Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ, DOANH THU VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BÚT SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.63 KB, 15 trang )

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ, DOANH THU VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XI
MĂNG BÚT SƠN
3.1. Đánh giá thực trạng về kế toán chi phí, doanh thu và xác định kết
quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Xi măng Bút Sơn
Công ty CP Xi măng Bút Sơn là Công ty mới thành lập không lâu tuy
nhiên đã có những bước phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu đáng
tự hào. Những năm đầu Công ty đi vào sản xuất, thiết bị chưa ổn định hoàn
toàn, sản phẩm xi măng Bút Sơn mới ra đời, phải cạnh tranh với những sản
phẩm xi măng khác có uy tín trên thị trường nên việc tiêu thụ rất khó khăn.
Đến nay, Công ty CP Xi măng Bút Sơn đã có nhiều nỗ lực, bứt phá trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, nhanh chóng hòa nhập vào ngành công nghiệp xi
măng của Việt Nam, đem lại sự vinh quang cho thương hiệu “Quả địa cầu”.
Xi măng Bút Sơn đã nhanh chóng khẳng định mình. Từ năm 2002 đến năm
2006 mức sản xuất và tiêu dùng sản phẩm này luôn vượt công suất thiết kế và
tăng trưởng cao. Năm 2006, Công ty đã xây dựng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 và hệ thống quản lý môi trường theo tiêu
chuẩn ISO 14.000-1996 đã được trung tâm chứng nhận quốc tế Quacert cấp
giấy chứng nhận.
Công ty đạt được kết quả như vậy một phần nhờ sự hoạt động có hiệu quả
của toàn bộ nhân viên thuộc phòng Kế toán-Tài chính-Thống kê và năng lực
quản lý của lãnh đạo Công ty trong công tác hạch toán kế toán. Với một đơn vị
sản xuất kinh doanh thì việc hạch toán chi phí, doanh thu và xác định kết quả
tiêu thụ là khá quan trọng bởi đó là nguồn thu chủ yếu và phần nào phản ánh
hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Trong quá trình thực tập tại Công ty, nghiên cứu phần hành hạch toán chi
phí, doanh thu và xác định kết quả tiêu thụ, em nhận thấy Công ty có một số
ưu điểm và tồn tại sau:
3.1.1. Những ưu điểm
* Về bộ máy kế toán
Bộ máy kế toán Công ty phù hợp với đặc điểm của một Công ty có quy


mô sản xuất lớn và được tổ chức theo mô hình kế toán tập chung. Bộ máy kế
toán của Công ty gồm 19 người được tổ chức khoa học có sự phân công phân
nhiệm rõ ràng, cán bộ kế toán đều là những người có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, nhiệt tình, năng động được bố trí công việc phù hợp với trình độ
chuyên môn, năng lực của từng người. Các phần hành kế toán nói chung và
công tác kế toán chi phí, doanh thu và xác định kết quả tiêu thụ nói riêng
được thực hiện theo đúng Chế độ và Chính sách kế toán của Bộ Tài chính.
Bộ máy kế toán của Công ty hoạt động khá hiệu quả góp phần đảm bảo
sự thông suốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, đồng thời
cung cấp những thông tin cần thiết và chính xác, kịp thời cho Ban lãnh đạo.
* Về chính sách và chế độ kế toán
Chính sách và chế độ kế toán của Công ty được xây dựng dựa trên hệ
thống chính sách và chế độ kế toán của Bộ Tài chính ban hành và được thiết
kế phù hợp với đặc điểm hoạt động của Công ty, góp phần thuận lợi cho công
tác hạch toán kế toán tại Công ty.
Công ty ban hành thêm một số chứng từ cần thiết cho hoạt động của
mình, chứng từ được tổ chức hợp lý, ghi chép đầy đủ trung thực các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh. Sổ sách của Công ty được tổ chức chặt chẽ, khoa học. Hệ
thống tài khoản kế toán của Công ty được chi tiết theo từng đối tượng để dễ
theo dõi và tập hợp. Các Báo cáo kế toán của Công ty được lập và nộp đầy đủ
cho cơ quan có thẩm quyền.
Công ty ghi nhận chi phí, doanh thu và xác định kết quả tiêu thụ theo hình
thức nhật ký chung là phù hợp với đặc điểm của Công ty. Hình thức này thuận
tiện cho áp dụng kế toán máy, giúp giảm bớt khối lượng công việc nhưng vẫn
phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và việc hạch toán trở nên đơn
giản. Công ty áp dụng hạch toán thành phẩm theo phương pháp kê khai thường
xuyên và đánh giá thành phẩm xuất kho theo phương pháp bình quân gia quyền
theo từng tháng là hoàn toàn hợp lý.
* Về việc áp dụng công nghệ thông tin
Công ty bắt đầu áp dụng kế toán máy năm 1999, hiện nay Công ty sử

dụng phần mềm kế toán FAST ACCOUNTING. Việc áp dụng kế toán máy
giúp cho công tác kế toán giảm bớt khối lượng công việc, gọn nhẹ trong quá
trình từ xử lý chứng từ, vào sổ sách kế toán cho đến khi lên các Báo cáo. Số
lượng xuất thường xuyên và tổng hợp số liệu để vào sổ sách là rất lớn nên việc
áp dụng kế toán máy giúp cho kế toán viên tiết kiệm được thời gian công sức
nhưng vẫn đảm bảo kế toán một cách chính xác. Ví dụ như, trước đây khi sử
dụng kế toán thủ công, việc lên Sổ cái vào cuối kỳ gặp rất nhiều khó khăn vì
khối lượng công việc quá lớn nhưng từ khi sử dụng kế toán máy, vào cuối kỳ
chỉ cần thực hiện một vài bút toán kết chuyển tự động thì chương trình sẽ tự lên
các Báo cáo theo yêu cầu quản lý và kế toán viên chỉ việc in ra để lưu giữ nếu
cần thiết.
* Về hạch toán giá vốn hàng bán
Công ty hiện nay tính giá vốn thành phẩm xuất bán theo phương pháp
bình quân cả kỳ dự trữ. Số lượng các nghiệp vụ xuất bán sản phẩm của công
ty là rất lớn việc áp dụng phương pháp này là hoàn toàn hợp lý và việc xác
định giá vốn hàng bán sẽ được thực hiện vào cuối tháng bằng cách vào “Phân
hệ kế toán hàng tồn kho” và chạy “Tính giá trung bình” chương trình sẽ tự
động tính giá vốn cho hàng xuất bán trong kỳ. Như vậy, giá vốn hàng bán
được tính ra có độ chính xác cao.
* Về việc hạch toán và phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp
Công ty hạch toán các khoản chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp theo đúng chế độ kế toán hiện hành. Việc phân bổ các khoản chi phí
này đảm bảo nguyên tắc doanh thu phù hợp với chi phí. Đến cuối kỳ tiến hành
phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh cho thành
phẩm tiêu thụ. Việc phân bổ các khoản chi phí này giúp công ty xác định kết
quả tiêu thụ cho từng loại sản phẩm một cách chính xác và có độ tin cậy cao,
đánh giá đúng được hoạt động sản xuất kinh doanh cho từng loại sản phẩm và
từ đó có những biện pháp nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ cho những sản
phẩm đó.

* Về hạch toán doanh thu bán hàng
Doanh thu của từng loại sản phẩm được theo dõi dựa trên hệ thống các
chứng từ liên quan và hệ thống các danh mục tài khoản được chi tiết cho từng
loại sản phẩm. Công ty CP Xi măng Bút Sơn không tiến hành hạch toán các
khoản giảm trừ doanh thu như vậy quá trình hạch toán doanh thu bán hàng
của Công ty trở nên đơn giản hơn.
3.1.2. Những tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm thì công tác hạch toán doanh thu, chi phí và xác
định kết quả tiêu thụ trong Công ty CP Xi măng Bút Sơn vẫn còn những tồn
tại cần phải khắc phục sau:
Thứ nhất, Công ty đã áp dụng phần mềm Fast Accoungting để thực hiện
các công tác kế toán trong Công ty. Hằng ngày, kế toán chỉ cập nhật các
chứng từ cần thiết, và thực hiện một số bút toán và các thao tác kết chuyển
trên máy, chương trình sẽ tự động kết chuyển lên sổ chi tiết, sổ cái và các sổ
tổng hợp liên quan khi cần thiết kế toán chỉ cần in ra. Tuy nhiên, ngoài việc
kế toán chi tiết trên máy, các nhân viên kế toán vẫn phải thực hiện một số
thao tác hỗ trợ trên phần mềm excel và các phần mềm phụ trợ khác. Như vậy,
phần mềm kế toán Fast accounting được thiết kế riêng cho Công ty vẫn còn
một số hạn chế.
Thứ hai, các nghiệp vụ nhập xuất thành phẩm và các nguyên vật liệu,
công cụ, dụng cụ, bao bì sử dụng cho các bộ phận trong Công ty nói chung,
bộ phận bán hàng và quản lý doanh nghiệp nói riêng là rất lớn và phát sinh
thường xuyên, chính vì vậy mà khối lượng chứng từ cũng rất lớn. Khi phát
sinh các nghiệp vụ này, kế toán vật tư phải đi lấy chứng từ từ các bộ phận
khác nhau, và có khi chứng từ không được chuyển đến kịp thời cho kế toán
ghi nhận, gây khó khăn trong việc hạch toán.
Thứ ba, về kế toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, ta
thấy Công ty tính lương cho bộ phận bán hàng và bộ phận quản lý doanh
nghiệp theo công thức tính lương chung cho toàn Công ty, cách tính y hệt
giống lương của nhân viên trực tiếp sản xuất. Điều này là không hợp lý bởi vì

bộ phận bán hàng và quản lý doanh nghiệp không phải là những người trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm, đặc biệt là ở bộ phận quản lý doanh nghiệp đều là
những tri thức có bằng cấp và công việc của họ xét ở một khía cạnh nào đó thì
có hiệu quả cao và ảnh hưởng lớn đến toàn bộ Công ty. Trong thời gian gần
đây thì có một số trường hợp các nhân viên có bằng cấp không thoả mãn với
tiền lương được lĩnh đã thôi không làm việc tại Công ty như vậy Công ty đã
đánh mất một nguồn chất xám lớn.
Thứ tư, việc kế toán doanh thu ta thấy Công ty không theo dõi các khoản
giảm trừ doanh thu như chiết khấu thương mại, hàng bán bị trả lại, giảm giá
hàng bán. Ở Công ty hầu như không xuất hiện những hiện tượng này. Tuy
nhiên trong quá trình sản xuất kinh doanh, Công ty không thể đảm bảo hoàn
toàn về chất lượng sản phẩm của mình. Khi khách hàng không yên tâm về
chất lượng và trả lại hàng cho Công ty thì Công ty buộc phải hạch toán các
nghiệp vụ này.
Công ty quy định giá bán trên khung giá của Tổng Công ty vì vậy Công
ty có quyền định giá phù hợp và thay đổi giá trong khung quy định. Như vậy,
việc Công ty không có những khoản triết khấu thương mại là một bất lợi.
Việc áp dụng chiết khấu thương mại cho khách hàng tiêu thụ một lượng lớn xi
măng sẽ kích thích tiêu thụ và tạo thêm nhiều thị trường mới. Công ty phải
linh hoạt trong việc quy định giá cả vừa đảm bảo lợi nhuận thu được vừa thúc
đẩy được thị trường tiêu thụ của mình.
Thứ năm, Công ty thực hiện tiêu thụ trực tiếp thông qua hệ thống đại lý
bao tiêu, Công ty không phải theo dõi các khoản phải thu và hoa hồng đại lý,
cũng như việc xác định thuế phải nộp nhiều như trước nữa nhưng việc áp
dụng hình thức tiêu thụ này còn tồn tại những bất cập. Nếu như đại lý bao tiêu
đó không có nguồn lực tốt thì khả năng bán được hàng và thanh toán tiền là
rất khó, rủi ro cao. Đồng thời trong thời buổi kinh tế thị trường cạnh tranh cao
như hiện nay, việc Công ty chỉ ký hợp đồng tiêu thụ với một số đại lý bao tiêu
thì khả năng phân phối hàng của Công ty trên các địa bàn sẽ hạn chế khả năng
tiếp cận với các khách hàng nhỏ lẻ là rất ít và khi đó Công ty sẽ bị mất một

lượng tương đối thị trường.
Thứ sáu, về việc lập các báo cáo quản trị cho toàn bộ hoạt động của
Công ty nói chung và cho công tác hạch toán chi phí, doanh thu và xác định
kết quả tiêu thụ nói riêng còn chưa được quan tâm nhiều.

×