Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CÔNG TỔ CHỨC GIAI ĐOẠN KẾT THÚC KIỂM TOÁN DO CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.76 KB, 50 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CÔNG TỔ CHỨC GIAI ĐOẠN KẾT
THÚC KIỂM TOÁN DO CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ
TOÁN VÀ KIỂM TOÁN (AASC) THỰC HIỆN
I. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN VÀ
KIỂM TOÁN (AASC)
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Cách đây mười năm, thực hiện thông báo của văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ), ngày 13 tháng 5 năm 1991, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra
Quyết định số 164/TC/QĐ/TCCB thành lập Công ty Dịch vụ kế toán (ASC). Trong
thời gian đầu hoạt động, Công ty chỉ cung cấp một số hoạt động đào tạo và dịch vụ
kế toán giản đơn như: hướng dẫn các đơn vị đăng kí chế độ kế toán, lập sổ sách kế
toán, so sánh đối chiếu các loại sổ, lập các loại báo cáo kế toán.
Sau hơn hai năm hoạt động, Ban lãnh đạo Công ty nhận thấy nhu cầu ngày
càng lớn của thị trường tài chính nên đã đề nghị Bộ Tài chính cho phép bổ sung
thêm một số loại hình dịch vụ. Đến ngày 14 tháng 9 năm 1993, với sự lớn mạnh về
năng lực hoạt động nghiệp vụ và yêu cầu đổi mới hệ thống quản lí nền kinh tế quốc
dân, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 639/TC/QĐ/TCCB đổi tên Công
ty thành Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (tên giao dịch
quốc tế là Auditing and Accounting Financial Consultancy Service Company
(AASC)) như hiện nay và được phép cung cấp thêm các loại hình dịch vụ như: tư
vấn tài chính, kế toán và kiểm toán, đào tạo, dịch vụ công nghệ thông tin.
Từ chỗ trong những ngày đầu thành lập hoạt động của Công ty chỉ giới hạn ở
thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, đến nay hoạt động của Công ty đã được mở rộng ra cả nước và đã
thâm nhập vào mọi thành phần kinh tế.
Tháng 3 năm 1992, Công ty thành lập chi nhánh đầu tiên tại thành phố Hồ Chí
Minh và đến tháng 3 năm 1995, được phép của Bộ Tài chính, chi nhánh này tách ra
khỏi AASC thành lập Công ty kiểm toán Sài Gòn (AFC). Ngày 13 tháng 3 năm
1997, Công ty tái lập Văn phòng tại thành phố Hồ Chí Minh và tháng 5 năm 1998
nâng cấp từ Văn phòng đại diện lên thành chi nhánh lớn nhất của Công ty.
Hiện nay, Công ty có trụ sở chính tại số 1 Lê Phụng Hiểu - Quận Hoàn Kiếm -


Hà Nội và các chi nhánh tại các tỉnh và thành phố trong cả nước, cụ thể:
 Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh: 29 Võ Thị Sáu - Quận 1 - Thành phố
Hồ Chí Minh
 Chi nhánh Vũng Tàu: số 42 - Đường Thống Nhất - Thành phố Vũng Tàu.
 Chi nhánh Thanh Hoá: số 25 Phan Chu Trinh - Phường Điện Biên -
Thành phố Thanh Hoá
 Chi nhánh Quảng Ninh: cột 8 - Phường Hồng Hà - Thành phố Hạ Long.
 Văn phòng đại diện Hải Phòng: 22 Trần Phú - Thành phố Hải Phòng
Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán mười năm qua đã
đóng góp tích cực trong hoạt động cung cấp những dịch vụ chuyên nghành thuộc
lĩnh vực Tài chính Kế toán và Kiểm toán và trở thành một trong những tổ chức
chuyên ngành đầu tiên và lớn nhất của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực kế toán,
kiểm toán và tư vấn tài chính.
2. Đặc điểm về hoạt động và tổ chức quản lí của Công ty:
2.1. Các loại hình dịch vụ của AASC:
Với sự am hiểu sâu sắc và kinh nghiệm thực tiễn về quản lí tài chính, kế toán,
kiểm toán, thuế đã giúp AASC phục vụ với chất lượng tốt nhất bất kì dịch vụ
chuyên ngành nào mà khách hàng yêu cầu. Điểm qua một số dịch vụ chính mà
Công ty đã tiến hành trong thời gian qua góp phần đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước:
2.1.1. Dịch vụ kiểm toán:
Dịch vụ kiểm toán là một trong các hoạt động truyền thống, hoạt động chính
và là điểm mạnh của AASC hiện nay. Qua hơn mười năm hoạt động, dịch vụ này
đã được hoàn thiện và phát triển về phạm vi và chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của khách hàng và tiến trình hội nhập quốc tế. Hiện nay AASC có hơn
300 nhân viên và cộng tác viên (trong đó có trên 70 nhân viên đạt chứng chỉ kiểm
toán viên cấp Nhà nước) cung cấp các dịch vụ kiểm toán bao gồm: kiểm toán báo
cáo tài chính thường niên; kiểm toán hoạt động của các dự án; kiểm toán Báo cáo
quyết toán vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản; kiểm toán xác định vốn, giá
trị doanh nghiệp; kiểm toán tuân thủ luật định; kiểm toán các doanh nghiệp tham

gia niêm yết trên thị trường chứng khoán; kiểm toán tỷ lệ nội địa hoá; kiểm toán
doanh nghiệp Nhà nước phục vụ công tác cổ phần hoá và giám định các tài liệu tài
chính kế toán. Thông qua hoạt động kiểm toán, Công ty đã giúp khách hàng nhận
thức được những điểm mạnh và yếu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát
nội bộ, từ đó, từng bước đưa công tác quản lí vào nề nếp.
2.1.2. Dịch vụ kế toán:
Cùng với quá trình hội nhập của nền kinh tế và những đổi mới trong các hoạt
động tài chính kế toán của Nhà nước Việt Nam, AASC luôn hướng tới việc nâng
cao chất lượng các dịch vụ kế toán của mình. Là một tổ chức chuyên nghành,
AASC hiện có đội ngũ các chuyên gia kế toán với nhiều năm kinh nghiệm làm việc
thực tiễn tại các doanh nghiệp, tại các cơ quan nghiên cứu và ban hành chế độ
chính sách kế toán, do vậy họ có sự hiểu biết sâu rộng về kế toán Việt Nam cũng
như các thông lệ kế toán quốc tế. Công ty đã và đang cung cấp cho khách hàng
nhiều dịch vụ kế toán như mở và ghi sổ kế toán, lập các báo cáo tài chính định kì;
xây dựng các mô hình tổ chức bộ máy kế toán; trợ giúp việc chuyển đổi hệ thống
kế toán và báo cáo tài chính, phù hợp với các yêu cầu của khách hàng và đồng thời
bảo đảm tính tuân thủ các quy định của Nhà nước Việt Nam hoặc các nguyên tắc
kế toán quốc tế được chấp nhận. Đặc biệt Công ty thường xuyên hướng dẫn cho
khách hàng trong việc áp dụng các chế độ kế toán tài chính và tư vấn, trợ giúp
trong việc chọn lựa đăng kí chế độ kế toán phù hợp với yêu cầu quản lí của doanh
nghiệp. Các dịch vụ kế toán của Công ty sẽ giúp cho khách hàng quản lí, kinh
doanh đạt hiệu quả cao.
2.1.3. Dịch vụ Tư vấn Tài chính và Quản trị kinh doanh:
Các chuyên gia tư vấn của AASC với bề dày kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
nhiều năm và đặc biệt là kinh nghiệm trong công tác tư vấn quản trị tài chính sẽ
giúp cho các nhà đầu tư và các nhà quản lí tham gia kinh doanh tại Việt Nam tìm
ra những giải pháp hữu hiệu nhất để vừa đảm bảo việc tuân thủ đầy đủ các quy
định luật pháp hiện hành của Nhà nước Việt Nam, vừa thu được lợi nhuận cao
nhất. Các dịch vụ tư vấn của Công ty sẽ cung cấp cho khách hàng những giải pháp
tốt nhất để cải tiến hệ thống kiểm soát nội bộ, nâng cao hiệu quả kinh doanh và

chất lượng sản phẩm dịch vụ, giảm chi phí hoạt động, không ngừng tăng doanh
thu. Các dịch vụ này rất đa dạng, bao gồm: tư vấn soạn thảo phương án đầu tư,
đăng kí kinh doanh và thành lập doanh nghiệp mới; tư vấn kiểm kê thẩm định giá
trị tài sản; tư vấn quyết toán vốn đầu tư; tư vấn tiến hành cổ phần hoá, niêm yết
chứng khoán, sát nhập hoặc giải thể; tư vấn tuân thủ các quy định pháp luật, chính
sách tài chính ...
2.1.3. Dịch vụ Công nghệ thông tin:
Năm 2002, với sự nỗ lực của Phòng công nghệ thông tin, Công ty phát triển
rất mạnh loại hình dịch vụ này và đã trở thành một trong những thế mạnh của Công
ty với doanh thu theo hợp đồng đạt hơn 1,3 tỷ đồng, tăng gấp hơn 10 lần so với
doanh thu năm 2001 (120.000.000 đồng). Các tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ
thông tin đã tạo ra nhiều cơ hội mới cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, gia tăng sản lượng, thị phần và lợi nhuận của các doanh nghiệp. AASC với
đội ngũ chuyên gia công nghệ thông tin giàu kinh nghiệm thực tiễn sẽ trợ giúp cho
khách hành nắm bắt các cơ hội này, góp phần vào củng cố lợi thế cạnh tranh của
khách hàng thông qua việc tư vấn cho khách hàng lựa chọn và áp dụng những giải
pháp khả thi và hữu hiệu nhất, hỗ trợ vận hành các giải pháp công nghệ thông tin
phù hợp với các yêu cầu quản lí, hoạt động cũng như chiến lược kinh doanh lâu dài
của khách hàng. Một số sản phẩm phần mềm của Công ty hiện đang được khách
hàng tín nhiệm và sử dụng nhiều như: A-ASPlus 3.0 Kế toán đơn vị hành chính sự
nghiệp, E-APlus 3.0 Kế toán doanh nghiệp, P-ASPlus 2.0 Kế toán các dự án Kế
toán đơn vị chủ đầu tư, phần mềm quản lí nhân sự, phần mềm quản lí tài sản cố
định, phần mềm quản lí công văn, phần mềm quản lí doanh nghiệp ...
2.1.4. Dịch vụ Đào tạo và Hỗ trợ tuyển dụng:
Dịch vụ hỗ trợ tuyển dụng của AASC giúp cho khách hàng tìm kiếm và tuyển
dụng các ứng cử viên có năng lực và thích hợp nhất dựa trên những hiểu biết cụ thể
về vị trí cần tuyển dụng, cũng như các yêu cầu về hoạt động, quản lí chung của
khách hàng. Tuỳ theo yêu cầu của công việc, trình độ kiến thức hay kinh nghiệm
cần thiết, Công ty sẽ lựa chọn phương pháp tuyển dụng hợp lí với chi phí hiệu quả
nhất.

Đối với dịch vụ đào tạo, Công ty sử dụng một đội ngũ chuyên gia có nhiều
kinh nghiệm trong lĩnh vực giảng dạy để xây dựng các chương trình đào tạo và tiến
hành huấn luyện một cách hiệu quả nhất. Các chương trình này sẽ mang lại cho
khách hàng những kiến thức, kinh nghiệm và thông tin hữu ích về kế toán, kiểm
toán, thuế, quản trị kinh doanh và công nghệ thông tin kế toán, đặc biệt là các chế
độ, quy định, chuẩn mực của Việt Nam hay các thông lệ quốc tế, được vận dụng
cho từng doanh nghiệp, từng ngành và từng lĩnh vực cụ thể.
2.1.5. Dịch vụ Tư vấn Thuế:
Dịch vụ tư vấn thuế của AASC luôn mang lại hiệu quả cao cho khách hàng.
Các giải pháp về thuế mà Công ty cung cấp cho khách hàng sẽ đảm bảo các loại
thuế mà doanh nghiệp hay cá nhân phải nộp sẽ phù hợp với thực tế và tuân thủ các
chính sách thuế hiện hành. Dịch vụ tư vấn thuế của AASC bao gồm: lập kế hoạch
thuế, đăng kí, tính toán và kê khai thuế phải nộp với cơ quan thuế, rà soát đánh giá
việc vận dụng các sắc lệnh, chính sách thuế hiện hành của Việt Nam ...
2.2. Đặc điểm tổ chức quản lí của Công ty:
2.2.1. Hệ thống các phòng ban của AASC:
 Phòng Hành chính tổng hợp:
Phòng Hành chính tổng hợp có nhiệm vụ quản lí các công văn đi, đến Công
ty, ra các quyết định về công tác tổ chức của Công ty. Ngoài ra, phòng này còn
nghiên cứu, sắp xếp, đề bạt cán bộ, phối hợp với phòng Kế toán tổ chức tiền lương
cho cán bộ công nhân viên, tổ chức bảo vệ để giữ an toàn tài sản và an toàn cá
nhân cho các nhân viên trong Công ty, tổ chức bộ phận lái xe phục vụ cho nhu cầu
đi lại, công tác của các nhân viên, tổ chức bộ phận tin học, tổ chức bộ phận bán
hàng (cung cấp các biểu mẫu, sổ sách, chứng từ kế toán), cung cấp các tạp vụ và
phiên dịch cho toàn Công ty.
 Phòng Tài chính kế toán:
Phòng Tài chính kế toán có nhiệm vụ bổ sung, sửa đổi quy chế tài chính hiện
hành của Công ty nhằm đáp ứng yêu cầu về công tác quản lí, nâng cao sức cạnh
tranh của Công ty; rà soát các kế hoạch kinh doanh, xây dựng chi tiết kế hoạch thu
chi tài chính; chủ động phối hợp với các phòng nghiệp vụ đôn đốc khách hàng

thanh toán, phát hành công văn đòi nợ; đề xuất biện pháp giải quyết các vướng
mắc về thu chi cho Ban giám đốc.
 Phòng công nghệ thông tin:
Phòng này có nhiệm vụ quản lí các công việc liên quan đến lĩnh vực công
nghệ thông tin tại Công ty như phát triển một số phần mềm hỗ trợ cho việc tư vấn
kế toán; duy trì hệ thống mạng nội bộ; tư vấn cho khách hàng lựa chọn những giải
pháp khả thi và hữu hiệu nhất bằng cách tham gia làm việc trực tiếp với khách
hàng từ công đoạn đánh giá, thiết kế, phát triển, thử nghiệm đến công đoạn hỗ trợ
vận hành các hệ thống công nghệ thông tin mới.
 Các phòng nghiệp vụ:
Hiện nay AASC có 6 phòng nghiệp vụ chính, bao gồm:
 Phòng Kiểm toán các ngành sản xuất vật chất: tiến hành kiểm toán cho các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực liên quan đến sản xuất vật chất.
 Phòng Tư vấn và kiểm toán: tiến hành kiểm toán Báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp kết hợp với các hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đối tượng
trong và ngoài Công ty.
 Phòng Kiểm toán các ngành thương mại và dịch vụ: chủ yếu cung cấp các
dịch vụ kiểm toán Báo cáo tài chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp Nhà nước, kiểm toán dự án; ngoài ra, cung cấp dịch vụ kiểm toán
cho các doanh nghiệp thương mại dịch vụ hay các phòng, ban, vụ của Bộ Thương
mại.
 Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản: chuyên thực hiện kiểm toán các Báo cáo
quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoặc các công trình hoàn thành
thuộc sở hữu của Nhà nước. Năm 2002, thị phần của AASC về kiểm toán xây dựng
cơ bản chiếm 55% thị phần của cả nước.
 Phòng Kiểm toán dự án: Thực hiện kiểm toán các dự án bao gồm dự án có
nguồn đầu tư trong và ngoài nước, bên cạnh đó thực hiện một phần công việc
tương tự như Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản.
 Phòng Kiểm soát chất lượng: được thành lập năm 2000, có nhiệm vụ giúp
Ban giám đốc rà soát và đánh giá hiệu quả và chất lượng của các cuộc kiểm toán

Công ty đã cung cấp cho khách hàng ở từng bước công việc cũng như từng giai
đoạn thực hiện.
Trên đây là hệ thống các phòng ban tại Văn phòng chính của Công ty. Việc
phân chia chức năng, nhiệm vụ giữa các phòng chỉ mang tính tương đối, trừ phòng
Hành chính tổng hợp, phòng Tài chính kế toán, phòng Công nghệ thông tin, các
phòng còn lại đều thực hiện cung cấp các dịch vụ tương tự nhau nhưng mỗi phòng
có thế mạnh hơn về lĩnh vực mình phụ trách.
2.2.2. Đặc điểm tổ chức phân công nhiệm vụ tại AASC :
Vào những ngày đầu thành lập, AASC chỉ có 5 thành viên, đến nay Công ty
đã có hơn 300 nhân viên, cộng tác viên trong đó có trên 70 nhân viên được cấp
chứng chỉ kiểm toán viên cấp Nhà nước làm việc tại trụ sở chính và các chi nhánh.
Đội ngũ nhân viên AASC được đào tạo một cách có hệ thống, hầu hết đếu đã tốt
nghiệp các trường đại học trong và ngoài nước, thường xuyên được trang bị, tiếp
cận với kỹ năng và kiến thức mới nhất nhằm đáp ứng nhu cầu cao nhất của khách
hàng. AASC là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính, hoạt động kinh
doanh dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán. Bởi vậy, cũng
như các doanh nghiệp nhà nước khác, bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức
theo mô hình chức năng gồm có Ban Giám đốc quản lý điều hành Văn phòng chính
và các Giám đốc quản lý điều hành các chi nhánh của Công ty. Các thành viên của
Công ty được phân công nhiệm vụ cụ thể như sau:
 Ban giám đốc:
Ban giám đốc Công ty gồm 4 thành viên: Giám đốc và ba phó giám đốc.
 Giám đốc Công ty: phụ trách toàn diện các mặt hoạt động của Công ty, trực
tiếp chịu trách nhiệm trong các hoạt động đối nội và đối ngoại; gián tiếp quản lí
các chi nhánh, văn phòng trực thuộc Công ty; phụ trách việc xây dựng các dự án
chiến lược, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, các hoạt động có quy mô lớn; chịu
trách nhiệm tổ chức cán bộ của Công ty tại văn phòng chính.
 Phó giám đốc Công ty: chịu trách nhiệm chỉ đạo các phòng, chi nhánh, văn
phòng thuộc Công ty; xây dựng và triển khai các kế hoạch theo đúng yêu cầu và
điều lệ của Công ty. Bên cạnh đó, các Phó giám đốc phải chỉ đạo, tổ chức thực

hiện các dịch vụ tại lĩnh vực mình phụ trách, đề xuất các vấn đề bổ sung với giám
đốc Công ty.
 Giám đốc các chi nhánh:
Giám đốc các chi nhánh có nhiệm vụ tổ chức cán bộ, nhân viên hợp lí đề cung
cấp các dịch vụcủa Công ty tại địa bàn mà chi nhánh của mình đặt trụ sở; vạch kế
hoạch cung cấp các loại hình dịch vụ đệ trình Giám đốc Công ty phê duyệt. Ngoài
ra, giám đốc chi nhánh còn có trách nhiệm cố vấn cho Giám đốc Công ty trong
việc mở rộng địa bàn hoạt động của Công ty.
 Trưởng các phòng, bộ phận trong Công ty: có trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo các
nhân viên dưới quyền làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ của phòng, ban, bộ
phận mà mình lãnh đạo. Đồng thời, Trưởng các phòng ban, bộ phận có toàn quyền
quyết định các công việc liên quan tới lĩnh vực do mình phụ trách.
 Các thành viên trong Công ty: có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ, công việc do các
trưởng phòng giao phó.
Đặc điểm tổ chức quản lí của AASC được thể hiện cụ thể qua hai sơ đồ dưới
đây (sơ đồ 3 và sơ đồ 4):
Giám đốc
Phó giám đốc
Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh
Chi nhánh tại Vũng Tàu
Văn phòng đại diện tại Hải Phòng
Chi nhánh tại Quảng Ninh
Chi nhánh tại Thanh Hóa
Phó giám đốc
Trụ sở chính tại Hà Nội
Phó giám đốc
Trụ sở chính
Phòng hành chính tổng hợpPhòng Kiểm toán các ngành sản xuất vật chấtPhòng Kiểm toán XDCBPhòng kiểm tra chất lượngP. Kiểm toán dự án
PhòngTư vấn và kiểm toán
P. Thương mại và dịch vụ

P. Hành chính tổng hợp
P. Công nghệ thông tin
Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức bộ máy quản lí của AASC
Sơ đồ 4: Cơ cấu phòng ban tại trụ sở chính.

2.3. Những kết quả đạt được của AASC:
Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thuộc Bộ Tài chính
hơn một thập kỉ qua đã đóng góp tích cực trong hoạt động cung cấp những dịch vụ
chuyên ngành thuộc lĩnh vực tài chính, kế toán và kiểm toán. Tiếng lành đồn xa,
ngày càng có nhiều khách hàng tìm đến với Công ty để được đáp ứng các dịch vụ
theo yêu cầu với chất lượng ngày một nâng cao. Hiện nay, Công ty đã có trên 600
khách hàng thường xuyên, cung cấp hàng chục loại dịch vụ chuyên ngành đảm bảo
uy tín và chất lượng. Các khách hàng tín nhiệm cao với Công ty gồm: ngân hàng,
bảo hiểm và dịch vụ tài chính; năng lượng, dầu khí; viễn thông, điện tử; công
nghiệp, nông nghiệp; giao thông, thuỷ lợi; hàng không và hàng hải; than, thép, xi
măng; khách sạn, du lịch, thương mại; xây dựng, cao su, cà phê và y tế...
Trong năm 2002, Công ty đã thực hiện kiểm toán cho trên 100 doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn: Công ty liên doanh
đèn hình Orion -Hanel, Công ty thép PPS - Posco, Công ty cáp VinaDeasung,
Công ty liên doanh Mặt trời Sông Hồng, Công ty SUZUKI Việt Nam, Công ty liên
doanh Trung tâm thương mại quốc tế IBC...; trên 200 doanh nghiệp nhà nước và
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác: 12 tổng Công ty 91, 15 tổng
Công ty 90, 12 doanh nghiệp thuộc khối ngân hàng...; nhiều dự án do các tổ chức
quốc tế tài trợ, trong đó có các dự án lớn như dự án cải tạo quốc lộ 1, dự án đa mục
tiêu Phước Hoà, dự án cấp thoát nước thành phố Hồ Chí Minh, dự án phục hồi thuỷ
lợi sông Hồng, dự án PAM.... Uy tín của Công ty trong lĩnh vực tư vấn tài chính,
kế toán và kiểm toán đã được Chính phủ, Bộ Tài chính, các bộ ngành khác và
nhiều tổ chức tài chính tín dụng quốc tế đánh giá cao. Doanh thu của Công ty tăng
từ 840 triệu đồng nămn 1992 lên hơn 17,5 tỷ trong năm 2000 và 21 tỷ trong năm
2002 (tăng 12 % so với năm 2001 – 18,7 tỷ đồng) (xem biểu đồ số 1) trong đó

doanh thu của hoạt động kiểm toán là 17,4 tỷ (tăng 16,8 % so với năm 2001),
doanh thu hoạt động tư vấn chiếm 12 tỷ và các dịch vụ khác là 1,3 tỷ. Nếu như
Công ty chỉ mới nộp vào Ngân sách Nhà nước 245 triệu vào năm 1992, thì năm
2002 nộp 4 tỷ đồng. Mức tích luỹ hàng năm đều đạt từ 26% đến 30% doanh thu.
Thu nhập bình quân trong bốn năm gần đây của cán bộ công nhân viên chức đạt
trên 2 triệu đồng/tháng. Bằng nguồn vốn tự tích luỹ, Công ty đã xây dựng được trụ
sở, mua sắm được nhiều trang thiết bị văn phòng, phương tiện đi lại, hệ thống
thông tin khá hiện đại. Hiện tại tổng giá trị tài sản của Công ty đạt hơn 15 tỷ đồng.
Biểu đồ số 1: Doanh thu của AASC
Triệu đồng
Năm
Với những thành tích đã đạt được nói trên, Công ty liên tục nhận được sự biểu
dương, khen thưởng của Chủ tịch nước và Bộ trưởng Bộ Tài chính, tiêu biểu là
tháng 9 năm 2001 được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng
Ba, điều đó chứng tỏ sự trưởng thành và phát triển vượt bậc của Công ty.
II. KHÁI QUÁT VỀ QUY TRÌNH KIỂM TOÁN DO CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ
VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN (AASC) THỰC HIỆN:
Trong hơn một thập kỉ vừa qua AASC là một trong những công ty hàng đầu,
lớn nhất tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán đầy mới mẻ và đã nhanh
chóng khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, thu hút được đội ngũ khách
hàng kiểm toán thường xuyên, đông đảo. Kết quả đó có được là do Công ty đã
không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ, khai thác và mở rộng thị trường,
Công việc thực hiện trước khi kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết
Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán
Các công việc thực hiện sau kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát
đặc biệt là đã xây dựng và áp dụng một chương trình kiểm toán chặt chẽ, hợp lí,
hiệu quả, được cấp trên và khách hàng đánh giá cao với sáu bước công việc cụ thể

thể hiện qua sơ đồ 5.
Sơ đồ 5: Trình tự các bước thực hiện công việc kiểm toán của AASC
Sau đây chúng ta đi vào xem xét nội dung chi tiết của từng bước thực hiện
công việc kiểm toán do kiểm toán viên AASC thực hiện.
1. Công việc thực hiện trước kiểm toán:
Các công việc này thường được thực hiện bởi Ban lãnh đạo Công ty dựa trên
cơ sở những thông tin về khách hàng đã thu thập được qua các phương tiện thông
tin đại chúng, qua gặp gỡ trao đổi với khách hàng trước kiểm toán hoặc qua xem
xét hồ sơ kiểm toán của các năm trước.
Theo bước thực hiện này, Công ty tiến hành một số công việc sau:
 Gửi thư chào hàng
 Đánh giá khả năng kiểm toán.
 Lựa chọn nhóm kiểm toán.
 Thảo luận về các điều khoản và lập hợp đồng kiểm toán.
Trước sự cạnh tranh quyết liệt của các công ty kiểm toán lớn trong nước và
nước ngoài như Vaco, KPMG, Price Waterhouse ..., hàng năm AASC đều gửi thư
chào hàng đến các khách hàng mà Công ty dự kiến là có khả năng cung cấp được
dịch vụ theo nhu cầu của họ.
Sau khi thư chào hàng được gửi đi, đơn vị nào có nhu cầu mong muốn được
AASC cung cấp dịch vụ kiểm toán thì sẽ có thư phản hồi bằng miệng hoặc bằng
văn bản. Trên cơ sở thư mời kiểm toán, AASC xác định được khách hàng của mình
và tiến hành các công việc nhằm xác định mức rủi ro từ đó xem xét khả năng có
chấp nhận kiểm toán hay không.
Việc đánh giá rủi ro kiểm toán và môi trường kiểm soát là công việc hết sức
quan trọng, có ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc kiểm toán, do đó đòi hỏi người đánh
giá phải có cả trình độ chuyên môn lẫn kinh nghiệm trong công việc. Thông
thường, tại AASC một thành viên trong Ban giám đốc sẽ tiến hành đánh giá rủi ro
kiểm toán là cao, bình thường hay thấp thông qua bảng câu hỏi có sẵn để xem xét
khả năng có chấp nhận kiểm toán hay không. Khi đã chấp nhận cung cấp dịch vụ
kiểm toán cho một đơn vị khách hàng nào đó, Ban giám đốc AASC sẽ chỉ định

người phụ trách công việc kiểm toán. Người được chỉ định này thường phải có
trình độ tương xứng với mục tiêu, phạm vi kiểm toán nói riêng và tương xứng với
vị trí, yêu cầu, nội dung và tinh thần của cuộc kiểm toán nói chung.
Sau khi chấp nhận kiểm toán và lựa chọn được nhóm kiểm toán thì bước tiếp
theo là cùng với đơn vị khách hàng thảo luận về các điều khoản và lập hợp đồng
kiểm toán. Đây chính là sự thoả thuận giữa AASC và khách thể kiểm toán để đưa
ra các điều khoản phù hợp với quy định của pháp luật và để tránh những xung đột
pháp lí sau này đồng thời cũng là cơ sở để lập kế hoạch kiểm toán tổng quát.
2. Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát:
Việc lập kế hoạch kiểm toán tổng quát tại AASC bao gồm các công việc sau:
• Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng:
Công việc này giúp đánh giá rủi ro tiềm tàng, đưa ra đánh giá ban đầu về rủi
ro sai sót đáng kể đối với những mục tiêu kiểm toán. Đối với AASC, hiểu biết về
ngành nghề kinh doanh thường bao gồm những hiểu biết chung về nền kinh tế, lĩnh
vực hoạt động và cả những khía cạnh đặc thù của đơn vị khách hàng như cơ cấu tổ
chức, dây chuyền và các dịch vụ sản xuất ...
Để đạt được sự hiểu biết đó có thể dùng nhiều cách khác nhau, riêng tại
AASC, phương pháp được các kiểm toán viên sử dụng nhiều nhất là trao đổi với
các kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc trao đổi trực tiếp với Ban giám đốc, nhân viên
Công ty khách hàng hoặc tìm hiểu qua báo chí, các tạp chí chuyên ngành ...
• Tìm hiểu môi trường kiểm soát:
Tại AASC, khi lập kế hoạch kiểm toán tổng quát, việc tìm hiểu môi trường
kiểm soát của đơn vị khách hàng chỉ dừng lại ở những đánh giá tổng thể về thái độ,
nhận thức của Ban giám đốc nhằm khẳng định bước đầu tính tin cậy vào hệ thống
kiểm soát nội bộ.
• Tìm hiểu hệ thống kế toán:
Việc tìm hiểu hệ thống kế toán áp dụng tại đơn vị khách hàng sẽ giúp kiểm
toán viên xây dựng được một kế hoạch kiểm toán phù hợp đồng thời đây cũng là
những thông tin giúp ích rất nhiều trong quá trình kiểm toán đi vào từng phần hành
cụ thể.

• Thực hiện những thủ tục phân tích để hỗ trợ cho quá trình lập kế hoạch kiểm toán:
Sau khi thực hiện các công việc nói trên, kiểm toán viên của AASC tiến hành
thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập để hỗ trợ cho việc
lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm toán sẽ được sử
dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán.
• Đánh giá trọng yếu và rủi ro:
Căn cứ vào những thông tin thu nhận được trong quá trình tìm hiểu khách
hàng cũng như tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội, kiểm toán viên phân tích và
đánh giá tính trọng yếu của từng khoản mục trên Báo cáo tài chính. AASC đã xây
dựng được một phương pháp cũng như căn cứ để xác định mức trọng yếu thống
nhất trong toàn Công ty:
- Từ 5% đến 10% đối với lợi nhuận trước thuế
- Từ 0,5% đến 1% đối với doanh thu
- Từ 2% đến 4% hoặc 3% đến 6% đối với tài sản lưu động
- Từ 2% đến 4% hoặc 3% đến 6% đối với nợ ngắn hạn
- Từ 1% đến 2% hoặc 2% đến 4% đối với tổng số tài sản
- Từ 0,25% đến 0,5% tổng giá trị tài sản khi tính đến việc thanh lí, phá sản
doanh nghiệp.
Đây là việc xác định mức độ trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch. Mức độ
trọng yếu có thể sẽ được thay đổi trong quá trình thực hiện kiểm toán tại doanh
nghiệp và phụ thuộc vào sự xét đoán mang tính nghề nghiệp của các kiểm toán
viên.
3. Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết:
Trên cơ sở những thông tin đã thu thập được qua việc thực hiện các công việc
trước kiểm toán và lập kế hoạch kiểm toán tổng quát, kiểm toán viên tiến hành lập
kế hoạch kiểm toán chi tiết. Tại AASC, trong khâu lập kế hoạch kiểm toán chi tiết
thường bao gồm các bước công việc như sau:
 Đánh giá rủi ro tiềm tàmg và rủi ro chi tiết đối với số dư các tài khoản trên
Bảng cân đối kế toán hoặc các khoản mục trên Báo cáo tài chính.
 Từ kết quả đánh giá thu được đưa ra kết luận có tin cậy vào hệ thống kiểm

soát nội bộ hay không để xác định mức độ kiểm tra chi tiết.
 Thiết kế chương trình kiểm toán cho các tài khoản, các khoản mục.
4. Thực hiện kế hoạch kiểm toán:
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã
ấn định trong kế hoạch kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ
trung thực và hợp lí của Báo cáo tài chính.
Tại AASC, việc thực hiện kế hoạch kiểm toán được kiểm toán viên triển khai
theo chương trình kiểm toán đã soạn thảo thường qua 3 bước cơ bản:
 Kiểm tra tổng quát các khoản mục:
Công việc kiểm tra tổng quát các khoản mục trên Báo cáo tài chính được tiến
hành như một công việc đầu tiên và tất yếu trong giai đoạn thực hiện kế hoạch
kiểm toán trước khi kiểm tra từng bộ phận cấu thành Báo cáo tài chính. Mục đích
của việc kiểm tra này nhằm xem xét báo cáo tài chính có tuân thủ các nguyên tắc
kế toán không, có chứa đựng các thông tin cần thiết và mô tả đúng hoạt động của
công ty hay không.
 Thực hiện các thủ tục phân tích đối với từng khoản mục.
 Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết và đánh giá kết quả kiểm tra.
5. Kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán:
Sau khi kiểm toán viên đã hoàn thành tất cả các thể thức, tức là kết thúc toàn
bộ quá trình thực hiện các thủ tục phân tích và các thủ tục kiểm tra chi tiết đối với
từng khoản mục, các chu trình kinh doanh tại đơn vị khách hàng, kiểm toán viên
tổng hợp tất cả các thông tin đã thu thập được để đưa ra các bút toán điều chỉnh,
tổng hợp kết quả kiểm toán trên cơ sở đó đi đến một kết luận chung về sự trình bày
Báo cáo tài chính có trung thực hay không và thực hiện công việc còn lại của cuộc
kiểm toán là lập báo cáo kiểm toán. Các bước công việc cụ thể trong giai đoạn này
gồm có:
 Soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
 Xem xét tính liên tục hoạt động của đơn vị khách hàng.
 Thu thập thư giải trình của Ban giám đốc khách hàng.
 Đánh giá kết quả và lập bảng tổng hợp kết quả kiểm toán.

 Lập báo cáo kiểm toán.
Nội dung chi tiết các bước công việc do AASC thực hiện trong giai đoạn này
sẽ được tác giả trình bày cụ thể và chi tiết hơn ở các phần sau.
6. Các công việc thực hiện sau kiểm toán
Sau mỗi cuộc kiểm toán AASC đều thực hiện đánh giá lại chất lượng của toàn
bộ công việc, đánh giá chất lượng làm việc của kiểm toán viên, đánh giá lại rủi ro
của cuộc kiểm toán từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm. Sự đánh giá này được
thực hiện từ hai phía:
Thứ nhất, đánh giá từ phía các đơn vị khách hàng:
Sau mỗi cuộc kiểm toán, AASC rất chú trọng tiếp thu các ý kiến đánh giá,
nhận xét của khách hàng về cuộc kiểm toán mà AASC đã thực hiện.Qua đó, AASC
có thể tự đánh giá được dịch vụ kiểm toán của mình có hợp lí về thời gian, về
phương pháp làm việc, về thái độ của kiểm toán viên hay không..., cuộc kiểm toán
có gây trở ngại cho các hoạt động của khách hàng hay không và các dịch vụ tư vấn
mà Công ty cung cấp đã thoã mãn yêu cầu của khách hàng hay chưa?
Thứ hai, đánh giá trong nội bộ Công ty:
Theo đúng Chuẩn mực kiểm toán quốc tế: “Công ty kiểm toán phải thực hiện
những chính sách và những thủ tục kiểm tra chất lượng để đảm bảo rằng kiểm toán
được tiến hành phù hợp với Chuẩn mực quốc tế hoặc những chuẩn mực hay thông
lệ quốc gia” (trích đoạn 4 - ISA 220), sau mỗi cuộc kiểm toán, khác với một số
công ty kiểm toán khác, các cán bộ trong đoàn kiểm toán của AASC tổ chức họp
đánh giá lại toàn bộ cuộc kiểm toán trên các mặt sau:
+ Đánh giá lại rủi ro của cuộc kiểm toán.
+ Soát xét trong nội bộ về hiệu quả của việc thực hiện dịch vụ cho khách
hàng.
+ Đánh giá chất lượng làm việc của các nhân viên kiểm toán.
Ngoài ra, một công việc thường xuyên được AASC chú trọng đến sau mỗi
cuộc kiểm toán là giữ mối quan hệ thường xuyên với khách hàng nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các cuộc kiểm toán năm sau.
III. NỘI DUNG CÁC CÔNG VIỆC TRONG GIAI ĐOẠN KẾT THÚC KIỂM

TOÁN DO CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN VÀ KIỂM
TOÁN THỰC HIỆN
Trình tự tiến hành một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính do AASC thực hiện,
như đã trình bày ở trên, bao gồm những bước công việc cụ thể, tuần tự, chi tiết tạo
thành một liên hệ khoa học các phương pháp kiểm toán dùng để xác minh và bày
tỏ ý kiến. Theo trình tự đó sau khi hoàn thành tất cả các thủ tục kiểm toán ở tất cả
các khoản mục hay phần hành trên Báo cáo tài chính, trưởng nhóm kiểm toán chịu
trách nhiệm tổng hợp các bằng chứng thu thập được và chuyển sang giai đoạn kết
thúc kiểm toán.
Công tác hoàn thành cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính như đã được trình bày
ở phần cơ sở lí luận chung bao gồm: xem xét tính hoạt động liên tục của doanh
nghiệp, thẩm tra các khoản nợ ngoài dự kiến, xem xét lại các sự kiện tiếp sau, đánh
giá các kết quả kiểm toán, lập và công bố báo cáo kiểm toán hoặc biên bản kiểm
toán. Tuy nhiên, thực tế các công việc trong giai đoạn kết thúc kiểm toán do AASC
thực hiện không hoàn toàn tương ứng như trên mà đó là sự vận dụng cụ thể lí
thuyết vào công việc kiểm toán thực tiễn ở mỗi khách hàng. Do vậy, về thực chất,
các vấn đề được xem xét và cách giải quyết các vấn đề đó trong thực tế có những
sai khác nhất định so với lí luận. Để thấy rõ sự khác nhau này cũng như minh hoạ
cho những nội dung đã nghiên cứu ở chương I và hiểu thêm về thực tiễn công tác
tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán ở AASC, trong phần này tác giả xin trình bày
chi tiết các công việc kết thúc kiểm toán mà kiểm toán viên AASC đã thực hiện khi
kiểm toán tại hai đơn vị khách hàng: Doanh nghiệp nhà nước A (sau đây gọi tắt là
Công ty A) và Công ty cổ phần B (gọi tắt là Công ty B).
Công ty A là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất (sản
xuất xi măng), còn Công ty B là công ty cổ phần hoạt động trong cả ba lĩnh vực:
sản xuất, thương mại và dịch vụ. Vì vậy, hai đối tượng khách hàng này có những
đặc điểm riêng biệt trong quá trình hoạt động cũng như trong việc tổ chức quản lí
và hạch toán kế toán. Sự khác nhau này có thể dẫn đến sự khác nhau trong quá
trình kiểm toán từ việc thực hiện giai đoạn lập kế hoạch đến tiến hành các công
việc trong giai đoạn kết thúc kiểm toán

1. Soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán
Kiểm toán viên cần thực hiện các biện pháp đã dự kiến để chứng minh rằng
mọi sự kiện xảy ra tiếp theo tính đến ngày kí báo cáo kiểm toán có thể phải điều
chỉnh hoặc sự thể hiện trong báo cáo tài chính đã được xác nhận. Những thủ tục
này nhằm bổ sung thêm cho các thủ tục đặc biệt có thể áp dụng cho các nghiệp vụ
phát sinh sau ngày lập bảng tổng kết tài sản để thu thập bằng chứng về số dư tài
khoản vào ngày khoá sổ. Như vậy, ngoài mục đích xác định ảnh hưởng của các sự
kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán, kiểm toán viên soát xét các sự kiện này
còn để phân biệt các sự kiện cần điều chỉnh trên Báo cáo tài chính với các sự kiện
cần thuyết minh trong Báo cáo tài chính từ đó cân nhắc về ý kiến đưa ra trong báo
cáo kiểm toán.
Theo quy trình kiểm toán chung đã đề cập đến trong phần cơ sở lí luận, đối
với các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán, ngoài các sự kiện tính đến ngày
lập báo cáo kiểm toán còn có các sự kiện phát sinh sau ngày kí báo cáo kiểm toán,
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560 - “ Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ
kế toán lập Báo cáo tài chính” cũng chỉ rõ điều đó. Tuy nhiên, trong thực tế kiểm
toán tại AASC, chương trình soát xét các sự kiện sau ngày kết thúc niên độ kế toán
không đặt ra yêu cầu xem xét sự kiện sau ngày kí báo cáo kiểm toán do kiểm toán
viên không có trách nhiệm như vậy, thêm vào đó, việc xem xét này chưa thực sự
phù hợp với thực tiễn kiểm toán ở Việt Nam. Trong trường hợp tồn tại những sự
kiện sau ngày phát hành báo cáo kiểm toán mà có thể ảnh hưởng tới Báo cáo tài
chính thì việc phát hiện thường được thực hiện trong cuộc kiểm toán năm sau hoặc
có thể do khách hàng thông báo cho kiểm toán viên.
Tuân thủ theo đúng chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 560, đối với các sự
kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán, kiểm toán viên AASC thường tiến hành các
thủ tục kiểm toán để xác định các sự kiện đòi hỏi phải có hiệu chỉnh hoặc thuyết
minh trong báo cáo tài chính hoặc những vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính
bắt buộc phải được ghi lại càng gần ngày phát hành báo cáo kiểm toán càng tốt.
Các thủ tục được kiểm toán viên áp dụng trong các trường hợp này thường là:
 Xem xét lại các biện pháp mà Ban giám đốc khách hàng đã áp dụng nhằm

đảm bảo rằng các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ có ảnh hưởng đến
báo cáo tài chính đã được xác định và được thể hiện trong báo cáo tài chính bằng
cách hỏi Ban giám đốc về một số vấn đề như:
+ Những sự kiện cung cấp thêm bằng chứng kiểm toán đối với các mục tiêu
kiểm toán khác (ngoài mục tiêu kiểm toán trọng tâm).
+ Những sự kiện xảy ra trong nội bộ Công ty.
+ Những sự kiện xảy ra bên ngoài có ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty.
+ Những thay đổi về mặt tài chính (ví dụ như phát hành cổ phiếu, trái phiếu
mới hoặc bán tài sản ...)
 Đọc các biên bản họp Ban giám đốc, các biên bản kiểm toán nội bộ của
thời kì sau ngày lập bảng cân đối kế toán và thẩm tra những vấn đề đã được thảo
luận tại các cuộc họp đó mà chưa ghi vào các biên bản. Đọc và phân tích Báo cáo
tài chính trong năm gần nhất của đơn vị cũng như các báo cáo ngân sách, các báo
cáo quản lí khác có liên quan.
 Thẩm vấn luật sư khách hàng về các vụ kiện hoặc tranh chấp.
Cụ thể, đối với Công ty A, là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng
Công ty Xi măng Việt Nam, sau khi thực thi một số thủ tục kiểm toán như trao đổi
với Ban giám đốc đơn vị, đọc biên bản họp của Ban giám đốc, xem xét các báo cáo
quản lí ... kiểm toán viên xác định sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ là:
Tháng 2 năm 2003, tại tỉnh Nghệ An, Công ty C - một doanh nghiệp hoạt động
cùng lĩnh vực (sản xuất xi măng) được thành lập và dự đoán sẽ tạo ra môi trường
cạnh tranh mạnh mẽ với Công ty A. Tuy nhiên, cho đến thời điểm tiến hành kiểm
toán, Công ty C vẫn chưa được sự cho phép đi vào hoạt động, do đó các Báo cáo tài
chính của Công ty AASC được trình bày trên cơ sở giả thiết rằng Công ty vẫn hoạt
động liên tục. Ngoài sự kiện này không có sự kiện nào đặc biệt xảy ra sau ngày kết
thúc niên độ cho đến thời điểm kiểm toán.
Căn cứ vào các dấu hiệu biểu hiện tính liên tục hoạt động bị vi phạm được liệt
kê trong Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 570 - “Tính liên tục của hoạt động
kinh doanh” cũng như nội dung tác giả đã trình bày trong chương I (mục 1.1),
kiểm toán viên AASC kết luận rằng sự kiện nói trên có thể ảnh hưởng đến tính liên

tục hoạt động của Công ty. Trên cơ sở đó kiểm toán viên đã tiến hành một số thủ
tục kiểm toán như hỏi Ban giám đốc, thu thập thư giải trình của Ban giám đốc,
điều tra ... để xác định xem liệu có thể có rủi ro phát sinh từ sự kiện này hay không,
nếu có thì mức độ ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính như thế nào và đánh giá xem
sự kiện này có được phản ánh thích hợp vào Báo cáo tài chính hay không.
Đối với Công ty cổ phần B, sau khi áp dụng kết hợp tất cả các thủ tục cần thiết
đã liệt kê ở trên, kiểm toán viên đã xác định được một số sự kiện sau ngày kết thúc
niên độ cần phải lưu ý:
1. Tháng 2 năm 2003 xảy ra một vụ kiện do vi phạm tranh chấp bản quyền tác
phẩm đang chờ xét xử mà Công ty Liên doanh IVT - một đơn vị thành viên của Công
ty B có quyền và nghĩa vụ liên quan.
2. Đầu năm 2003 trên thị trường Thành phố Hồ Chí Minh xuất hiện hàng loạt
các trung tâm, các Công ty TNHH cung cấp cùng loại dịch vụ với trung tâm quảng
cáo và chế bản điện tử - đơn vị thành viên của Công ty B tạo ra môi trường cạnh
tranh quyết liệt làm thu hẹp thị trường.
Sau khi áp dụng các thủ tục kiểm toán bổ sung kiểm toán viên nhận thấy các
sự kiện trên đều có ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính tuy nhiên không đòi
hỏi phải điều chỉnh mà cần được thuyết minh trong Báo cáo tài chính. Nếu việc
thuyết minh này không phù hợp sẽ gây ảnh hưởng rất lớn cho các đối tượng sử
dụng Báo cáo tài chính của Công ty B. Loại trừ các sự kiện phát sinh sau ngày kết
thúc niên độ, người đọc Báo cáo tài chính có thể kết luận rằng Công ty cổ phần B
đã hoạt động tốt, tính liên tục hoạt động không bị vi phạm và có thể tin vào kết quả
hoạt động năm 2003 của Công ty, từ đó họ sẽ đưa ra những quyết định đầu tư sai
lầm.
Nguyên tắc 1 kiểm toán quốc tế - “Mục đích và phạm vi của kiểm toán Báo
cáo tài chính”, đoạn 3 quy định: “Ý kiến của kiểm toán viên giúp cho việc thiết lập
tín nhiệm đối với các Báo cáo tài chính. Đương nhiên người sử dụng sẽ không cho
rằng ý kiến của kiểm toán viên là một sự đảm bảo cho sự vững chắc trong tương lai
của một đơn vị” [7, 215].
Như vậy tính liên tục hoạt động cũng là một vấn đề quan trọng cần được xem

xét trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm đưa ra thông báo đầy đủ nhất cho người sử
dụng thông tin tài chính về khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai
chứ không phải để chắc chắn rằng trong tương lai doanh nghiệp sẽ hoạt động có
hiệu quả.
2. Xem xét tính liên tục hoạt động của đơn vị khách hàng:
Kiểm toán viên phải có trách nhiệm đánh giá xem liệu có mối nghi ngờ lớn
nào về khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian
hợp lí sau ngày lập bảng cân đối kế toán (khoảng thời gian hợp lí thường không
vượt quá một năm sau ngày lập bảng cân đối kế toán).
Đối với kiểm toán viên AASC, mối nghi ngờ lớn về khả năng doanh nghiệp
tiếp tục hoạt động trong một khoảng thời gian hợp lí có thể xuất phát từ quá trình
đọc và phân tích sơ bộ Báo cáo tài chính, từ những bằng chứng kiểm toán thu thập
được trong suốt đợt kiểm toán hoặc từ sự phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động của khách hàng được thu nhận qua việc phỏng vấn, theo dõi các phương tiện
thông tin đại chúng về các chính sách quy định của Chính phủ.
Áp dụng Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 570 - “Tính liên tục của hoạt
động kinh doanh” vào thực tiễn kiểm toán của AASC, trên cơ sở các dấu hiệu biểu
hiện đã được liệt kê trong đó, kiểm toán viên thiết lập các thủ tục kiểm toán nhằm
thu thập bằng chứng về tính liên tục hoạt động kinh doanh của khách hàng bao
gồm:
 Đọc báo cáo tài chính mới nhất của đơn vị khách hàng và xem xét luồng
tiền mặt, lợi nhuận và những dự báo liên quan khác của doanh nghiệp cho một năm
hay cho khoảng thời gian sau ngày lập Bảng cân đối kế toán và trao đổi những vấn
đề này với Ban giám đốc khách hàng.
 Hỏi luật sư của đơn vị khách hàng thông tin về các vấn đề luật pháp, xác
nhận sự hiện hữu, tính pháp lí và tính khả thi của những thu xếp, thoả thuận cung
cấp hay duy trì hỗ trợ về tài chính với bên liên quan hoặc bên thứ ba và xem xét
khả năng các bên này có thể cung cấp thêm nguồn tài chính cho đơn vị.
 Đọc biên bản các cuộc họp của Ban giám đốc và các tài liệu, chứng từ có
liên quan.

 Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập Bảng cân đối kế toán đối với
những khoản mục ảnh hưởng tới khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp,
chẳng hạn như xem xét giá trị và xu hướng của những đơn đặt hàng chưa được
giao hàng; xem xét liệu các điều khoản của giấy nợ hoặc các thoả thuận cho vay có
bị vi phạm hay có dễ bị vi phạm hay không; xem xét các điều kiện thuận lợi của
việc cho vay theo những yêu cầu đặt ra; thu nhận những giải trình viết từ Ban giám
đốc về kế hoạch mà Ban giám đốc đã vạch ra và xem xét yếu tố giảm nhẹ vấn đề
về tính liên tục hoạt động.
Ngoài ra, để khẳng định về tính liên tục hoạt động của đơn vị khách hàng,
kiểm toán viên còn tính toán và đưa ra một số tỷ suất tài chính như tỷ suất khả
năng thanh toán, tỷ suất khả năng sinh lời ...
Các thủ tục xem xét khả năng hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng được
thực hiện và ghi chép tóm tắt trong giấy tờ làm việc của kiểm toán viên AASC như
sau:
Bảng số 2: Xem xét tính liên tục hoạt động
Nội dung
Tham
chiếu
Sự kiện
phát sinh
Người
thực hiện
1. Các dấu hiệu biểu hiện tính liên tục hoạt động của
doanh nghiệp:
- Các dấu hiệu về tài chính:
+ Giá trị thuần hoặc nguồn vốn lưu động âm
+ Không thể trả các khoản vay đến hạn trả
+ Các khoản thu quá hạn lớn không có khả năng thu hồi
+ Dùng tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho các khoản tín
dụng dài hạn

+ Lỗ kinh doanh lớn
+ Cổ tức tồn đọng chưa thanh toán hoặc không phân
phối
+ Không thể trả các khoản nợ đến hạn
+ Khó khăn trong việc thoã mãn các điều kiện của hợp
đồng tín dụng
+ Nhà cung cấp từ chối giao hàng do không thanh toán
ngay
+ Không thể tìm được nguồn tài trợ để phát triển sản
phẩm mới hoặc các nguồn đầu tư cấp thiết khác ...
- Các dấu hiệu về hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp:
+ Thành viên trong Ban lãnh đạo từ chức
+ Mất một thị trường quan trọng, một nhà cung cấp
chính...
+ Thay đổi nhân sự
+ Thiếu những nguyên vật liệu cần thiết
+ Dấu hiệu khác
- Các dấu hiệu khác:
+ Không đủ hoặc không tuân thủ các quy định về vốn
pháp định hoặc các quy định khác trong điều lệ
+ Doanh nghiệp đang có những có thể có kết cục xấu
ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp
+ Sự thay đổi trong luật pháp hoặc chính sách của Chính
phủ
2. Các yếu tố giảm nhẹ:
+ Về tài chính
+ Về hoạt động kinh doanh
+ Yếu tố khác
3. Kết luận về tính liên tục hoạt động của doanh nghiệp:


Nguồn: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên
Đối với Công ty A, sau khi thực thi một số biện pháp bổ sung để xem xét sự
kiện xảy ra sau ngày khoá sổ nói trên mà kiểm toán viên xét thấy cần thiết như điều
tra, trao đổi với Ban giám đốc về các dự định trong năm 2003, kiểm toán viên xác
định rằng khái niệm “doanh nghiệp liên tục hoạt động” không bị vi phạm vì có các
yếu tố giảm nhẹ, cụ thể:
Trong năm 2003, Công ty có kế hoạch cải tạo dây chuyền sản xuất, nâng cao
chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã bao bì tạo ra khả năng cạnh tranh lớn; bên
cạnh đó, tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ tại các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và
một số tỉnh khác, vì vậy, vấn đề trên sẽ không ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh
của Công ty trong năm 2003.
Kiểm toán viên đã đề nghị Ban giám đốc Công ty A thể hiện các yếu tố giảm
nhẹ nói trên trong báo cáo tài chính và được chấp nhận. Như vậy, tất cả các thông
tin thu thập được đều đầy đủ, thoả đáng chứng minh tính liên tục hoạt động kinh
doanh của Công ty và sự thể hiện các yếu tố giảm nhẹ được coi là phù hợp do đó
kiểm toán viên sẽ lập báo cáo kiểm toán dạng “chấp nhận toàn phần”.
Đối với các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ ở Công ty cổ phần B, sau khi
áp dụng các thủ tục kiểm toán có thể xét thấy cần thiết, thu thập đầy đủ các thông
tin hữu ích kiểm toán viên nhận thấy rằng: Ban giám đốc Công ty chưa có dự định
hay kế hoạch cụ thể để giải quyết vấn đề thị trường bị thu hẹp nói trên hoặc các
biện pháp dự kiến có thể khắc phục khả năng thanh toán của đơn vị trong một

×