Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Nhận xét chung về công tác hạch toán nguyên vật liệu tại công ty Bánh kẹo Hải Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.01 KB, 12 trang )

Nhận xét chung về công tác hạch toán nguyên vật liệu tại công ty Bánh kẹo
Hải Hà
Với lịch sử hơn 40 năm, Công ty đã trải qua nhiều khó khăn thách thức
nhưng cũng đạt được nhiều thành công đáng tự hào. Trong khi không ít các cơ sở
xí nghiệp không trụ được đã bị giải thể thì công ty bánh kẹo Hải Hà lại thực sự
bước vào quyền làm chủ, công ty đã tìm được những biện pháp hữu hiệu vượt qua
bao khó khăn về vốn, về thị trường và những cơn lốc cạnh tranh của hàng ngoại
nhập bằng nhiều sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả phù hợp. Đạt
được kết quả như vậy một phần quan trọng là nhờ công ty đã thực hiện tốt việc tổ
chức bộ máy gọn nhẹ, hợp lý hóa sản xuất, nghiên cứu và vận dụng các biện pháp
quản lý kinh tế, công tác kế toán nói chung và công tác kế toán nguyên vật liệu nói
riêng. Công ty đã có nhiều cố gắng trong việc tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, hạ
giá thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Như vậy, dưới giác độ của một sinh viên thực tập, lầ đầu tiên được làm quen
với thực tế, em xin mạnh dạn đưa ra một số đánh gía về ưu điểm và tồn tại cần tiếp
tục hoàn thiện trong tổ chức kế toán công tác kế toán nguyên vật liệu ở Công ty.
* Ưu điểm cần phát huy:
Từ những lý luận đã học và qua một thời gian nghiên cứu thực tế công tác kế
toán vật liệu, tìm hiểu quá trình quản lý và sử dụng ở công ty bánh kẹo Hải Hà, tôi
nhận thấy công tác này có nhiều ưu điểm, đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp trong
việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, là tiền đề cho việc cạnh
tranh chiếm lĩnh thị trường. Cụ thể:
- Về hệ thống chứng từ:
Việc sử dụng các chứng từ được kết hợp chặt chẽ giữa thủ kho và phòng kế toán,
trình tự luân chuyển chứng từ và ghi chép có cơ sở khoa học: Khi nhận được phiếu
nhập kho, xuất kho từ phòng kinh doanh chuyển sang bao giờ kế toán nguyên vật
liệu cũng tiến hành phân loại và đánh số thứ tự cho hợp lý rồi lưu lại.Rất thuận tiện
cho công tác quản lý vật liệu, giúp cho Ban lãnh đạo công ty nắm bắt được tình
hình thu mua và sử dụng vật liệu kịp thời, tiện dụng.
- Về khâu thu mua:
Với đội ngũ cán bộ công nhân viên linh hoạt, am hiểu biết chất lượng và thị


trường giá cả nên việc thu mua vật liệu tương đối ổn định, nguồn mua chủ yếu là
của những cơ sở tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đây là
cơ sở góp phần giảm chi phí sản xuất. Đồng thời, công ty thường xuyên ký hợp
đồng mua nguyên vật liệu với những đơn vị có mặt hàng tốt, chất lượng sản phẩm
cao, luôn đảm bảo đúng, đủ, kịp thời chủng loại vật liệu mà Công ty yêu cầu.
- Trong việc dự trữ, bảo quản vật liệu:
Công ty đã xây dựng một hệ thống kho tàng rộng rãi, thoáng mát, phù hợp
với cách phân loại mà công ty áp dụng. Công ty sản xuất và chia thành 4 kho: NVL
chính, NVL phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế. Nguyên vật liệu chính và phụ được
đặt ngay gần các phân xưởng sản xuất giúp cho việc quản lý, cung cấp nguyên vật
liệu luôn thuận tiện, việc bảo quản sử dụng dễ dàng hơn. Ngoài ra, việc dự trữ
nguyên vật liệu của công ty cũng rất khoa học. Do thị trường cung cấp tự do nên
vốn dự trữ vật liệu trong công ty không lớn nhưng đảm bảo hạn chế mức vật liệu
tối đa và mức tối thiểu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị ngừng
trệ, không gây lãng phí vốn và giải phóng được một số vốn lưu động đáng kể do
giảm bớt vật liệu dự trữ tồn kho không cần thiết.
- Về khâu sử dụng vật liệu:
Vật liệu mua và được sử dụng đúng mục đích sản xuất. Công tác quản lý, sử
dụng vật liệu thích hợp tránh ứ đọng vốn hay thiếu vật liệu trong quá trình sản xuất
là nhờ vào việc lập bảng mức vật tư sát với tình hình thực tế của từng loại sản
phẩm. Do đó góp phần làm giảm chi phí, tiết kiệm vật tư.
Để phản ánh sự biến động của vật liệu, công ty đã sử dụng đúng những tài
khoản trong hệ thống tài khoản kế toán ban hành theo quyết định 1141 ngày
1/11/1995 - BTC. Những tài khoản nay được chia nhỏ thành TK cấp 2 phù hợp với
đặc điểm phân loại vật liệu của công ty tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý vật
liệu theo mã số.
- Về công tác kế toán nguyên vật liệu:
+ Tổ chức hệ thống sổ kế toán vật liệu:
Hệ thống sổ kế toán, tài khoản kế toán công ty sử dụng theo đúng chế độ và
mẫu biểu mà Nhà nước ban hành.

Công ty áp dụng hình thức sổ kế toán NKCT- đây là hình thức kế toán phù
hợp với quy mô và các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của công ty. Bên cạnh đó công
ty còn có đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ chuyên môn cao phù hợp với từng
phần hành nên việc theo dõi trên các sổ sách của hình thức kế toán này rất chặt
chẽ, thường xuyên, liên tục và có hệ thống, đặc biệt là tình hình nhập - xuất - tồn
kho nguyên vật liệu trên sổ kế toán theo phương pháp kê khai thường xuyên để
phản ánh số hiện có và tình hình tăng giảm vật liệu.
Khi vật liệu về nhập kho kế toán sử dụng TK 331- phải trả người bán để
phản ánh toàn bộ tình hình thu, mua nguyên vật liệu và thanh toán với người
bán(Không kể là thanh toán ngay hay chưa) tất cả vật liệu nhập kho đều phản ánh
theo định khoản sau:
Nợ TK 152
Nợ TK133
Có TK 331
Như vậy thông qua TK 331 mà Ban lãnh đạo công ty có thể nắm bắt được
tình hình vật tư, công nợ của công ty. Dựa vào đó mà Ban lãnh đạo đưa ra quyết
định đúng đắn, vạch ra kế hoạch sát với thực tế cho kỳ tiếp theo.
+ Bộ máy kế toán:
Phòng kế toán của công ty gồm 10 người được bố trí một cách gọn nhẹ với
đội ngũ nhân viên có trình độ, có năng lực và nhiệt tình nên công việc kế toán được
tiến hành khẩn trương, đều đặn, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phần, phần hành
sau kiểm tra phần hành trước tránh được những sai sót chẳng hạn như việc theo dõi
thuế GTGT, tại công ty có riêng một nhân viên theo dõi thuế GTGT đầu vào và
đầu ra nộp cho cơ quan thuế, bên cạnh đó kế toán vật liệu vừa theo dõi trị giá vật
liệu vừa theo dõi thuế GTGT đầu vào. Như vậy việc theo dõi thuế sẽ chính xác
hơn tránh nhầm lẫn trong việc kê khai thuế, nộp thuế với cơ quan thuế. Bên cạnh
đội ngũ nhân viên có trình độ thì cong ty mạnh dạn ứng dụng tin học vào trong
công tác kế toán, nên thông tin đưa ra rất nhanh, chính xác.
Nhìn chung công tác kế toán ở công ty bánh kẹo Hải Hà đã thực hiện một
cách có hiệu quả, nề nếp, đảm bảo tuân thủ theo chế độ kế toán hiện hành, phù hợp

với điều kiện thực tế của công ty, hệ thống sổ sách kế toán tương đối đầy đủ, chi
tiết rõ ràng, đáp ứng được yêu cầu quản lý, giúp cho công tác kế toán xuất vật liệu
ngày càng hoàn thiện.
* Những hạn chế cần khắc phục:
Bên cạnh những mặt tích cực mà công ty đã đạt được trong công tác kế toán
vật liệu tại công ty còn có những hạn chế mà công ty cần khắc phục và tiếp tục
hoàn thiện công tác kế toán vật liệu để phù hợp với yêu cầu quản lý trong điều kiện
nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Về công tác hạch toán vật liệu:
Hiện nay công ty đang sử dụng phương pháp kế toán chi tiết Thẻ song song
để hạch toán chi tiết vật liệu. Theo em thì phương pháp này không thích hợp với
công ty vì phương pháp chỉ phù hợp với doanh nghiệp có ít chủng loại vật tư, tình
hình nhập - xuất vật tư hàng ngày không thường xuyên, trình độ chuyên môn của
kế toán còn hạn chế. Còn ở công ty việc nhập-xuất vật tư diễn ra liên tục, chủng
loại vật tư rất đa dạng phong phú( tại công ty có hơn 1000 loại vật tư), quy mô của
công lại lớn nên việc sử dụng phương pháp này là không thích hợp.
- Về phân loại vật liệu và lập sổ danh điểm vật liệu:
Ở công ty Bánh kẹo Hải Hà có rất nhiều loại bánh kẹo (khoảng gần 100
loại). Nên công ty phải sử dụng một khối lượng vật liệu lớn bao gồm nhiều thứ,
nhiều loại vật liệu với công dụng, tính năng lý hóa, phẩm cấp, chất lượng khác
nhau. Việ phân loại vật tư ở công ty là hợp lý song do trong công ty chưa xây dựng
được sổ danh điểm vật liệu thống nhất nên gây ra rất nhiều khó khăn cho kế toán
vật liệu trong việc theo dõi sự biến động của nó.Nhiều khi người ta ký hiệu cho vật
liệu theo ý thích chứ không theo một quy tắc nào cả nên mất rất nhiều thời gian
trong việc đi tìm tên vật liệu làm cho kế toán nguyên vật liệu kiểm soát rất khó
khăn.
- Về công tác đánh giá nguyên vật liệu:
Đánh giá vật liệu là việ xác định giá trị của chúng theo những nguyên tắc
nhất định. Cụ thể là kế toán nhập-xuất- tồn kho vật liệu phải phản ánh theo trị giá
thực tế song việc hgi chép, tính toán hàng ngày nhằm thực hiện đầy đủ chức năng

giám đốc bằng tiền thì có thể sử dụng giá hạch toán song công việc này gây trở
ngại cho kế toán vật liệu. Vậy phải phản ánh theo nguyên tắc nào? Sao cho vừa
phản ánh được sự biến động thường xuyên của vật liệu cũng như biến động của thị
trường giá cả vật liệu mà vừa đảm bảo được chức năng giám đốc bằng tiền của kế
toán?
Tại công ty vật liệu được đánh giá theo giá thực tế mà không sử dụng giá
hạch toán để ghi chép tình hình nhập-xuất-tồn hàng ngày. Nhìn chung cách đánh
giá này có ưu điểm là giảm bớt khối lượng ghi chép cho kế toán song không đáp
ứng được yêu cầu phản ánh giám sát thường xuyên kịp thời của kế toán.
Tại công ty vật liệu mua về là trọn gói (chi phí mua đã tính trong giá mua
vật liệu) nên khi vật liệu mua về nhập kho kế toán tính ngay được trị giá thực tế

×