Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HẠCH TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.41 KB, 40 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HẠCH TOÁN NGUYÊN VẬT
LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.
I. Khái niệm về nguyên vật liệu và vai trò của nguyên vật liệu đối với
doanh nghiệp.
1- Khái niệm về nguyên vật liệu:
Nguyên vật liệu là những đối tượng lao động, thể hiện dưới dạng vật hóa khi
tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo thành thực thể chủ yếu của sản
phẩm. Như vậy nguyên vật liệu là một bộ phận trọng yếu của tư liệu sản xuất.
CÁC MÁC đã viết: “Đối tượng lao động trước kia rồi thì gọi là nguyên vật liệu”.
Vậy tất cả các nguyên vật liệu đều là đối tượng lao động, nhưng không phải mọi
đối tượng lao động đã trải qua tác động của con người.
Như chúng ta đã biết, mục đích cơ bản nhất của quá trình con người sử dụng
tư liệu lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất hóa lý của đối tượng
lao động là để tạo ra sự đa dạng phong phú về chủng loại, mẫu mã sản phẩm đáp
ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của thị trường.
Như vậy nguyên vật liệu là một trong ba bộ phận trọng yếu của quá trình sản
xuất (sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động) trực tiếp cấu tạo lên
thực thể sản phẩm. Nội dung cơ bản của đối tượng lao động là nguyên vật liệu.
2- Đặc điểm, vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất.
a- Đặc điểm:
Một doanh nghiệp sản xuất phải có đủ ba yếu tố: Lao động, tư liệu lao động,
đối tượng lao động. Ba yếu tố này có tác động qua lại với nhau để tạo ra của cải vật
chất cho xã hội. Đối tượng lao động là tất cả mọi vật có sẵn trong tự nhiên mà lao
động có ích của con người có thể tác động vào. Đối tượng lao động được chia làm
hai loại: Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như: Quặng trong lòng đất…. Loại thứ
hai đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của con người gọi là vật liệu.
Nguyên vật liệu có các đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: Nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất
nhất định. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, dưới tác động của lao động chúng
bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo ra hình thái
vật chất của sản phẩm.


- Về mặt giá trị: Khi tham gia vào quá trình sản xuất toàn bộ giá trị của
nguyên vật liệu bị hao phí và chuyển hết một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
- Nguyên vật liệu thuộc loại tài sản lưu động, giá trị nguyên vật liệu tồn
kho là vốn lưu động dự trữ cho sản xuất của doanh nghiệp.
b- Vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất.
Từ những đặc điểm cơ bản của nguyên vật liệu ta có thể thấy rõ tầm quan
trọng của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. Nguyên vật liệu có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với sự sống còn của doanh nghiệp, kế hoạch sản xuất kinh
doanh sẽ bị ảnh hưởng nếu việc cung cấp nguyên vật liệu không được đầy đủ, kịp
thời. Chất lượng của sản phẩm cũng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của
nguyên vật liệu làm ra nó. Do vậy, để đảm bảo sản xuất được những sản phẩm tốt,
đáp ứng được nhu cầu của thị trường cần phải có những nguyên vật liệu có chất
lượng cao, đảm bảo đúng quy cách chủng loại.
Về mặt chi phí thì nguyên vật liệu thường chiếm một tỉ trọng rất lớn trong
toàn bộ chi phí sản xuất, trong giá thành sản phẩm của ngành công nghiệp giá trị
nguyên vật liệu chiếm khoảng 50% – 60% giá thành sản xuất, trong sản phẩm chế
biến giá trị nguyên vật liệu chiếm khoảng 70% - 80% giá thành sản xuất. Do vậy,
việc tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu một cách hợp lí có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đến giá thành sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận
hơn. Chỉ cần 1% giá thành của các sản phẩm công nghiệp hạ đã giảm mức tiêu hao
vật tư có giá trị tương đương hàng tỉ đồng. Vì vậy, tập trung quản lý chặt chẽ
nguyên vật liệu ở các khâu thu mua, vận chuyển, bảo quản và giảm mức tiêu hao
vật liệu trong sản xuất có ý nghĩa rất lớn trong việc hạ thấp chi phí sản xuất sản
phẩm và trong chừng mực nhất định giảm mức tiêu hao nguyên vật liệu là cơ sở để
tăng thêm sản phẩm xã hội. Hơn nữa với mức tiêu hao như cũ, doanh nghiệp có thể
làm ra một khối lượng sản phẩm lớn hơn, mà chất lượng vẫn được đảm bảo, thúc
đẩy khoa học kĩ thuật trong sản xuất, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường.
3. Yêu cầu và nội dung của công tác quản lý nguyên vật liệu.
Trong điều kiện ngày nay, khi mà xã hội ngày càng phát triển, khoa học kĩ

thuật phát triển như vũ bão, nhu cầu của con người và xã hội ngày càng cao. Việc
sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm, hợp lí và có hiệu quả ngày càng được coi trọng.
Do vậy công tác quản lý là yêu cầu tất yếu của mọi phương thức sản xuất. Tuy
nhiên trình độ sản xuất khác nhau nên phạm vi, mức độ và phương pháp quản lý
cũng khác nhau…
Từ xa xưa để xây dựng một túp lều tranh hay chế một công cụ thô sơ, người
ta đã tính toán xemphải dùng loại vật liệu gì là hợp lý, khối lượng bao nhiêu và sử
dụng ra sao cho hiệu quả nhất. Xã hội càng phát triển kéo theo phương pháp hạch
toán ngày càng hoàn thiện hơn. Nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng, buộc
sản xuất phải được mở rộng tức là mục đích cốt lõi phải đạt được lợi nhuận. Muốn
vậy phải giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Bởi vậy công tác quản lý
nguyên vật liệu là nhiệm vụ của tất cả mọi người, là yêu cầu của phương thức kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, đó là với sự hao phí vật liệu ít nhất mà mang lại
hiệu quả kinh tế cao nhất.
Ở nước ta, nguồn nguyên vật liệu sản xuất trong nước chưa đáp ứng đầy đủ
yêu cầu sản xuất trong nước nên một số nguyên vật liệu còn phải nhập khẩu mà
vấn đề vận chuyển, thanh toán…gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy quản lý nguyên vật
liệu là thật sự cần thiết và quan trọng, song cần phải quản lý ở tất cả các khâu, từ
khâu mua đến bảo quản, dự trữ và sử dụng.
- Ở khâu thu mua: Mỗi loại vật liệu có tính chất lý hóa khác nhau, công
dụng khác nhau, mức độ và tỉ lệ tiêu hao khác nhau do đó khi thu mua phải làm sao
cho đủ số lượng, đúng chủng loại, chất lượng tốt, giá cả hợp lí, chỉ cho phép mức
hao hụt trong định mức. Đặc biệt quan tâm đến chi phí thu mua làm hạ thấp chi phí
nguyên vật liệu một cách tối đa.
- Ở khâu bảo quản: Cần bảo quản theo đúng quy định, theo tính chất lí hóa
và công dụng của mỗi loại nguyên vật liệu, sắp xếp vật liệu trong kho một cách
hợp lí từ đó có phương pháp bảo quản tốt tránh tình trạng vật liệu này gây hỏng vật
liệu kia.
- Ở khâu dự trữ: Để quá trình sản xuất được tiến hành liên tục thì phải
quản lí tốt khâu này, dự trữ vật liệu hợp lí tức là không thừa nhiều gây ứ đọng vốn,

tốn diện tích kho… và không thiếu gây gián đoạn sản xuất. Nhất là đối với các
doanh nghiệp sản xuất mang tích chất thời vụ thì đây là vấn đề cần đặc biệt quan
tâm.
- Ở khâu sử dụng: Cần phải làm tốt tổ chức tốt việc ghi chép, phản ánh
tình hình xuất dùng và sử dụng nguyên vật liệu. Phải xây dựng được hệ thống định
mức tiêu hao nguyên vật liệu cho từng chi tiết, từng công đoạn. Sử dụng vật liệu
hợp lí, tiết kiệm… là một trong những yêu cầu của công tác quản lí vật liệu trong
sản xuất.
Vậy, công tác quản lí nguyên vật liệu vô cùng cần thiết và đặc biệt coi trọng
song không thể quản lí dập khuôn máy móc mà phải phù hợp với tình hình thực tế
ở doanh nghiệp. Vì trên thực tế rất nhiều doanh nghiệp đã để thất thoát, hư hỏng
một khối lượng nguyên vật liệu khá lớn do không quản lí tốt nguyên vật liệu ở các
khâu, thực hiện lệch lạc các kế hoạch, định mức.
4- Nhiệm vụ hạch toán nguyên vật liệu:
Kế toán có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và đặc biệt quan
trọng trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Nó là công cụ phục vụ
quản lí, có chức năng cung cấp các thông tin, dữ liệu tài chính và kiểm tra kiểm
soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kế toán phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình hiện có và sự biến
động của nguyên vật liệu có tác động tích cực đến công tác quản lí nguyên vật liệu
ở doanh nghiệp.
Hạch toán kế toán là công cụ đắc lực giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp nắm
bắt được tình hình và chỉ đạo sản xuất. Kế toán vật liệu có kịp thời, chính xác, đầy
đủ tình hình nhập, xuất, dự trữ nguyên vật liệu, giá thu mua… thì lãnh đạo mới có
thể nhận biết được từ đó để ra kế hoạch sản xuất.
Để đáp ứng được yêu cầu quản lí, kế toán nguyên vật liệu trong doanh
nghiệp sản xuất cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Tổ chức đánh giá, đánh giá lại, phân loại nguyên vật liệu phù hợp với các
nguyên tắc, yêu cầu quản lí thống nhất của Nhà nước và yêu cầu quản trị của
doanh nghiệp. Thực hiện việc phân tích, đánh giá tình hình cung cấp, dự trữ và sử

dụng nguyên vật liệu trong doanh nghiệp để phát huy những mặt tích cực, khắc
phục những mặt còn hạn chế để không ngừng nâng cao hiệu quả quản lí.
- Áp dụng đúng đắn các phương pháp hạch toán nguyên vật liệu, hướng
dẫn kiểm tra các đơn vị, bộ phận trong doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các chế độ
hạch toán ban đầu về vật liệu (lập chứng từ, luân chuyển chứng từ), mở sổ (thẻ) kế
toán chi tiết. Thực hiện đúng phương pháp qui định nhằm đảm bảo sự thống nhất
trong công tác kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, chỉ đạo công tác kế
toán trong phạm vi ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Tổ chức chứng từ, tài khoản sổ kế toán phù hợp với phương pháp kế toán
hàng tồn kho của doanh nghiệp để ghi chép, phân loại tổng hợp được số liệu về
tình hình hiện có và sự biến động tăng giảm của vật liệu sử dụng trong quá trình
sản xuất, cung cấp số liệu kịp thời để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm.
- Giám sát, kiểm tra việc chấp hành chế độ bảo quản dự trữ và sử dụng
nguyên vật liệu. Phát hiện, ngăn ngừa và đề xuất những biện pháp xử lý vật liệu
thừa, thiếu, ứ đọng hoặc mất phẩm chất.
- Tính toán chính xác số lượng và giá trị vật tư thực tế đưa vào sử dụng và
đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phân tích tình hình thu mua, bảo
quản, dự trữ và sử dụng nguyên vật liệu nhằm hạ giá thành sản phẩm.
II. Phân loại nguyên vật liệu
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sản xuất phải sử dụng
nhiều loại nguyên liệu khác nhau với khối lượng lớn. Mà mỗi loại nguyên vật liệu
có nội dung kinh tế, chức năng trong sản xuất, tình năng lý hoá khác nhau, bởi vậy,
để quản lý tốt cần phải tiến hành phân loại. Phân loại nguyên vật liệu là sắp xếp
các vật liệu cùng loại với nhau theo một đặc trưng nhất định nào đó thành từng
nhóm để thuận lợi cho việc quản lý và hạch toán. Phân loại nguyên vật liệu có thể
dựa trên những tiêu thức sau:
1- Căn cứ vào công dụng của nguyên vật liệu:
Theo cách phân loại này nguyên vật liệu được phân thành:
- Nguyên vật liệu chính: Là đối tượng lao động chủ yếu cấu thành nên thực

thể chính của sản phẩm (ví dụ như sắt trong Nhà máy thép Thái Nguyên, mủ cao su
trong Nhà máy Cao Su Sao Vàng…).
- Nguyên vật liệu phụ: Là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản
xuất, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng,
mùi vị hoặc dùng để bảo quản, phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay
phục vụ cho lao động của công nhân viên chức (Ví dụ: Dầu nhờn, hồ keo, thuốc
tẩy, thuốc nhuộm, thuốc chống gỉ, xà phòng, hương liệu, giẻ lau…).
- Nhiên liệu: Là những vật liệu dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá
trình sản xuất kinh doanh như than, củi, xăng dầu, khí đốt, hơi đốt…
- Phụ tùng thay thế: Là các chi tiết phụ tùng dùng để sửa chữa và thay thế
cho máy móc, thiết bị phương tiện vận tải…
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm các vật liệu và thiết bị
(cần lắp, không cần lắp, vật kết cấu, công cụ, khí cụ…) mà doanh nghiệp mua vào
nhằm mục đích đầu tư cho xây dựng cơ bản.
- Phế liệu: Là các loại vật liệu thu được trong quá trình sản xuất hay thanh
lý tài sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài (phôi bào, vải vụn, sắt…).
- Vật liệu khác: Bao gồm các loại vật liệu còn lại ngoài các thứ chưa kể
trên như bao bì, vật đóng gói, các loại vật tư đặc chủng…
Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp tổ chức các tài khoản chi tiết, dễ
dàng hơn trong việc quản lý hạch toán vật liệu. Ngoài ra còn giúp cho doanh
nghiệp nhận biết rõ nội dung kinh tế và vai trò chức năng của từng loại vật liệu
trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đó đề ra biện pháp thích hợp trong việc tổ
chức quản lý và sử dụng có hiệu quả các loại vật liệu.
2- Căn cứ vào chức năng của nguyên vật liệu đối với quá trình sản xuất.
Theo cách phân loại này nguyên vật liệu được chia thành các loại sau:
- Nguyên vật liệu sử dụng cho sản xuất: Là các loại nguyên vật liệu tiêu
hao trong quá trình sản xuất. Gồm có:
+ Nguyên vật liệu trực tiếp: Là các loại vật liệu tiêu hao trực tiếp trong
quá trình sản xuất sản phẩm.
+ Nguyên vật liệu gián tiếp: Là các loại vật liệu tiêu hao gián tiếp trong

quá trình sản xuất sản phẩm (thường là chi phí dầu mỡ, bảo dưỡng máy móc thiết
bị).
- Nguyên vật liệu sử dụng cho bán hàng.
- Nguyên vật liệu sử dụng cho quản lý.
3- Căn cứ vào nguồn hình thành.
Theo tiêu thức này thì toàn bộ nguyên vật liệu của doanh nghiệp được chia
thành:
- Nguyên vật liệu mua ngoài: Là những nguyên vật liệu sử dụng cho sản
xuất kinh doanh được doanh nghiệp mua ngoài thị trường.
- Nguyên liệu tự sản xuất: Là những nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự
chế biến và nguyên vật liệu thuê ngoài gia công để sử dụng cho sản xuất ở giai
đoạn sau.
- Nguyên vật liệu nhận góp vốn liên doanh hoặc được biếu tặng cấp phát.
- Phế liệu thu hồi: Là những vật liệu bị thải loại ra khỏi quá trình sản xuất,
có thể được tái sử dụng hoặc đem bán.
4- Căn cứ vào quyền sở hữu:
Nguyên vật liệu được chia thành:
- Nguyên vật liệu thuộc sở hữu của doanh nghiệp: Gồm các loại nguyên
vật liệu do doanh nghiệp tự sản xuất, mua ngoài đã thanh toán hoặc chấp nhận
thanh toán.
- Nguyên vật liệu thuộc sở hữu của doanh nghiệp: Gồm các nguyên vật
liệu nhận gia công chế biến hay nhận giữ hộ.
Tuy nhiên trong các cách phân loại trên thì cách phân loại theo công dụng là
ưu việt hơn cả.
III. Tính giá nguyên vật liệu.
Tính giá nguyên vật liệu là dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị của
nguyên vật liệu theo những nguyên tắc nhất định, đảm bảo những yêu cầu thống
nhất. Việc tình giá nguyên vật liệu mang một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
tổ chức hạch toán nguyên liệu.
Nguyên tắc: Phải xác định theo giá thực tế, tuy nhiên do đặc điểm của

nguyên vật liệu là thường xuyên biến động trong quá trình sản xuất kinh doanh và
yêu cầu của kế toán vật liệu là phải phản ánh kịp thời tình hình nhập, xuất hàng
ngày của vật liệu, vì vậy trong kế toán nguyên vật liệu ngoài việc dùng giá thực tế
ra. Vật liệu còn có thể đánh giá theo giá hạch toán.
1- Các phương pháp xác định giá nguyên vật liệu nhập kho:
Nguyên vật liệu nhập kho được tính theo giá thực tế, cá biệt chỉ có một số ít
trường hợp phải sử dụng giá hạch toán để ghi nhận nhập kho. Chẳng hạn khi
nguyên vật liệu nhập kho nhưng chưa có chứng từ hoá đơn, kế toán phải sử dụng
giá hạch toán để ghi nợ. Đến khi có chứng từ hoá đơn thì kế toán phải điều chỉnh
giá hạch toán thành giá thực tế.
Giá nguyên vật liệu nhập kho được xác tuỳ thưo từng nguồn nhập như sau:
- Đối với nguyên vật liệu mua ngoài: Giá thực tế nguyên vật liệu mua
ngoài là giá ghi trên hoá đơn của người bán, cộng (+) thuế nhập khẩu (nếu có),
thuế giá trị gia tăng (nếu áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp) và các khoản chi
phí thu mua thực tế (chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí nhân viên thu mua, chi phí
thuê kho bãi…) trừ đi các khoản giảm giá hàng mua được hưởng.
- Đối với nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự gia công, chế biến thì giá
thực tế bao gồm: Giá thực tế vật liệu xuất kho gia công chế biến cộng với các chi
phí gia công chế biến.
- Đối với nguyên vật liệu thuê ngoài gia công chế biến: Giá thực tế nguyên
vật liệu tính bằng giá trị vật liệu xuất kho thuê gia công chế biến cộng với các chi
phí liên quan (tiền thuê gia công, chi phí vận chuyển, bốc dỡ…).
- Đối với nguyên vật liệu nhận góp vốn liên doanh: Giá thực tế là giá do
các bên liên doanh đánh giá cộng với các chi phí tiếp nhận (nếu có).
- Đối với phế liệu nhập kho: Giá thực tế là giá ước tính có thể sử dụng
được hay giá trị thu hồi tối thiểu.
- Đối với nguyên vật liệu được tặng thưởng: Giá thực tế tính theo giá thị
trường tương đương cộng với chi phí liên quan đến việc tiếp nhận.
2- Các phương pháp xác định giá nguyên vật liệu xuất kho.
Việc tính giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho được căn cứ vào đặc điểm hoạt

động của từng doanh nghiệp, vào yêu cầu quản lý và trình độ nghiệp vụ của cán bộ
kế toán, có thể sử dụng các phương pháp sau theo nguyên tắc nhất quán trong hạch
toán, nếu có thay đổi phải giải thích rõ ràng:
2.1- Phương pháp giá đơn vị bình quân: Theo phương pháp này giá thực tế vật
liệu xuất dùng trong kỳ được tính theo công thức:
Giá thực tế vật liệu
xuất dùng
=
Số lượng vật liệu
xuất dùng
×
Giá đơn vị
bình quân
Trong đó: Giá đơn vị bình quân có thể tính theo một trong ba cách sau:
Cách 1:
Giá đơn vị bình
quân cả kỳ dự trữ
=
Giá thực tế vật liệu
tồn đầu kỳ và nhập
trong kỳ
/
Lượng thực tế vật
liệu tồn đầu kỳ và
nhập trong kỳ
Cách tính này tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa
công việc tính toán dồn vào cuối tháng, gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán nói
chung.
Cách 2:
Giá đơn vị bình

quân
=
Giá thực tế vật
liệu tồn kho đầu
kỳ (cuối kỳ trước)
/
Lượng thực tế vật
liệu tồn kho đầu
kỳ (cuối kỳ trước)
Cách này mặc dù khá đơn giản & phản ánh kịp thời tình hình biến động vật
liệu trong kỳ tuy nhiên không chính xác vì không tính đến sự biến động của giá cả
vật liệu kỳ này.
Cách 3:
Giá đơn vị bình
quân sau môi lần
nhập
=
Giá thực tế vật
liệu tồn kho sau
mỗi lần nhập
/
Lượng thực tế vật
liệu tồn kho sau
mỗi lần nhập
Cách tính giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập khắc phục được nhược
điểm của hai phương pháp trên, vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhược điểm của
phương pháp này là tốn nhiều công sức, tính toán nhiều hơn.
2.2- Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO).
Theo phương pháp này, giả định rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất
trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số

hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của vật liệu
mua trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế vật liệu xuất trước và do vậy
giá trị vật liệu tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu mua vào sau cùng.
Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu
hướng giảm.
2.3- Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO).
Phương pháp này giả định những vật liệu mua sau cùng sẽ được xuất trước
tiên, ngược lại với phương pháp FIFO ở trên, phương pháp LIFO thích hợp trong
trường hợp lạm phát.
2.4- Phương pháp giá trị thực tế đích danh (trực tiếp).
Theo phương pháp này, nguyên vật liệu được xác định giá trị theo đơn chiếu
hay từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng (trừ trường hợp
điều chỉnh). Khi xuất nguyên vật liệu nào sẽ tính theo giá thực tế của nguyên vật
liệu đó. Do vậy, phương pháp này còn có tên gọi là phương pháp đặc điểm riêng
hay phương pháp trực tiếp và thường sử dụng với các loại vật liệu có giá trị cao và
có tính tách biệt.
2.5- Phương pháp giá hạch toán.
Theo phương pháp này, toàn bộ nguyên vật liệu biến động trong kỳ được
tính theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc một giá ổn định trong kỳ). Cuối kỳ kế
toán sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:
Giá thực tế vật liệu xuất dùng = giá hạch toán vật liệu xuất dùng x hệ số giá
vật liệu.
Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm, hoặc từng thứ nguyên vật
liệu (chủ yếu tuỳ thuộc vào yêu cầu và trình độ quản lý).
Hệ số giá
vật liệu
=
(Giá thực tế vật liệu tồn
kho đầu kỳ cộng với giá
thực tế vật liệu nhập

trong kỳ)
/
(Giá hạch toán vật liệu
tồn đầu kỳ cộng với giá
hạch toán vật liệu nhập
trong kỳ)
IV. Nội dung tổ chức kế toán nguyên vật liệu:
1- Chứng từ kế toán:
Theo chế độ chứng từ kế toán quy định ban hành theo QĐ1141 / TC / QĐ /
CĐKT ngày 01 / 1 / 1995 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, các chứng từ kế toán về vật
liệu bao gồm:
- Hóa đơn bán hàng của đơn vị bán.
- Hợp đồng mua hàng.
- Phiếu nhập kho (mẫu 01 – VT: Bắt buộc).
- Phiếu xuất kho (mẫu 02 – VT: Bắt buộc).
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (mẫu 03 – VT: Bắt buộc).
- Mẫu xuất vật tư theo hạn mức (mẫu 04 – VT: Hướng dẫn).
- Biên bản kiểm nghiệm vật tư (mẫu 05 – VT: Hướng dẫn).
- Thẻ kho (mẫu 06 – VT: Bắt buộc).
- Phiếu báo vật tư còn lại cuối tháng (mẫu 07 – VT).
- Biên bản kiểm kê vật tư sản phẩm hàng hóa (mẫu 08 - VT).
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho (mẫu 02 - BH).
- Hoá đơn cước phí vận chuyển (mẫu 03 - BH).
- Hoá đơn VAT.
2- Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu.
Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu đòi hỏi phản ánh cả về giá trị, số lượng,
chất lượng của từng loại nguyên vật liệu theo từng kho và từng người phụ trách vật
chất. Tuỳ theo quy mô yêu cầu quản lý và điều kiện cụ thể doanh nghiệp có thể
chon một trong ba phương pháp hạch toán chi tiêt nguyên vật liệu sau đây:
2.1- Phương pháp thẻ song song.

Phương pháp này yêu cầu phải mở thẻ chi tiết đồng thời tại kho và phòng kế
toán.
* Tại kho: Thủ kho dùng thẻ kho để phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn vật
liệu về mặt số liệu, thẻ kho được mở chi tiết cho từng danh điểm vật liệu. Hàng
ngày căn cứ vào từng chứng từ nhập xuất, thủ kho ghi số lượng thực nhập xuất và
cuối mỗi ngày tính ra số lượng tồn trên thẻ kho. Mỗi chứng từ ghi một dòng vào
thẻ kho. Thủ kho phải thường xuyên đối chiếu với sổ chi tiết vật liệu để đảm bảo
luôn khớp nhau. Cuối tháng, thủ kho phải tiến hành tổng cộng số nhập xuất, tính ra
số tồn kho về mặt lượng theo từng danh điểm đầu tư.
* Tại phòng kế toán: Kế toán vật tư mở thẻ kế toán chi tiết vật tư cho từng
danh điểm vật tư tưng ứng với thẻ kho đã mở ở kho. Thẻ này có nội dung tưng tự
thẻ kho, chỉ khác là theo dõi cả về mặt giá trị. Hàng ngày hoặc định kỳ khi nhận
được các chứng từ nhập, xuất kho do thủ kho chuyển tới, nhân viên kế toán vật tư
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất kho
Thẻ hoặc sổ chi tiết nguyên vật liệuBảng tổng hợp nhập, xuất tồn kho nguyên vật liệu
Kế toán tổng hợp
phải kiểm tra, đối chiếu và ghi đơn giá hạch toán vào thẻ kế toán chi tiết vật tư và
tính ra số tiền. Sau đó, lần lượt ghi các nghiệp vụ nhập, xuất vào các thẻ chi tiết vật
tư có liên quan. Cuối tháng tiến hành đối chiếu với thẻ kho.
SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN VẬT LIỆU THEO PHƯƠNG PHÁP THẺ
SONG SONG
Ghi chú:
: Ghi hàng ngày.
: Quan hệ đối chiếu.
: Ghi cuối tháng.
Để thực hiện đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và chi tiết, kế toán phải căn cứ
vào các thẻ kế toán chi tiết để lập bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho về mặt giá trị
của từng loại nguyên vật liệu. Số liệu của bảng này được đối chiếu với số liệu của

phần kế toán tổng hợp.
* Điều kiện áp dụng của phương pháp: Phương pháp này ghi chép đơn
giản, dễ kiểm tra, đối chiếu. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất lớn áp dụng
phương pháp này mất nhiều công sức do ghi chép trùng lặp. Vì vậy, phương pháp
này thường được áp dụng đối với đơn vị vừa và nhỏ, ít chủng loại vật tư, khối
lượng các nghiệp vụ nhập xuất ít, không thường xuyên.
Chứng từ nhập Bảng kê nhập
Thẻ kho
Chứng từ xuất
Sổ đối chiếu luân chuyển
Bảng kê xuất
Kế toán tổng hợp
2.2- Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển.
* Ở kho: Theo phương pháp này thì việc ghi chép của thủ kho cũng được
thực hiện trên thẻ kho giống phương pháp thẻ song song.
* Ở phòng kế toán: kế toán không mở thẻ kế toán chi tiết mà mở sổ đối
chiếu luân chuyển để hạch toán số lượng và số tiền của từng danh điểm vật tư theo
từng kho. Sổ này ghi mỗi tháng một lần vào cuối tháng trên cơ sở tổng hợp các
chứng từ nhập, xuất phát sinh trong tháng của từng vật liệu, mỗi loại chỉ ghi một
dòng trong sổ. Cuối tháng, đối chiếu số lượng vật liệu trên sổ đối chiếu luân
chuyển với thẻ kho, đối chiếu số tiền với kế toán tổng hợp.
SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN VẬT LIỆU THEO PHƯƠNG PHÁP SỔ ĐỐI
CHIẾU LUÂN CHUYỂN:
: Ghi hàng ngày.
: Ghi cuối tháng.
: Quan hệ đối chiếu.
* Điều kiện áp dụng: Số lượng ghi chép của kế toán được giảm bớt do chỉ
phải ghi vào cuối tháng nhưng việc ghi sổ vẫn còn trùng lặp. Do vậy, thường áp
dụng ở doanh nghiệp có quy mô vừa, chủng loại hàng tồn kho thường tương đối
nhiều

2.3- Phương pháp sổ số dư:
* Ở kho: Giống như các phương pháp trên. Định kỳ, sau khi ghi thẻ kho,
thủ kho phải tập hợp toàn bộ chứng từ nhập kho, xuất kho phát sinh theo từng loại
vật liệu quy định. Sau đó, lập phiếu giao nhận chứng từ và nộp cho kế toán theo
các chứng từ nhập, xuất vật liệu.
Ngoài ra, thủ kho còn phải ghi số lượng vật liệu tồn kho cuối tháng theo từng
danh điểm vật liệu vào sổ số dư, sổ số dư được kế toán mở cho từng kho và dùng
cho cả năm, trước ngày cuối tháng, kế toán giao cho thủ kho để ghi vào sổ. Ghi
xong thủ kho phải gửi về phòng kế toán để kiểm tra và tính thành tiền
* Ở phòng kế toán : Định kỳ, kế toán phải xuống kho để hướng dẫn và
kiểm tra việc ghi chép của thủ kho và thu nhận chứng từ. Khi nhận được chứng từ
kế toán phải kiểm tra và tính giá theo từng chứng từ (giá hạch toán), tổng cộng số
tiền và ghi vào cột số tiền trên phiếu giao nhận chứng từ. Đồng thời ghi số tiền vừa
tính được của từng nhóm vật liệu (nhập riêng, xuất riêng) vào bảng luỹ kế nhập,
xuất, tồn kho vật liệu. Bảng này được mở cho từng kho, mỗi kho một tờ, được ghi
trên cở sở các phiêu giao nhận chứng từ nhập, xuất vật liệu. Tiếp đó, cộng số tiền
nhập, xuất trong tháng và dựa vào số dư đầu tháng để tính ra số dư cuối tháng của
từng nhóm vật liệu. Số dư này được dùng để đối chiếu với cột “số tiền” trên sổ số
dư (số liệu trên sổ số dư cho kế toán tính bằng cách lấy số lượng tồn kho nhân với
giá hạch toán).

×