–23,17

11,8

0,09–8,08

3,76

HCHs

2,55–13,15

6,20


0,61–5,52

2,47

Aldrin

0,38–8,96

2,37

KPH–2,67

0,49

Heptachlor

0,54–24,9

5,94

KPH–3,86

1,08

Dieldrin

KPH–2,2

0,93


KPH–1,61

0,26

Endrin

0,19–3,92

1,64

KPH–2,56

1,03

Phụ lục 7

3.2.4. Mối liên hệ giữa nồng độ OCPs trong nước và trong trầm tích
Sự thay đổi theo mùa có thể phản ánh hệ số tương quan giữa nồng độ tổng DDTs và tổng HCHs trong trầm
tích và nước cao hơn vào thời điểm mùa mưa so với mùa khơ (Hình 3.3).

Hình 3.3. Mối tương quan giữa nồng độ DDTs và HCHs trong nước và trầm tích


6

Hình 3.4. Mối tương quan giữa nồng độ aldrin, heptachlor, dieldrin và endrin trong nước và trầm tích
Việc tăng nồng độ của aldrin trong trầm tích cũng làm tăng đáng kể nồng độ aldrin trong nước vào thời điểm
mùa mưa, nhưng trong mùa khơ lại khơng tăng (Hình 3.4a). Ngược lại, nồng độ heptachlor và endrin trong
nước cũng tăng rõ rệt cùng với sự gia tăng nồng độ trong trầm tích vào thời điểm mùa khơ nhưng khơng tăng

vào mùa mưa (Hình 3.4b và 3.4d). Khơng có mối tương quan khác biệt nào giữa các nồng độ trong nước và
trong trầm tích của dieldrin ở thời điểm hai mùa (Hình 3.4c).
3.2.5. Đánh giá nguồn gốc ô nhiễm OCPs bằng phân tích thành phần chính
PCA/FA trích xuất ra làm ba thành phần chính (PC) có giá trị riêng lớn hơn 1 cho mỗi mùa và cho từng
nhóm. Ba OCPs đầu tiên, có ba phương sai cực đại tương ứng VF (nhân tố tiềm ẩn) có giá trị riêng lớn hơn
1, độ tích lũy chiếm 75% tổng giá trị phương sai trong thời điểm mùa khô và chiếm 84% trong thời điểm
mùa mưa, 87,6% đối với nhóm 1, và 69,9% đối với nhóm 2 (Bảng 3.19).
Bảng 3.192. Tương quan OCPs với những nhân tố tiềm ẩn (VF) hình thành từ phân tích PCA/FA trong hai
mùa và hai nhóm
Thơng số
Mùa khơ
VF1 VF2
Nước
DDTs
0,53 0,67
HCHs
0,18 0,85
Aldrin
-0,15 0,80
Heptachlor
0,28 0,62
Dieldrin
0,25 0,20
Endrin
0,37 0,73

VF3

Mùa mưa
VF1 VF2


0,10
0,19
0,36
-0,25
0,76
-0,12

0,53
0,46
0,16
0,86
0,20
-0,23

0,36
0,74
0,91
0,15
0,15
-0,08

VF3

Nhóm 1
VF1 VF2

0,67
0,26
-0,14

0,10
0,89
0,88

0,70
0,67
0,30
0,87
0,18
-0,20

0,26
0,69
0,90
0,19
0,11
-0,04

VF3

Nhóm 2
VF1 VF2

VF3

0,57
0,12
-0,07
0,05
0,92

0,90

0,18
0,71
0,87
0,65
0,07
-0,03

-0,25
-0,20
-0,18
-0,08
0,05
0,04

0,77
0,43
0,16
0,03
0,74
0,92


7
Trầm tích
DDTs
0,90 0,34 0,08 0,57 0,58 0,48 0,73 0,43 0,43 0,68 0,47 0,35
HCHs
0,83 0,23 -0,06 0,32 0,87 0,21 0,45 0,72 0,17 0,88 0,03 0,29

Aldrin
0,93 0,24 0,01 0,74 0,53 0,19 0,93 0,28 0,07 0,70 0,17 0,40
Heptachlor
0,81 0,19 -0,08 0,88 0,31 0,15 0,93 0,15 -0,05 0,46 0,61 0,41
Dieldrin
0,86 0,00 0,25 0,80 0,24 0,06 0,54 -0,72 -0,10 0,00 -0,07 0,85
Endrin
0,60 0,15 -0,58 0,88 0,25 -0,15 0,97 0,02 -0,07 0,57 -0,37 0,22
Giá trị riêng 5,91 1,98 1,11 6,92 2,04 1,18 6,62 2,19 1,69 4,86 2,27 1,26
% phương sai 49,2 16,5 9,2
57,6 17,0 9,9
55,2 18,3 14,1 40,5 18,9 10,5
tổng
Phần trăm 49,2 65,8 75,0 57,6 74,6 84,5 55,2 73,5 87,6 40,5 59,4 69,9
phương sai
tích lũy
Ghi chú: số in đậm là lớn hơn 0,75, và số gạch dưới là trong khoảng 0,5 đến 0,75. VF = Yếu tố phương
sai cực đại
Phân tích thành phần chính và phân tích nhân tố (PCA/FA) được dùng để xác định các thành phần
tiềm ẩn có trong sáu OCPs thử nghiệm trong nước và trầm tích nhằm xác định nguồn ơ nhiễm có thể phát
thải các thành phần này. Các điểm ơ nhiễm của PCA được thể hiện trong Hình 3.5, các biến được tạo bởi
nồng độ OCPs chủ yếu tại các vị trí lấy mẫu khác nhau.

Hình 3. 5. Hai OCPs được trích xuất khi thực hiện PCA/FA cho tồn bộ dữ liệu
PC1 chiếm 66,6% và PC2 chiếm 15,2% của phương sai tổng. Phương sai của OCPs trong nước và trầm tích
thu được từ 12 vị trí nghiên cứu vào thời điểm mùa khô thấp hơn so với thời điểm mùa mưa. Mùa khơ có giá
trị ở phía vùng âm của PC2, mùa mưa ở vùng dương của PC2. Vào thời điểm mùa mưa, nhóm 2 có phương
sai của nồng độ OCPs lớn nhất.
Kết quả nghiên cứu cho thấy dư lượng OCPs được phát hiện trong hầu hết các mẫu nước và trầm tích thu
thập ở cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai. Do đó, OCPs có khả năng tích lũy độc tính trong các lồi thủy sinh ở

lưu vực sơng như cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ.


8
3.3. OCPs trong cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ
3.3.1. Nồng độ các OCPs trong sinh vật theo loài
3.3.1.1. Tổng OCPs

Hình 3.6. Nồng độ của OCPs trong cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ
Nồng độ OCPs biến động giữa các vị trí thu mẫu, thấp nhất tại vị trí ST1 và cao nhất tại vị trí ST8 ở tất cả
các loài sinh vật khảo sát. Nồng độ OCPs được phát hiện trên sò huyết đạt giá trị cao nhất so với các lồi cịn
lại có giá trị dao động từ 6,360 – 45,904 µg/kg (trung bình 34,108 µg/kg), tiếp theo là cá bống bớp > trai >
vẹm xanh > ngao > hàu có giá trị lần lượt là: từ 7,685 – 40,297 µg/kg (trung bình 19,519 µg/kg); 4,794 –
37,585 µg/kg (trung bình 19,212 µg/kg); 0,323 – 35,359 µg/kg (trung bình 14,320 µg/kg); 7,181–18,462
µg/kg (trung bình 12,376 µg/kg) và 3,007 – 17,081 µg/kg (trung bình 9,297 µg/kg) (Hình 3.6).
3.3.1.2. Nhóm HCHs và đồng phân
Mức độ dư lượng HCHs trong mô thịt trai và sò huyết chiếm hàm lượng cao hơn 4 lồi cịn lại, hàm
lượng HCHs cao nhất ghi nhận ở mẫu mơ thịt trai 5,645 µg/kg và thấp nhất trong mẫu hàu 2,702 µg/kg
(Hình 3.7).
Các đồng phân α–, β–, γ– và δ–HCH có mặt trong hầu hết các mẫu được thu thập và tỷ lệ β–HCH
trên tổng HCHs cao nhất trong nhiều mẫu. Kết quả cũng cho thấy rằng tất cả các đồng phân của HCHs đang
hiện diện ở các khu vực cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai. Đối với các mô sinh vật, β–HCH là đồng phân chiếm
ưu thế và đóng góp 37 – 50% vào tổng số HCHs được quan sát trong các mô khác nhau, tiếp theo là α–, γ–,
δ–HCH chiếm lần lượt là 15 – 32%, 11 – 28% và 9 – 28%.


9

Hình 3.7. Nồng độ của HCHs trong cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ


Ghi chú: n = 13; a,c: khác biệt có ý nghĩa thống kê (5%) kiểm định Tukey HSD
3.3.1.3. Nhóm DDTs và đồng phân
Nồng độ DDTs khác nhau đáng kể đã được tìm thấy trong các lồi cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ, nồng độ
trung bình của DDTs nằm trong khoảng 3,588 – 9,524 µg/kg. DDTs trong các mẫu cá và nhuyễn thể hai
mảnh vỏ thu thập có xu hướng giảm dần theo thứ tự: cá bống bớp > trai > sò huyết > vẹm xanh > ngao > hàu
(Hình 3.9). Về mặt số liệu ghi nhận sự chênh lệch giữa các mẫu nhưng qua kết quả phân tích ANOVA hàm
lượng DDTs trong mẫu sinh vật khơng có sự khác biệt. Kết quả này có thể được quy cho các mơi trường
sống khác nhau, thói quen cho ăn và vị trí của chúng trong cấp bậc dinh dưỡng. Nồng độ DDTs trên cá
bống bớp cao nhất do chúng có tập tính sống ở đáy, ban ngày thường vùi mình xuống bùn nên lượng tích tụ
tương đối cao. Đối với vẹm xanh, ngao và hàu có thể sống bám ở các bờ đá nên khả năng tích tụ DDTs ít
hơn lồi cá bống bớp.

Hình 3. 9. Nồng độ của DDTs trong cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Ghi chú: n = 13; a,c: khác biệt có ý nghĩa thống kê (5%) kiểm định Tukey HSD


10
Tỷ lệ của p,p’–DDD trong tổng DDTs ở một số lồi như cá bống bớp, hàu, sị huyết và trai là chiếm ưu thế,
trong khi tỷ lệ p,p’–DDT ở một số loài như vẹm xanh và ngao là tương đối cao.
3.3.1.4. Endosulfans
Kết quả cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ khi phơi nhiễm với endosulfans cho thấy sị huyết tích lũy với nồng
độ cao vượt bậc so với cá bống bớp, hàu, vẹm xanh, ngao và trai (Hình 3.11). Kết quả phân tích ANOVA
cho thấy hàm lượng endosulfans trong mẫu sò huyết khác biệt với các mẫu sinh vật khác (p < 0,0001).

Hình 3.11. Nồng độ của endosulfans trong cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Ghi chú: n = 13; a,b: khác biệt có ý nghĩa thống kê (5%) kiểm định Tukey HSD
3.3.1.5. Các nhóm OCPs khác (heptachlor, aldrin, dieldrin, endrin)
Qua biểu đồ Hình 3.12a cho thấy mẫu sị huyết có hàm lượng heptachlor cao nhất tiếp theo là ngao, vẹm

xanh, trai, cá bống bớp. Hàm lượng độc chất này tích lũy trong sáu lồi sinh vật chêch lệch khá cao, khoảng
chênh lệch giữa mẫu sò huyết từ 0,453 – 3,032 µg/kg so với giá trị thấp nhất trong mẫu mơ thịt hàu là 0,484
µg/kg dao động từ 0,06 – 1,006 µg/kg. Hàm lượng heptachlor tương đối thấp nên khơng ảnh hưởng đáng kể
trong các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Các lồi sinh vật khác nhau thì hàm lượng tồn lưu giữa chúng khác
nhau p = 0,018, qua kết quả phân tích hậu ANOVA mẫu sị huyết và mẫu hàu có sự khác biệt nhau với giá trị
xác suất lần lượt là 0,0068 và 0,0496. Sự khác biệt về nồng độ heptachlor giữa các lồi khác biệt có ý nghĩa
thống kê (Hình 3.12a).


11

Hình 3.12. Nồng độ của heptachlor, aldrin, dieldrin, endrin trong cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Ghi chú: n = 13; a,c: khác biệt có ý nghĩa thống kê (5%) kiểm định Tukey HSD
Nồng độ aldrin và endrin được phát hiện trên sị huyết đạt giá trị cao nhất có ý nghĩa thống kê, với giá trị dao
động lần lượt là KPH – 5,421 µg/kg và KPH – 7,104 µg/kg (Hình 3.12b và 3.12d). Nồng độ aldrin thấp nhất
là trên ngao với giá trị thay đổi từ KPH – 0,031 µg/kg (trung bình 0,011 µg/kg). Nồng độ dieldrin có giá trị
cao nhất trên cá bống bớp, kế tiếp là sò huyết và thấp nhất trên hàu, với giá trị trung bình lần lượt là 1,743
µg/kg; 1,227 µg/kg và 0,077 µg/kg (Hình 3.12c). Hàm lượng aldrin và dieldrin giữa các mẫu sinh vật chênh
lệch không quá cao, chủ yếu hàm lượng dieldrin cao hơn aldrin, do aldrin dễ chuyển hóa thành dieldrin trong
môi trường. Nồng độ aldrin bị ảnh hưởng bởi yếu tố lồi khác nhau. Mẫu sị huyết so với mẫu vẹm xanh và
ngao khác biệt về ý nghĩa thống kê với giá trị xác suất nhỏ hơn 0,0001. Các mẫu trai, cá bống bớp và hàu tuy
khác nhau về mặt số liệu nhưng về mặt thống kê có kết quả giống nhau và là trung bình của mẫu sị huyết,
vẹm xanh và ngao p = 0,0012. Đối với hàm lượng dieldrin vẫn có sự khác nhau giữa các lồi sinh vật với giá
trị xác suất p = 0,0042, sau khi kiểm chứng hậu ANOVA cho thấy mẫu cá bống bớp với vẹm xanh, hàu và
ngao là khác biệt p < 0,0001.
3.3.2. Nồng độ các OCPs trong sinh vật theo khơng gian (vị trí)
So với sơng chính (ST1, ST5, ST6, ST7), các vị trí sơng phụ (ST8, ST9, ST10, ST11) có nồng độ DDTs trên
cá và các lồi nhuyễn thể hai mảnh vỏ cao hơn 3,2 lần (8,94 µg/kg/2,81 µg/kg) (Hình 3.13a), nồng độ



12
dieldrin cao hơn 1,4 lần so với sơng chính (0,8 µg/kg/0,57 µg/kg) (Hình 3.13b) và nồng độ OCPs cao hơn
1,5 lần (23,1/15,75 µg/kg) (Hình 3.13c).

Hình 3. 13. Nồng độ của (a) DDTs, (b) dieldrin và (c) OCPs trong cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ được thu
thập trong sơng chính và sơng phụ

Ghi chú: n = 31 (sơng chính); n = 27 (sơng phụ); a,b: khác biệt có ý nghĩa thống kê (5%) kiểm
định Tukey HSD
Nồng độ các OCPs trên các vị trí sơng phụ cao hơn sơng chính do việc tiếp nhận nhiều nguồn ô nhiễm khác
nhau từ các nhánh sơng phụ ở cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai. Chúng chảy qua các khu vực có hoạt động
nơng nghiệp phổ biến nơi thuốc trừ sâu từng được sử dụng rộng rãi cuốn theo các chất ô nhiễm vào nguồn
nước cửa sơng. Do sự tồn lưu và độc tính của các OCPs trong môi trường nên chúng đã bị cấm hoặc kiểm
soát việc sử dụng trong các hoạt động nơng nghiệp.
3.3.3. Nguồn ơ nhiễm OCPs trong sinh vật
Phân tích thành phần chính và phân tích nhân tố (PCA/FA) được dùng để xác định các thành phần tiềm ẩn có
trong bảy OCPs thử nghiệm trong các mô sinh vật và nhằm xác định những nguồn ơ nhiễm có thể xâm nhập
trong các thành phần này.
PCA/FA được trích xuất thành hai thành phần chính (PC) có giá trị riêng lớn hơn 1. Phương sai cực đại
tương ứng (VF) (nhân tố tiềm ẩn) có giá trị riêng lớn hơn 1, độ tích lũy chiếm 64,7% tổng giá trị phương sai
(Bảng 3.23). Nhân tố thứ nhất giải thích 46,7% tổng phương sai và cho thấy có tải trọng cao đối với DDTs,
aldrin và dieldrin, cũng như tải trọng vừa đối với HCHs và endrin. Nhân tố thứ hai được đặc trưng bởi tải
trọng dương cao đối với endosulfans và tải trọng vừa với heptachlor và endrin, thành phần này chiếm 18%
tổng phương sai.


13
Bảng 3. 23. Hệ số tải trọng của các thông số OCPs đối với các nhân tố khác nhau được hình thành từ phân
tích PCA/FA

Thơng số

VF1

VF2

Nhóm HCHs

0,56

0,41

Nhóm DDTs

0,77

-0,07

Heptachlor

0,26

0,58

Aldrin

0,85

0,29


Diedrin

0,86

0,13

Endrin

0,52

0,66

Nhóm endosulfans

-0,18

0,86

Giá trị riêng

3,27

1,26

% tổng phương sai

46,7

18,0


Phần trăm phương sai tích lũy

46,7

64,7

Ghi chú: số in đậm là những số lớn hơn 0,75; số được gạch chân là những số lớn
hơn 0,5 và nhỏ hơn 0,75; VF: hệ số varimax
Kết quả thu được PC1 giải thích 46,7% và PC2 giải thích 64,7% tổng phương sai (Hình 3.15). Sự phân bố
khác nhau của cá và các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ dọc theo PC1 và PC2 trong biểu đồ PCA chỉ ra rằng
các biến này có thể giải thích mơ hình OCPs được tìm thấy. Hai nhân tố chính được sử dụng để phân nhóm
loại nghiên cứu khác nhau dựa trên nồng độ các hợp chất OCPs. Kết quả phân tích thể hiện các mẫu sị huyết
có phạm vi nhiễm OCPs rộng hơn nhiều so với các lồi khác và trai là lồi có phạm vi thấp nhất trong các
lồi nghiên cứu.

Hình 3. 15. Nhóm cá và nhuyễn thể hai mảnh vỏ được kiểm tra dựa trên phân tích PCA/FA
3.4. Đánh giá độc tính của DDT
Từ kết quả đánh giá nồng độ các OCPs trong nước, trầm tích và sinh vật ở cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai cho
thấy DDT là hóa chất chiếm nồng độ cao nhất và chủ yếu trong các mẫu thu thập. Bên cạnh đó, giá thành


14
DDT rẻ, là hóa chất được sử dụng phổ biến trong nông nghiệp nhằm ngăn chặn sự xâm hại của côn trùng đối
với cây trồng và diệt nhiều côn trùng gây dịch cho con người. Do tính độc hại và phổ biến trong mơi trường
nên hóa chất DDT được lựa chọn để đánh giá độc tính lên phơi, ấu trùng sinh vật thủy sinh.
3.4.1. Độc tính của DDT đến sinh trưởng của phơi, ấu trùng hàu Thái Bình Dương
3.4.1.1. Khảo sát trong mơi trường nước

Hình 3. 16. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ phân bào của phơi hàu Thái Bình Dương sau 2 giờ phơi nhiễm với DDT
trong môi trường nước biển nhân tạo

DDT ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát triển của phơi hàu Thái Bình Dương sau 2 giờ phơi nhiễm trong
môi trường nước biển nhân tạo. Tỷ lệ phôi chậm phát triển, chưa phân bào thay đổi tuyến tính theo sự tăng
dần của nồng độ DDT. Tỷ lệ phôi chậm phát triển tăng từ 28% đến 58% tương ứng với nồng độ từ 0,1 đến
100 g/L so với mẫu đối chứng chỉ có 2% (Hình 3.16). Ảnh hưởng của DDT đến việc làm chậm phát triển
của phôi hàu sau 2 giờ phơi nhiễm trong môi trường nước được thiết lập với giá trị EC50 là 66,88 µg/L.

Hình 3. 18. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ phần trăm phôi, ấu trùng tử vong (Mean ± SE) sau 24 giờ phơi nhiễm với
DDT trong nước biển nhân tạo


15
Tỷ lệ tử vong của phôi và ấu trùng thay đổi tuyến tính theo sự tăng dần của nồng độ DDT trong môi trường
nước. Tỷ lệ tử vong thay đổi tương ứng từ 44% đến 69% tương ứng với sự gia tăng nồng độ phơi nhiễm
DDT từ 0,1 đến 100 g/L so với mẫu đối chứng (0 g/L) chỉ có 3% (Hình 3.18). Ảnh hưởng của DDT đến tỷ
lệ tử vong của phôi và ấu trùng hàu sau 24 giờ phơi nhiễm trong môi trường nước được thiết lập với giá trị
LC50 là 4,62 µg/L.
3.4.1.2. Khảo sát trong mơi trường trầm tích
Trong mẫu đối chứng tỷ lệ phơi chậm phát triển là 2%, ở các mẫu thử nghiệm tỷ lệ này tăng dần từ 18% đến
75% tuyến tính theo sự gia tăng nồng độ DDT từ 0,01 đến 5 mg/kg sau 2 giờ phơi nhiễm (Hình 3.20). Ảnh
hưởng của DDT đến sự chậm phát triển của phôi trùng hàu sau 24 giờ phơi nhiễm trong mơi trường trầm tích
được thiết lập với giá trị EC50 là 1,1 mg/kg.

Tỷ lệ phôi chậm phát triển (%)

100

80

a


b

60
b
40

c
cd
cd

20
d
0
0

0,01

0,05

0,1

0,5

1

5

Nồng độ (mg/kg)

Hình 3. 20. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ phần trăm phôi chậm phát triển (Mean ± SE) sau 24 giờ phơi nhiễm với

DDT trong trầm tích

Hình 3. 22. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ phần trăm phôi, ấu trùng tử vong (Mean ± SE) sau 24 giờ phơi nhiễm với
DDT trong trầm tích


16
Tỷ lệ tử vong của phôi, ấu trùng hàu trong mẫu đối chứng là khá thấp chỉ 3% so với các mẫu thử nghiệm ghi
nhận giá trị tăng dần từ 27% đến 84% tương ứng với sự tăng nồng độ DDT phơi nhiễm từ 0,01 đến 5 mg/kg
(Hình 3.22). Ảnh hưởng của DDT đến tỷ lệ tử vong của phôi và ấu trùng hàu sau 24 giờ phơi nhiễm trong
môi trường trầm tích được thiết lập với giá trị LC50 là 0,3 mg/kg.
3.4.1.3. Khảo sát hình thái phơi và ấu trùng hàu


Trong mơi trường nước

Hình 3. 24. Kết quả chụp SEM hình thái cấu trúc phơi hàu Thái Bình Dương C. gigas trong môi trường nước
biển nhân tạo sau 24 giờ

Hình 3. 25. Kết quả chụp TEM cấu trúc bào quan phơi hàu Thái Bình Dương C. gigas trong mơi trường nước
biển nhân tạo ở mẫu đối chứng (không phơi nhiễm với DDT) sau 24 giờ


17
Kết quả chụp SEM cho thấy phôi hàu ở mẫu đối chứng có hình trịn hoặc hình cầu với bề mặt ngồi nhẵn,
mịn và đang tiến hành q trình phân bào (Hình 3.24a). Phơi hàu trở lên biến dạng, bề ngoài sần sùi và bị vỡ
nát sau khi phơi nhiễm với hóa chất BVTV DDT (Hình 3.24b, c, d). Điều này chứng tỏ hóa chất BVTV đã
làm thay đổi đáng kể hình thái phơi hàu và thậm chí làm chết phơi.
Ở mẫu đối chứng (Hình 3.25a, b, c, d) ảnh chụp TEM ở các vị trí khác nhau cho thấy, khi khơng bổ sung hóa
chất BVTV DDT và ni phơi trong điều kiện bình thường, siêu cấu trúc bào quan phơi hàu có hình cầu hoặc

trịn (Hình 3.25d), bào quan bên trong phôi rõ ràng. Bên trong tế bào chất, lưới nội chất nguyên vẹn đầy đủ
(mũi tên 2) và các hạt có vỏ capsids và ty thể nguyên vẹn (mũi tên 1) với nội hạt nhân dày đặc, rõ ràng phía
dưới lớp cơ phụ (Hình 3.25a, c), thành tế bào ngồi cùng của phơi dày (kích thước đo được 610 nm, Hình
3.25b).
Sau 24 giờ phơi nhiễm với hóa chất BVTV DDT ở nồng độ 1 g/L, các bào quan bên trong hầu như bị phá
hủy (Hình 3.26b, c, d), thành tế bào mỏng hơn (405-440 nm, Hình 3.26a), vỏ capsids với nội hạt nhân bên
trong bị phá hủy và rỗng (mũi tên Hình 3.26b), lưới nội chất khơng cịn ngun vẹn (mũi tên Hình 3.26d).
Điều này chứng tỏ hóa chất BVTV DDT đã gây ảnh hưởng đến cấu trúc bào quan bên trong phơi hàu.

Hình 3. 26. Kết quả chụp TEM cấu trúc bào quan phơi hàu Thái Bình Dương C. gigas trong môi trường nước
biển nhân tạo ở mẫu thử nghiệm (phơi nhiễm với 1 g/L DDT) sau 24 giờ


Trong mơi trường trầm tích

Tương tự như trong mơi trường nước biển nhân tạo, ảnh SEM cấu trúc bề mặt phơi hàu Thái Bình Dương C.
gigas trong mẫu trầm tích giữa mẫu đối chứng (khơng phơi nhiễm với DDTs, Hình 3.27a) và mẫu thực
nghiệm (phơi nhiễm với DDTs 1 mg/kg, Hình 3.27b, c, d) cũng có sự khác biệt đáng kể. Ở mẫu đối chứng
cấu trúc bề mặt phôi hàu nhẵn, mịn và đang tiến hành quá trình phân bào (Hình 3.27a). Ngược lại, ở mẫu


18
thực nghiệm cấu trúc bề mặt phôi hàu bị tác động lớn, phơi bị phá hủy mạnh, thậm chí bị vỡ làm chết phơi
(Hình 3.27b, c, d).

Hình 3. 27. Kết quả chụp SEM hình thái cấu trúc phơi hàu Thái Bình Dương C. gigas trên mơi trường trầm
tích sau 24 giờ

Hình 3. 28. Kết quả chụp TEM cấu trúc bào quan phơi hàu Thái Bình Dương C. gigas ở mẫu trầm tích đối
chứng (khơng phơi nhiễm với DDT) sau 24 giờ



19

Hình 3. 29. Kết quả chụp TEM cấu trúc bào quan phơi hàu Thái Bình Dương C. gigas ở mẫu trầm tích thử
nghiệm (phơi nhiễm với DDT ở nồng độ 1mg/kg) sau 24 giờ
Tương tự như trong môi trường nước, cấu trúc bào quan giữa mẫu đối chứng (không phơi nhiễm DDTs) và
mẫu thử nghiệm (phơi nhiễm DDTs với nồng độ 1mg/kg) có sự thay đổi lớn. Ở mẫu đối chứng khơng có sự
tác động của DDTs, cấu trúc bào quan cịn ngun vẹn, lưới nội chất (Hình 3.28b, mũi tên 2; Hình 3.28c,
mũi tên 4) xếp thành lớp, các hạt capsid với nội hạt nhân dày đặc rõ ràng (Hình 3.28b, mũi tên 1), ty thể cịn
ngun vẹn (Hình 3.28c, mũi tên 3) và lớp cơ phụ với cấu trúc thành tế bào bao ngoài rõ ràng, dày dặn từ
364 đến 370 nm (Hình 3.28a), cấu trúc các tế bào tuyến sinh dục cịn ngun vẹn (Hình 3.28d). Khi phơi
nhiễm với DDTs ở nồng độ 1 mg/kg, kết quả TEM chụp cấu trúc cắt ngang phôi hàu cho thấy hầu hết các
bào quan trong phôi đều bị ảnh hưởng. Lưới nội chất bị phá hủy (Hình 3.29a mũi tên 3), các hạt nucleus với
hạt nhân rỗng hoặc đang bị phân hủy (Hình 3.29a, mũi tên 1, 2), thành tế bào bao quanh bào quan mỏng đi
chỉ còn 293 đến 315 nm (Hình 3.29d), bề mặt cắt ngang bào quan hầu như đều đang phân hủy bên trong mô
liên kết lớp phủ (Hình 3.29b, c).
3.4.2. Độc tính của DDT đến sinh trưởng của phơi cá medaka
3.4.2.1. Đánh giá độc tính của DDT đến sinh trưởng và phát triển phôi cá medaka O. Latipes


20

Hình 3. 30. Biến động tỷ lệ tử vong của phôi cá medaka sau 24, 48, 72 và 96 giờ phơi nhiễm với 0; 0,04;
0,08; 0,12; 0,16; 0,2 và 0,24 μg/L hóa chất DDT
Độc tính của hóa chất BVTV ở các nồng độ khác nhau ảnh hưởng đến phôi cá medaka là khác nhau, nồng độ
của DDT càng cao thì tỷ lệ sống của phôi cá medaka càng giảm. Trong đó, nồng độ 0,28 g/L thể hiện độc
tính mạnh nhất với tỷ lệ tử vong là 100% chỉ sau 24 giờ phơi nhiễm (không thể hiện trên biểu đồ). Ở các
nồng độ còn lại, tỷ lệ tử vong thay đổi tương ứng từ 8,3-85% (24 giờ); 18,3-96,7% (48 giờ); 30-100% (72
giờ) và tăng lên 43-100% (96 giờ) so với mẫu đối chứng có tỷ lệ sống sót đạt 100% ở cả bốn thời điểm phơi

nhiễm (Hình 3.30).
3.4.2.2. Đánh giá độc tính LC50 số cá thể tại thời điểm phơi nhiễm DDT
Tỷ lệ tử vong của phôi cá medaka tăng tuyến tính với nồng độ hóa chất DDT và tăng khi thời gian phơi
nhiễm kéo dài (Bảng 3.29).
Bảng 3. 293. Giá trị LC50 của DDT tại các thời điểm 24, 48, 72 và 96 giờ phơi nhiễm
Nồng độ DDT (μg/L ), ρ < 0,05
Tỷ lệ tử vong

24 giờ

48 giờ

72 giờ

96 giờ

LC50

0,101

0,077

0,049

0,036


21
3.4.2.3. Khảo sát hình thái phơi cá medaka
Phơi cá medaka phơi nhiễm với hóa chất DDT bị biến dạng phần đầu và cổ (Hình 3.32a, 3.32c), đầu và mắt

bị phù nề (Hình 3.32b, 3.32d), hai mắt quá gần nhau (Hình 3.32e) và cổ cong vẹo (Hình 3.32f) so với mẫu
đối chứng (Hình 3.32g).

Hình 3. 32. Độc tính của DDT đến phơi cá medaka O. latipes, những khiếm khuyết hình thái điển hình
3.4.2.4. Đánh giá độc tính của DDT bằng phương pháp phân tích RT-PCR

Hình 3. 33. Biểu hiện của 3 gen p53, rara1 và wnt trên phôi cá medaka sau khi phơi nhiễm với 1700 g/L
DDT bằng phương pháp Real-time PCR
Sự biểu hiện của các gen cá medaka sau khi phơi nhiễm với DDT 1700 g/L trong 24 giờ đã được phân tích
bằng phương pháp Real-time PCR. So với mẫu đối chứng (Sự biểu hiện của gen là 1), sự biểu hiện của rara1
và wnt được gây ra mạnh mẽ sau khi tiếp xúc với với 1700 g/L DDT trong 24 giờ (lần lượt là 4,9 và 5,4
lần). Sự biểu hiện của gen p53 có xu hướng bị ức chế sau khi tiếp xúc với DDT ở phôi cá medaka (0,9 lần)
(Hình 3.33).


22

Hình 3. 34. Biểu hiện của 3 gen p53, rara1 và wnt trên phôi cá medaka sau khi phơi nhiễm với 1500 và 1700
g/L DDT bằng phương pháp Real-time PCR
Kết quả phân tích ở Hình 3.34 cho thấy, sự biểu hiện của cả 3 gen p53, rara1 và wnt đều giảm theo nồng độ
được phơi nhiễm. Kết quả này hoàn tồn trái ngược với giai đoạn phơi, sự biểu hiện cả hai gen rara1 và wnt
đều giảm đáng kể ở các mẫu thử nghiệm phơi nhiễm với DDT so với mẫu đối chứng không phơi nhiễm với
DDT. Cụ thể, đối với gen p53, sự biểu hiện của gen này ở cá medaka trưởng thành giảm lần lượt là 0,9 và
0,5 lần sau khi tiếp xúc với DDT ở nồng độ 1500 và 1700 g/L so với mẫu đối chứng (1 lần). Tương tự, sự
biểu hiện của gen rara1 ở cá medaka trưởng thành cũng giảm so với mẫu đối chứng sau khi tiếp xúc với
DDT ở nồng độ 1500 và 1700 g/L lần lượt là 0,36 và 0,09 lần. Đối với gen wnt, sự biểu hiện của gen này cá
medaka trưởng thành giảm lần lượt là 0,53 và 0,09 lần sau khi tiếp xúc với DDT ở nồng độ 1500 và 1700
g/L.
3.4.3. Kết quả đánh giá hình thái, cấu trúc gan cá medaka


Hình 3. 36. Cấu trúc tế bào gan cá medaka đối chứng (không phơi nhiễm với DDT 1g/L) sau 24 giờ
Ảnh TEM gan cá medaka trong mẫu đối chứng (khơng phơi nhiễm với DDT) cho thấy, gan có cấu
trúc và hình thái điển hình: tĩnh mạch cửa, động mạch gan và ống mật nằm độc lập, các tế bào gan được sắp


23
xếp trong các tấm ngăn cách bởi một lưới hình sin (Hình 3.36b, mũi tên đỏ), các hạt lipit, nhân tế bào gan và
hạt nhân cũng như các hạt lysosome được nhìn thấy rõ ràng (Hình 3.36a, b, c, d mũi tên trắng). Phân bố của
các lipit có thể được nhìn thấy trên tồn bộ gan, tỷ lệ hạt nhân cao so với tế bào chất.

Hình 3. 37. Cấu trúc tế bào gan cá medaka thử nghiệm (phơi nhiễm với DDT 1g/L) sau 24 giờ; nu – hạt
nhân; hn – nhân hepatocyte s; ly – lysosome
Ngược lại, ảnh TEM trong mẫu thử nghiệm ở Hình 3.37 cho thấy rằng cấu tạo tế bào gan bị ảnh hưởng
nghiêm trọng dưới tác động của DDT. Nhân tế bào méo mó, xuất hiện nhiều hạt lipit rỗng, các tấm lưới hình
sin bị co cụm, đứt đoạn; lysosome khơng cịn ngun vẹn, xuất hiện nhiều bong bóng thối hóa.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Đã phát hiện sáu OCPs với các nồng độ khác nhau trong nước và trầm tích của cửa sơng Sài Gịn – Đồng
Nai vào thời điểm mùa mưa cao hơn mùa khô. DDTs được phát hiện ở các mẫu nước trong thời điểm cả hai
mùa với nồng độ cao nhất; giá trị DDTs, HCHs, aldrin, heptachlor, dieldrin, và endrin lần lượt là 0,137 µg/L;
0,107; 0,008; 0,009; 0,007 và 0,019 µg/L (thời điểm mùa khô) và là 0,301; 0,292; 0,067; 0,040; 0,024 và
0,027 µg/L (thời điểm mùa mưa). Nồng độ trong mẫu nước của nhóm 1 cao hơn nhiều so với nhóm 2 lần
lượt là 0,139; 0,151; 0,029; 0,018 và 0,008 µg/L. Đối với trầm tích, nồng độ DDTs, HCHs, aldrin,
heptachlor, dieldrin, và endrin trong thời điểm mùa khô là 3,49; 2,29; 0,40; 1,01; 0,54 và 0,97 µg/kg và thời
điểm mùa mưa lần lượt là 8,04; 4,51; 1,52; 3,58; 0,32 và 1,40 µg/kg. OCPs xuất hiện ở hạ lưu sơng có nguồn
gốc chính từ phía thượng lưu và khu vực xung quanh thông qua các hoạt động xả thải của khu công nghiệp
và dân cư.
2. Đã ghi nhận OCPs trong cá và các lồi nhuyễn thể hai mảnh vỏ ở cửa sơng Sài Gịn – Đồng Nai. OCPs
trong sị huyết có giá trị cao nhất so với các lồi cịn lại có giá trị trung bình 34,108 µg/kg, tiếp theo là cá
bống bớp > trai > vẹm xanh > ngao > hàu có giá trị lần lượt là 19,519 µg/kg; 19,212 µg/kg; 14,320 µg/kg;
12,376 µg/kg và 9,297 µg/kg. Nồng độ DDT có giá trị cao nhất, tiếp theo là HCH và các OCPs khác. Nồng



×