Tải bản đầy đủ (.docx) (249 trang)

Giáo dục thẩm mỹ âm nhạc cho học sinh trung học cơ sở tại tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.83 MB, 249 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN THỊ LƯU AN

GIÁO DỤC THẨM MỸ ÂM NHẠC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc

Hà Nội, 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN THỊ LƯU AN

GIÁO DỤC THẨM MỸ ÂM NHẠC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc
Mã số: 9140111

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đăng Nghị

Hà Nội, 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Các kết
quả nghiên cứu và các kết luận trong luận án này là trung thực, không sao chép từ
bất kỳ một nguồn nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích
dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định.
Tác giả luận án


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCHT Ban chấp hành
trung ương
W
CĐSP Cao đẳng sư
phạm
ĐHSP
Đại học sư
GD phạm
GD&ĐGiáo dục
T
Giáo dục và
GDTMđào tạo
GV
HS
Nxb
PP
PPDH
SGK

Giáo dục

thẩm mỹ
Giáo viên
Học sinh
Nhà xuất bản
Phương pháp

Phương pháp
SGV dạy học
STT
THCS

Sách giáo
khoa

Sách giáo
THPT viên
TNSP Số thứ tự
TM
TP
TS
TW

Trung học cơ
sở
Trung học
phổ thông
Thực nghiệm
sư phạm



Thẩm mỹ

Tiến sĩ

Thành phố

Trung ương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………

1

Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ……………………...............7
1.1. Nghiên cứu về mỹ học, giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ âm

7

nhạc .............................................................................................................
1.1.1. Về mỹ học............................................................................................................................... 7
1.1.2. Về giáo dục thẩm mỹ.......................................................................................................... 9
1.1.3. Giáo dục thẩm mỹ âm nhạc........................................................................................... 18
1.2. Những nghiên cứu về giáo dục âm nhạc ………………………………… 23
1.2.1. Những nghiên cứu về phương pháp dạy học âm nhạc........................................ 23
1.2.2. Những nghiên cứu về giáo dục âm nhạc ở cấp trung học cơ sở......................26
Kết luận chương 1.......................................................................................................................... 31
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN................................................................................................... 33
2.1. Khái niệm................................................................................................................................. 33
2.1.1. Giáo dục, thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ…………………………..


33

2.1.2. Âm nhạc và giáo dục thẩm mỹ âm nhạc……………………………

36

2.1.3. Dạy học và dạy học Hát……………………………………………..

38

2.2. Nội dung và hình thức giáo dục thẩm mỹ âm nhạc thông qua dạy học hát. 41
2.2.1. Nội dung giáo dục thẩm mỹ âm nhạc……………………………….

41

2.2.2. Hình thức giáo dục thẩm mỹ âm nhạc....................................................................... 45
2.3. Cơ sở và nguyên tắc của việc giáo dục thẩm mỹ âm nhạc cho học

47

sinh qua dạy Học hát ……………………………………………………..
2.3.1. Cơ sở của việc giáo dục thẩm mỹ âm nhạc cho học sinh................................... 47
2.3.2. Nguyên tắc giáo dục thẩm mỹ thông qua dạy học hát........................................ 51
2.4. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh và vai trò của giáo dục thẩm mỹ
âm nhạc

54

........................................................................................................


2.4.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở............................................. 54
2.4.2. Vai trò của giáo dục thẩm mỹ âm nhạc..................................................................... 57
2.5. Cách tiếp cận và lý thuyết nghiên cứu.......................................................................... 62


2.5.1. Cách tiếp cận....................................................................................................................... 62
2.5.2. Lý thuyết nghiên cứu....................................................................................................... 63
Kết luận chương 2.......................................................................................................................... 69
Chương 3: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ ÂM NHẠC CHO HỌC
SINH VÀ GIÁ TRỊ CỦA CÁC BÀI HÁT TRONG CHƯƠNG TRÌNH

71

..................

3.1. Khái qt về tỉnh Bình Dương ……………………………………….

71

3.1.1. Vị trí và tiềm năng kinh tế.............................................................................................. 71
3.1.2. Về xã hội, văn hóa và giáo dục.................................................................................... 72
3.2. Tình hình giáo dục thẩm mỹ âm nhạc cho học sinh................................... .............74
3.2.1. Thực trạng dạy học hát.................................................................................................... 74
3.2.2. Đánh giá những yếu tố tác động đến quá trình giáo dục thẩm mỹ

79

âm nhạc.................................................................................. .....................................
3.3. Giá trị thẩm mỹ của bài hát và các bài dân ca trong chương trình..................... 81

3.3.1. Các bài hát trong chương trình..................................................................................... 82
3.3.2. Các bài dân ca..................................................................................................................... 92
3.3.3. Tác động của dạy học hát trong việc giáo dục thẩm mỹ cho học

97

sinh ...............................................................................................................
Kết luận chương 3....................................................................................................................... 100
Chương 4: BIỆN PHÁP GIÁO DỤC THẨM MỸ ÂM NHẠC CHO HỌC

102

SINH THÔNG QUA DẠY HỌC HÁT .......................................................
4.1. Điều kiện tiên quyết........................................................................................................... 102
4.1.1. Yêu cầu đối với giáo viên dạy âm nhạc……………………......................... 102
4.1.2. Đổi mới cách tổ chức và quản lí lớp học............................................................... 105
4.2. Các biện pháp dạy học hát.............................................................................................. 108
4.2.1. Xây dựng chương trình có lợi cho việc giáo dục thẩm mỹ âm nhạc..

108

4.2.2. Sáng tạo các hình thức dạy học hát.......................................................................... 113
4.2.3. Các biện pháp khác trong dạy học hát.................................................................... 120
4.2.4. Nâng cao vai trị của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục thẩm mỹ âm nhạc ……………………………………………………..

133


4.2.5. Đổi mới cách đánh giá kết quả trong dạy học hát ………………..


135

4.3. Thực nghiệm sư phạm...................................................................................................... 138
4.3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm .............................................................................. 138
4.3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm…………………………………….

138

4.3.3. Đối tượng và thời gian thực nghiệm sư phạm………………………

138

4.3.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm........................................................................ 139
4.3.5. Tiến hành thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả....................................... 141
Kết luận chương 4 ..................................................................................................................... 148
KẾT LUẬN................................................................................................................................... 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................ 153
PHỤ LỤC …………………………………………………………………

166


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, ở nước ta việc đào
tạo ra những con người toàn diện là vấn đề cấp bách mà Đảng luôn quan tâm. Vấn đề
này được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 2, Khóa VIII (BCHTW Đảng).

Tại điều 2, chương 1, luật giáo dục 2019 chỉ rõ giáo dục phải thực hiện mục tiêu là
đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện:
“có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có
phẩm chất năng lực và ý thức cơng dân; có lịng u nước, tinh thần dân
tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, nâng cao trí thức, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế” [120; 33].
Ở bậc học phổ thông, GDTM là một khâu quan trọng của GD Việt Nam, vấn

đề này đã được quán triệt trong đổi mới giáo dục ở nước ta. Thông qua GDTM, HS
hiểu được cái hay, cái đẹp của cuộc sống, đồng thời có cách ứng xử phù hợp với mọi
người. Có trí tuệ, có sức khỏe, nếu thiếu óc TM vẫn khơng được coi là con người
toàn diện trong xã hội hiện đại.
Âm nhạc là một phần thiết yếu của nền văn hóa, gắn bó và ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống xã hội. Giáo dục âm nhạc mang lại cho HS nhiều giá trị tốt đẹp trong cuộc
sống, tạo cơ hội cho HS được trải nghiệm và phát triển năng lực âm nhạc, năng lực TM
giúp các em hoàn thiện nhân cách và nuôi dưỡng tâm hồn cao đẹp, nhất là lứa tuổi của
HS cấp THCS đang thay đổi mạnh về tâm sinh lý. Những năm qua, với sự nỗ lực của
ban soạn thảo chương trình SGK đã cải tiến, chỉnh sửa, bổ sung và cập nhật một số nội
dung nhằm phát huy vai trò GDTM cho HS để phù hợp với xu hướng phát triển của xã
hội. Các cuộc hội thảo đưa ra những thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng của
môn học. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là các bài hát đưa vào chương trình, có đã đáp
ứng được u cầu GDTM hiện nay? Năng lực giảng dạy của đội ngũ GV âm nhạc đạt
chuẩn hay chưa? Việc áp dụng các PP giảng dạy trong chương trình chính khóa cũng như
hoạt động ngoại khóa có phát huy được chức năng GDTM của âm nhạc cho


2


HS? Đặc biệt là thông qua phân môn Học hát, sẽ tác động thế nào đến việc giáo dục
thẩm mỹ âm nhạc cho HS?
Những năm gần đây với sự tác động tồn cầu hóa, bên cạnh thành tựu về phát
triển kinh tế, xã hội, chúng ta phải đối mặt với khơng ít khó khăn, thách thức. Sự giao
thoa văn hóa diễn ra khá phức tạp, những trào lưu âm nhạc từ nước ngồi tràn vào
thiếu sự kiểm sốt, bên cạnh đó khả năng chọn lọc của giới trẻ hạn chế, hệ quả của nó
là ngồi việc cung cấp cho HS nhiều kiến thức bổ ích, thì cạnh đó cũng khơng thiếu
những vấn đề bất cập. Các em tiếp cận với nhiều ca khúc thiếu tính TM nên quan
điểm giá trị TM có nhiều thay đổi, định hướng TM có phần lệch lạc. Chính vì vậy,
việc dạy học âm nhạc nói chung và dạy học hát nói riêng ở trường THCS cần có
những thay đổi để phát huy được tiềm năng và ưu thế của nó đối với GDTM cho HS,
góp phần vào định hướng và phát triển nhân cách cho các em phù hợp với điều kiện
mới. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới rất chú trọng đến vấn đề này, bởi
GDTM âm nhạc thông qua dạy học hát sẽ tạo cơ hội cho HS được trải nghiệm và
phát triển năng lực TM cho các em.
Bình Dương là tỉnh nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam của đất
nước, thuộc tốp đầu thu hút sự đầu tư kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Bên
cạnh sự phát triển kinh tế, thì giáo dục được coi là ngành mũi nhọn của tỉnh. Đặc biệt,
trong giáo dục phổ thông luôn được lãnh đạo tỉnh quan tâm với tiêu chí nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực vừa có trình độ tri thức, vừa có năng lực thẩm
mỹ đáp ứng nhu cầu xã hội văn minh trong hiện tại và tương lai. Tuy nhiên nhiều
năm qua, dẫu đội ngũ giáo viên có nhiệt tình, nhưng do nhiều nguyên nhân, nên chất
lượng giáo dục nói chung và giáo dục thẩm mỹ âm nhạc cho HS nói riêng chưa được
như mong muốn.
Với tư cách là GV nhiều năm tham gia dạy môn âm nhạc ở cấp THCS, chúng
tôi thấy nếu thực hiện tốt việc GDTM âm nhạc cho HS thì sẽ đáp ứng được yêu cầu
đổi mới giáo dục phổ thông của Bộ GD&ĐT cũng như chuẩn bị tốt cho tỉnh Bình
Dương những lớp người có chất lượng về trí tuệ và văn hóa. Bên cạnh đó chúng tôi
nhận thấy rằng, việc định hướng, GDTM cho HS ở các trường THCS hiện nay (trên
phạm vi toàn quốc, mà tỉnh Bình Dương khơng phải trường hợp ngoại lệ) thơng qua



3

mơn âm nhạc nói chung cũng như phân mơn Học hát nói riêng, là một vấn đề khơng
kém phần quan trọng và mang tính cấp thiết.
Từ những lý do chủ quan và khách quan như nêu trên, chúng tôi chọn: Giáo
dục thẩm mỹ âm nhạc cho học sinh trung học cơ sở tại tỉnh Bình Dương để làm luận
án tiến sĩ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học âm nhạc.
2. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu xác định đúng thực trạng GDTM âm nhạc thông qua việc dạy học hát cho
HS cấp THCS, trên cơ sở đó sẽ đề xuất các biện pháp phù hợp và vận dụng hệ thống
các biện pháp này trong quá trình dạy học hát thì sẽ phát triển được tình cảm TM,
năng lực TM âm nhạc cho HS và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục âm nhạc
trong nhà trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc xác định thực trạng dạy học âm nhạc và GDTM âm nhạc qua phân
môn Học hát tại các trường THCS trên địa bàn tỉnh Bình Dương, luận án sẽ đề xuất
một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GDTM âm nhạc cho HS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu cơ sở lý luận về GDTM, phương pháp dạy học hát, làm rõ một số
khái niệm cơng cụ chính của đề tài: thẩm mỹ, giáo dục, giáo dục thẩm mỹ, GDTM
âm nhạc, dạy học, phương pháp dạy học hát cho HS cấp THCS.
Làm rõ tầm quan trọng của việc GDTM cho HS thơng qua các bài hát trong
chương trình GD âm nhạc cấp THCS.
3.2.2. Nghiên cứu thực tiễn của đề tài
Đánh giá chương trình và nghiên cứu thực trạng GDTM âm nhạc thông qua

phân môn Học hát cho HS cấp THCS ở tỉnh Bình Dương.
Nghiên cứu chủ trương đổi mới GD phổ thông của Đảng và các quan điểm chỉ
đạo việc giảng dạy âm nhạc ở các cấp học phổ thông của Bộ GD&ĐT trong giai đoạn
hiện nay.


4

3.2.3. Nghiên cứu đề xuất các biện pháp
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung phần học hát trong chương trình âm nhạc từ
lớp 6 đến lớp 9, chúng tôi sẽ đề xuất một số biện pháp và thiết kế kế hoạch dạy học
nhằm nâng cao chất lượng GDTM âm nhạc cho HS tại các trường THCS trong địa
bàn tỉnh Bình Dương.
Thiết kế công cụ hỗ trợ trong dạy học hát cho HS cấp THCS.
Thực nghiệm sư phạm ở một số trường THCS nhằm đánh giá tính khả thi, hiệu
quả của các biện pháp đã đề xuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là hoạt động GDTM cho HS cấp THCS và những vấn
đề liên quan đến phân môn Học hát.
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các biện pháp GDTM âm nhạc cho học
sinh cấp THCS tại tỉnh Bình Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Môn âm nhạc ở cấp THCS được cấu trúc gồm 3 phân môn là: Học hát; Nhạc
lý - Tập đọc nhạc và Âm nhạc thường thức. Tuy nhiên, trong luận án này, chúng tôi
chỉ nghiên cứu về phân mơn Học hát trong chương trình âm nhạc chính khóa nhằm
GDTM âm nhạc cho HS cấp THCS.
Thời gian nghiên cứu: đề tài thực hiện từ năm 2015 đến năm 2020.
Không gian nghiên cứu: để tài được thực hiện trong không gian các trường

THCS của tỉnh Bình Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
GDTM âm nhạc là nhằm góp phần tạo ra những lớp công dân mới vừa chuyên
vừa hồng cho tỉnh Bình Dương, do đó luận án sẽ dựa trên quan điểm GDTM của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa; quan điểm và tiêu chí giáo dục HS phổ
thông sau năm 2015 của Bộ GD&ĐT.


5

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án thực hiện các phương pháp nghiên cứu chính như sau:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập, xử lý, chọn lọc các tư liệu thứ
cấp liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ đó sẽ phân tích, tổng hợp, xây dựng các khái
niệm cơng cụ để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, quan sát, phỏng vấn để tìm hiểu
về nhận thức của GV và HS về GDTM âm nhạc. Thu thập ý kiến của GV, HS và phụ
huynh về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu thông qua bảng hỏi,
phỏng vấn trực tiếp; tiến hành dự giờ dạy học hát ở trường THCS, trao đổi với GV và
HS; khảo sát thực nghiệm trong quá trình dạy hát của GV, thu thập một số thơng tin
cụ thể để góp phần làm tăng độ tin cậy và sức thuyết phục của kết quả nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục: thông qua kết quả của
các hoạt động âm nhạc mà GV và HS thực hiện trước thực nghiệm để tìm hiểu, phân
tích, nhận xét thực trạng và sau thực nghiệm để đánh giá kết quả nghiên cứu.
Phương pháp chuyên gia: qua các cuộc hội thảo của ngành, của môn học về
nội dung, chương trình và PP giảng dạy, chúng tơi nắm bắt ý kiến của các chun gia,
từ đó lựa chọn những giải pháp tối ưu, để có hướng nghiên cứu thích hợp.
Phương pháp thực nghiệm: thơng qua việc thiết kế bài giảng, ghi âm - ghi

hình, chúng tơi thực hiện dự giờ và giảng dạy một số giờ học hát tại các trường
THCS nhằm kiểm định giả thuyết khoa học và tính khả thi của đề tài.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: hướng dẫn GV và HS thực hiện
các biện pháp GDTM thông qua dạy học hát, từ đó tổng hợp và rút ra những đóng
góp của luận án.
Phương pháp thống kê toán học: sử dụng PP này để xử lí, thống kê các kết quả
thực nghiệm sư phạm, từ đó, kiểm định giả thuyết khoa học đã nêu để khẳng định
tính khả thi của đề tài.
6. Những đóng góp của luận án

6.1. Phương diện lý luận
Luận án đóng góp được một tổng quan có giá trị về tình hình nghiên cứu của
các cơng trình đi trước, xây dựng cơ sở khoa học cho sự kế thừa, khẳng định những


6

khoảng trống mà luận án cần nghiên cứu, hệ thống hóa được cơ sở lý luận và làm
sáng tỏ một số vấn đề liên quan tới GDTM âm nhạc cho HS cấp THCS. Cụ thể hóa
được nội dung của GDTM âm nhạc thông qua dạy học hát, trên cơ sở đó sẽ góp phần
nhận thức tốt hơn về vai trị của môn âm nhạc trong GD phổ thông.
6.2. Phương diện thực tiễn
Khảo sát thực tiễn đánh giá đúng thực trạng GDTM âm nhạc thông qua dạy
học hát cho HS cấp THCS ở Bình Dương.
Đề xuất các biện pháp giáo dục được kiểm chứng thơng qua thực nghiệm sư
phạm, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo định hướng mới.
Thiết kế công cụ hỗ trợ trong dạy học hát để nâng cao chất lượng GDTM âm
nhạc cho HS.
Thiết kế bộ công cụ đánh giá năng lực cảm thụ âm nhạc gồm: tập học âm
nhạc, phiếu hỏi, hình thức kiểm tra.

Luận án đưa ra cách nhìn tổng thể về cách thức GDTM âm nhạc thông qua
phân môn Học hát. Những kết quả nghiên cứu này có thể sử dụng làm tư liệu giảng
dạy cho GV âm nhạc các trường THCS tại tỉnh Bình Dương.
Luận án có thể là tài liệu tham khảo cho GV âm nhạc ở các trường THCS
thuộc địa bàn khác trong cả nước, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn âm
nhạc phổ thông và cho các nghiên cứu khoa học cùng hướng.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu (7 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo và Phụ
lục (69 trang), luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận
Chương 3: Thực trạng giáo dục thẩm mỹ âm nhạc cho học sinh và giá trị của
các bài hát trong chương trình
Chương 4: Biện pháp giáo dục thẩm mỹ âm nhạc cho học sinh thông qua dạy
học hát


7

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi đề cập tới một số cơng
trình nghiên cứu liên quan đến GDTM. Các cơng trình được chia thành hai mảng:
nghiên cứu về mỹ học và GDTM âm nhạc; nghiên cứu về thực tiễn dạy học âm nhạc
và PPDH âm nhạc. Tuy nhiên cách chia này chỉ mang tính tương đối, vì trong
GDTM đơi khi có những vấn đề về GDTM âm nhạc và ngược lại.
1.1. Nghiên cứu về mỹ học, giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ âm nhạc
1.1.1. Về mỹ học
Tư tưởng về mỹ học được manh nha và gắn với quá trình hình thành của triết
học từ rất sớm, nhưng mãi đến giữa thế kỷ XVIII (năm 1750) nó mới được duy danh

bởi triết học người Đức A. Baumgarten (1714 - 1762). Mỹ học là khoa học về cái đẹp
với đầy đủ những giá trị đích thực [42], [45], [57], [107]. Các học thuyết mỹ học
trong quá khứ thường tập trung vào hai lĩnh vực chính: cái đẹp và nghệ thuật. Những
đại diện tiêu biểu cho các giai đoạn phát triển của mỹ học nhân loại như: Platon (427
-

347 TCN), Aristotle (384 - 322 TCN), Leonardo da Vinci (1452 - 1519), Denis
Diderot (1713 - 1784), Lessing (1729 - 1781), Immanuel Kant (1724 - 1804),
G.W.F.Hegel (1770 - 1831), Bielinxki (1811 - 1848), Tsecnưsepxki (1828 - 1889)…
Họ cùng chung quan điểm là toàn bộ đời sống TM và nghệ thuật là đối tượng nghiên
cứu của mỹ học. Các nhà mỹ học đều khẳng định cái đẹp trước hết là những đặc tính
TM vốn có của các hiện tượng, sự vật trong thiên nhiên và trong xã hội loài người.
Cái đẹp chứa đựng trong bản thân nó cái chân, cái thiện, cái tiến bộ, cái cao cả. Cái
đẹp đã làm cho hoạt động hàng ngày của con người được hoàn thiện hơn, mọi công
việc được cải thiện giúp cho cuộc sống có giá trị, ý nghĩa. Trước diễn biến của cuộc
sống, con người nhận thức được quy luật phổ biến của cái đẹp, biết tiếp nhận những
cái đẹp và loại trừ cái xấu. Cái đẹp đi vào sự thưởng ngoạn, đánh giá và sáng tạo, từ
đó tạo ra những cảm xúc từ tri giác, biểu tượng thông qua thị giác và thính giác như
khi nghe âm thanh huyền diệu thì tình cảm TM của con người trào dâng sôi nổi, thiết
tha và thanh lọc được cái đẹp trong cuộc sống.


8

Có lẽ khơng một lĩnh vực tinh thần nào mà con người lại đưa ra nhiều quan
điểm, không sợ vi phạm vào các nguyên lý, nguyên tắc như khi bàn đến TM.
Immanuel Kant - nhà triết học triết học cổ điển Đức - đã nghiên cứu khá công phu về
vấn đề này. Các quan điểm của ông về TM được thể hiện qua cơng trình Phê phán
năng lực phán đốn [55]. Cơng trình gồm hai phần: phần một (Phê phán năng lực
phán đoán thẩm mỹ), phần hai (Phê phán năng lực phán đốn mục đích luận).

Phần một tác giả trình bày toàn bộ tư tưởng mỹ học bằng việc tiến hành phân
tích khá kỹ về các dạng phán đốn để đưa ra năng lực phán đốn TM, ơng gọi thị
hiếu TM là phán đoán TM. Khái niệm cái đẹp phổ quát chủ quan (subjective
universality) được Immanuel Kant bàn đến và có những ứng dụng vào thực tiễn TM.
Ơng cho rằng: “một khi phán đốn về giá trị chân chính của cái đẹp, với bất cứ quan
điểm nào phải được phát khởi bằng sự phán đốn vơ tư, bất vụ lợi. Phán đoán về giá
trị của cái đẹp là phán đoán theo khái niệm không khái niệm” [55; 48]. Theo ông, cái
đẹp chính là cái lý tưởng được số đơng xã hội chấp nhận, u mến, hài lịng. Đó là
giá trị của nghệ thuật, nó tạo ra nguồn mỹ cảm chân chính, tạo sức mạnh tinh thần
nhằm nâng cao giá trị nghệ thuật cho xã hội, sự thăng hoa trong cuộc sống, giúp con
người cảm nhận được giá trị thẩm mỹ, hành vi văn hố tốt đẹp. Từ đó hình thành thái
độ ứng xử phù hợp với chuẩn mực của cộng đồng, xã hội.
Mỹ học của G.W.F. Hegel [39] có cấu trúc là một hệ thống triết học gồm 2 tập.
Ông coi cái đẹp là một phạm trù cơ bản và trung tâm để chỉ phẩm chất người. Ông
cho rằng, cái đẹp trong nghệ thuật là sự tổng hòa của cái đẹp trong tự nhiên và xã hội,
vì nó là sản phẩm của tài năng và trí tuệ, là sự chắt lọc cái đẹp trong tự nhiên và xã
hội. G.W.F. Hegel còn bàn tới đối tượng của mỹ học là nghiên cứu cái mỹ của nghệ
thuật. Ông lý giải bản chất của cái đẹp như là biểu hiện cảm tình của ý niệm tuyệt đối
ở trong nghệ thuật [39; 224]

Trong Mỹ học đại cương của Phạm Quang Trung, ở chương 1 tác giả đã phân
tích về cái đẹp và nhấn mạnh quan điểm của Tsecnưsepxki (nhà cách mạng dân chủ
Nga): "cái đẹp là cuộc sống". Một sinh thể đẹp khi qua nó ta nhìn thấy cuộc sống
theo quan điểm của ta, một sự vật đẹp khi nó thể hiện cuộc sống hoặc làm cho ta nghĩ


9

đến cuộc sống [107; 6]. Như vậy, cái đẹp mang đến cho con người những cảm xúc
vui sướng và những suy nghĩ tích cực.

Các nghiên cứu của tác giả Thế Hùng [42], Đỗ Huy [45] đã phân tích chi tiết
về mỹ học Mác - Lê nin, đó là sự hiểu biết các giá trị và giá trị TM. Mỹ học Mác - Lê
nin cung cấp cho người học thước đo giá trị TM với cách nhìn cuộc sống khoan dung
và nhân đạo, chuẩn mực và sống đẹp. Các tác giả cho rằng: để kế thừa những thành
tựu của mỹ học duy vật, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó, mỹ học Mác Lê nin đã lý giải về bản chất của cái đẹp trên một khía cạnh mới. Mỹ học Mác - Lê
nin quan niệm:
Cái đẹp là phạm trù trung tâm và cơ bản của mỹ học, là cái để các phạm
trù khác soi rọi vào, nương tựa vào từ đó khái qt những giá trị xã hội
tích cực, khách quan, rộng rãi của những sự vật, hiện tượng trong hiện
thực, được biểu hiện qua hình thức cụ thể - cảm tính, cân xứng, hài hịa,
gây khối cảm thẩm mỹ tích cực đối với chủ thể xã hội [45; 38].
1.1.2. Về giáo dục thẩm mỹ
1.1.2.1. Lý luận về giáo dục thẩm mỹ
Những năm 80 thế kỷ trước, có các cuốn sách tiêu biểu viết về GDTM:
Giáo dục thẩm mỹ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Đỗ Huy [43]. Sách
gồm có 6 chương trình bày những vấn đề về phương pháp luận trong việc GDTM và xây
dựng con người mới; Vai trò của mỹ học Mác - Lê nin trong việc định hướng sự nghiệp
GDTM; bản chất của GDTM và sự nghiệp xây dựng con người mới xoay quanh các chủ
đề GDTM và định hướng các nhu cầu thẩm mỹ; GDTM và việc xây dựng các thị hiếu
TM lành mạnh, GDTM và sự hình thành các khả năng sáng tạo. Ở chương đầu, tác giả
phân tích và khẳng định: Mỹ học Mác - Lê nin đã làm sáng tỏ về giá trị TM trong cuộc
sống, cái đẹp là một giá trị, nguồn gốc của cái đẹp là cuộc sống. “Cái đẹp thể hiện ở
những nét đặc trưng trong tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ. Con người được giáo
dục thẩm mỹ sẽ có được sở thích lành mạnh, và được giáo dục về thị hiếu thẩm mỹ, từ
đó sẽ hình thành nên một lý tưởng đúng đắn” [43; 28]. Trong cơng trình này, chúng tôi
đặc biệt quan tâm đến chương 5, tác giả nêu rõ vai trò của GDTM và lý tưởng TM theo
quan điểm của mỹ học Mác - Lê nin và nhấn


10


mạnh: GDTM là một yếu tố rất quan trọng; Chương 6 tác giả cho rằng, trong nhà
trường hiện nay thiếu các phương tiện GDTM, thiếu chính quy hóa, chủ yếu là giáo
dục tri thức. Nhiệm vụ GDTM chưa được quán triệt, dẫn đến lệch lạc trong giảng
dạy, làm lu mờ vai trị của GDTM. Qua đó, tác giả đề xuất 4 yêu cầu cơ bản để
GDTM đó là: tiến hành GDTM theo lứa tuổi với các biện pháp, tác động khác nhau,
mục tiêu khác nhau; đảm bảo tính liên tục theo quy luật vận động và phát triển để
nâng cao dần năng lực TM cho mỗi cá nhân; tính liên tục trong GDTM phải đi đơi
với tính logic từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện, đảm bảo cho các điều kiện GD được phát triển liên tục; phải đảm bảo được
mục tiêu GDTM mà khơng bị gị ép, rập khn làm cho cái chân, cái thiện, cái mỹ
được phát triển tốt đẹp [43;168].
Tiếp cận với cơng trình này, chúng tơi nhận thấy, tác giả đề cao việc GDTM bằng
mỹ học Mác - Lê nin và phân tích khá kỹ về vai trị của GDTM cũng như các ngun tắc
của GDTM nói chung. Đây là một cơng trình đề cập khá kỹ đến vấn đề GDTM. Tuy
nhiên, tác giả chưa bàn đến hình thức GDTM cho từng đối tượng cụ thể.
Cùng vấn đề về GDTM trên cơ sở mỹ học Mác - Lê nin, cịn có cuốn giáo trình
Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ dành cho đào tạo giáo viên bậc trung học cơ sở do Vũ
Minh Tâm biên soạn [95]. Sách gồm có 12 chương. Từ chương 1 đến chương 8 là tổng
quan về mỹ học Mác - Lê nin, tác giả khái quát về đối tượng, đặc điểm của mỹ học Mác
- Lê nin, sự phát triển của mỹ học. Tác giả làm rõ thêm một số khái niệm cơ bản: cái
thẩm mỹ, ý thức TM, cái đẹp, cái cao cả, cái bi và cái hài. Nội dung cơ bản của các phần
này có nét tương đồng với các chương đầu cuốn Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của tác giả Đỗ Huy, do đó chúng tơi dành sự quan tâm vào các chương
còn lại. Chương 9, chương 10, nội dung là để hướng con người đến cái đẹp toàn diện về
tư tưởng, tình cảm thì cần phải biết khơi gợi, kích thích, biết cảm hóa con người về mặt
TM thơng qua GDTM bằng nghệ thuật. Chương 11, tác giả làm rõ nội dung GDTM là
một quá trình làm hình thành và phát triển nhân cách xã hội chủ nghĩa về mặt TM. Với
quan điểm trường học là nơi “trồng người” tác giả cho rằng: “ở nhà trường THCS, hoạt
động GDTM được xem là một bộ phận cơ bản để hình thành con người mới với tính

cách chủ thể xã hội tích cực sáng tạo của xã hội


11

công nghiệp, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [95; 78]. Việc GDTM cho
HS, nhất là ở lứa tuổi thiếu niên khơng thể GD theo lối cảm tính, mà phải là một q
trình mang tính khoa học. Chương 12 đề cập tới GD nhận thức TM, GD năng lực
hoạt động TM và năng lực TM nghệ thuật. Đặc biệt về phương diện GD nhận thức,
tác giả chú trọng đến GD tri thức TM và tình cảm TM, bởi chúng có mối quan hệ
biện chứng với nhau, từ đó hướng vào GD cảm xúc, tri giác, thị hiếu, lý tưởng và
hình tượng TM, bên cạnh đó là GD về cái đẹp [95; 87].
Như vậy, GDTM xét về thực chất là chủ yếu GD về cái đẹp. Cái đẹp sẽ giúp
cho HS khơng chỉ có khả năng “thanh lọc tâm hồn”, mà còn giúp các em tạo nên “cặp
mắt tinh đời” để nhận biết được đời sống TM của xã hội. Khi đời sống xã hội có
những bước chuyển dịch, biến động về kinh tế - xã hội, văn hóa thì việc xác định cái
đẹp càng trở nên đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Tác giả Vũ Minh Tâm cho rằng:
“Trẻ em chính là chủ thể đang được hình thành nhân cách về TM, nên việc GD để trẻ
em tự thừa nhận mơ hình con người “đẹp người - đẹp nết”, cái đẹp nội sinh, tự ý thức
là hoàn tồn cần thiết và cấp thiết” [95; 89]. Thơng qua việc GD trong nhà trường,
HS được hướng dẫn, được học để tự ý thức, tự điều chỉnh và tự phát huy năng lực
hoạt động TM trong lĩnh vực học tập, sinh hoạt, giúp các em chuẩn bị hành trang để
sau này trở thành chủ nhân của xã hội.
Đề cập đến vai trò GDTM, Vĩnh Quang Lê trong cuốn Về giáo dục thẩm mỹ ở
nước ta hiện nay [63] đã trình bày nhiều vấn đề trong 3 chương. Tác giả cho rằng:
GDTM ở nước ta từ lâu đã tiến hành trong hệ thống GD, tuy nhiên ở từng cấp học thì
các biện pháp GD chưa thống nhất. Ông đưa ra các giải pháp GDTM để hình thành
nhân cách cho HS, đó là xây dựng tình cảm tạo năng lực cảm xúc, tạo nhân cách hài
hòa, giúp cho mỗi HS định hướng nhu cầu TM, trên cơ sở đó, tạo nên thị hiếu TM
lành mạnh [63; 80-95]. Trong cuốn sách này, tác giả tập trung vào phân tích thực

trạng của các hoạt động về văn học và đưa ra phương hướng giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng GDTM ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nội dung trong sách sẽ
giúp chúng tôi tiếp cận TM trong ca dao tục ngữ để tích hợp với dân ca vùng miền,
cũng như phân tích hình tượng về cái đẹp của thiên nhiên, con người và cuộc sống
trong giảng dạy âm nhạc để giúp HS phát triển nhân cách hài hịa và tồn diện.


12

Như vậy, vấn đề GDTM luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Qua việc khái lược nội dung trong những cơng trình nghiên cứu nêu trên, chúng tơi
rút ra 4 vấn đề như sau:
Quá trình GD cần phải thể hiện được sự phong phú, nhiều vẻ của đời sống TM
trong cuộc sống. Điều này phải thể hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội,
nhất là trong các hoạt động kinh tế - xã hội và hoạt động văn hóa trong phạm vi HS
thường tiếp xúc.
Mỗi một vấn đề GD cho HS phải khẳng định cái đẹp, cái mới, cái cao cả có
tính truyền thống, tính hiện đại đồng hành cùng sự phát triển của xã hội và mang đậm
bản sắc văn hóa dân tộc trong đời sống hiện nay.
GD năng lực TM nghệ thuật là một q trình khơng đơn giản. Do đó, GDTM
nghệ thuật cần đưa ra một hệ thống lý luận nhận thức TM có tính thế giới quan, có
AP luận về TM sẽ giúp HS tiếp nhận được sự giáo dục dễ dàng hơn. Từ cơ sở nhận thức

chung, HS tiếp nhận nghệ thuật rồi có thể vận dụng phần nào để nhận biết được
cái đẹp trong các tác phẩm nghệ thuật.
Cần xác định mối quan hệ giữa đời sống TM xã hội và hoạt động TM trong
nhà trường, để có biện pháp GDTM và định hướng nhận thức TM cho HS, nhằm tạo
nền tảng để nâng cao khả năng tư duy cho các em trong thưởng thức, khám phá và
sáng tạo nghệ thuật.
1.1.2.2. Giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật

Từ mỹ học đến các loại hình nghệ thuật là cơng trình của Denis Diderot [29], tập
hợp ba cơng trình lớn của ơng viết về mỹ học và phê bình nghệ thuật, trong đó cơng trình
Luận về cái đẹp [29; 91]. Tác giả trình bày các quan niệm trước đó về cái đẹp, từ đó đưa
ra các luận điểm riêng. Theo Denis Diderot thì “đẹp là một từ chúng ta dùng để hình
dung vơ số sự vật, mặc dù sự vật đó có gì khác nhau đều lấy cái đẹp để hình dung, nếu
khơng ta sẽ dùng sai từ đẹp” [29; 145]. Ơng viết: “Vẻ đẹp luôn ở các mối tương quan”,
và giải thích thêm: “tương quan nói chung là một thao tác của trí tuệ xem xét một thực
thể, hoặc một tính chất coi như giả định có một thực thể khác hay một tính chất khác bên
thực thể, tính chất ấy” [29; 145]. Với cách giải thích này, chúng tơi hiểu tương quan ở
đây là sự cảm nhận từ của mỗi người chỉ cần người ấy


13

nhận ra. Chẳng hạn khi nghe một bản nhạc cảm thấy các âm thanh của bản nhạc ấy
có tương quan với nhau hoặc có thể tương quan với đối tượng khác, lúc đó cái đẹp sẽ
nảy sinh. Tất nhiên, theo Denis Diderot thì có thể đó là cảm nhận bằng tình cảm,
nhưng khi các tương quan phức tạp và đối tượng mới mẻ thì các ngun tắc dường
như khó giải quyết. Lúc đó, niềm hứng thú phải chờ đợi tư duy, trí tuệ để nhận định
về cái đẹp, khơi gợi những ý niệm tương quan thích hợp.
Sau khi nghiên cứu về cái đẹp, ông đã đưa ra những ý kiến của mọi người để
chứng minh tính xác thực cho những nguyên tắc về sự tương quan được cảm nhận với
mười hai căn nguyên khiến các đánh giá về TM của một đối tượng, một sự vật khác
nhau. Denis Diderot cho rằng: “Nếu thiếu tương quan, tác phẩm sẽ chẳng còn giá trị về
TM,... Nhưng nếu chất chứa quá nhiều tương quan sẽ tạo cảm giác rườm rà, mệt mỏi,
khó tiếp nhận. Đó chính là căn ngun đầu tiên để người ta có thể tranh cãi đánh giá
khác nhau vể TM trong một tác phẩm nghệ thuật” [29; 153]. Sự khác nhau khi cảm nhận
về TM của một đối tượng tùy thuộc vào nhận thức mối tương quan, hay chỉ nắm được
một phần, đây là căn nguyên thứ hai khiến có những đánh giá khác nhau. Căn nguyên
thứ ba là do cách nhìn nhận về sự mơ phỏng trong nghệ thuật dẫn đến thị hiếu khác nhau.

Căn nguyên thứ tư là: sự đố kỵ để cho các biến cố ngăn cản và thủ tiêu những tương
quan tự nhiên, thiết lập ra các tương quan bất thường, ngẫu nhiên. Căn nguyên thứ năm
là: sự khác nhau về tài năng, về hiểu biết để nhận định và đánh giá cái đẹp. Căn nguyên
thứ sáu là: tâm hồn của mỗi người có năng lực liên kết lại với nhau các ý niệm, tùy thích
mở rộng hay thu hẹp, từ đó tập hợp lại trong cảm giác mà tâm hồn thu nhận được. Căn
nguyên thứ bảy là: thực thể tinh thần đều được thể hiện bằng các ký hiệu và hầu như
chẳng có ký hiệu nào trong số ấy được ấn định khá chính xác để người này, người kia
khỏi hiểu nghĩa rộng hơn hoặc hẹp hơn [29; 155-160]. Căn nguyên thứ tám là: với cảm
giác của con người, dù thế nào thì giác quan và năng lực của mỗi người cũng có thể nhận
biết được cái đẹp. Tuy nhiên, nhận thức về cái đẹp còn phụ thuộc vào thời điểm, bởi các
giác quan của con người ln thay đổi. Có cái hơm nay khơng thấy đẹp, nhưng ngày mai
lại thấy đẹp dẫn đến những đánh giá khác nhau, đây là căn nguyên thứ chín khiến các
đánh giá khác nhau của những người cùng lứa tuổi và của cùng một người ở những độ
tuổi khác nhau.


14

Căn nguyên thứ mười là: do những ý niệm ngẫu nhiên tạo nên, chúng ta muốn gạt ra
khỏi ý niệm chính cũng khơng được [29; 162]. Căn ngun thứ mười một: là phụ
thuộc vào yếu tố sở trường và thị hiếu TM của mỗi cá nhân [29; 163]. Căn nguyên
thứ mười hai là: người thưởng thức ln có những đánh giá khác nhau, bởi thị hiếu
phụ thuộc vào một sự liên tưởng của mỗi cá nhân, tuy nhiên nó thiếu tính ổn định.
Vậy lấy căn cứ nào để mọi người đồng thuận về cái đẹp trong nghệ thuật? Ví dụ như
trong âm nhạc, khi người nào đó thần tượng một ca sĩ thì tất cả tác phẩm ca sĩ trình
bày đối với họ đều đạt đỉnh cao về giá trị TM, mà khơng cần biết chất giọng, phong
cách đó có phù hợp với tác phẩm hay không? Thực trạng về lệch lạc TM âm nhạc của
giới trẻ hiện nay được biểu hiện bằng sự cuồng fan hâm mộ. Khi đã thích thần tượng,
thì bất chấp giá trị TM mà ca sĩ đó mang lại là tốt hay xấu.
Denis Diderot cho rằng nghệ thuật có ảnh hưởng về mặt đạo đức: “phải bắt

buộc chúng ta yêu đức hạnh và căm thù cái xấu” [29; 165]. Điều đó phần nào cho
thấy việc GDTM thơng qua mơn âm nhạc càng trở nên có ý nghĩa quan trọng trong
nhà trường phổ thông.
Mỹ học của G.W.F. Hegel [39] cho rằng: Cái đẹp trong nghệ thuật giúp con
người đi sâu mãi vào bản thân mình, nó lưu truyền một cuộc sống lâu dài bên trong
tâm hồn để đem lại cho con người đạt được hứng thú tinh thần cao cả và trác tuyệt,
đạt tới chân lý tuyệt đối [39; 255]. Ơng giải thích, nghệ thuật giúp ta vượt thốt khỏi
những căng thẳng trong đời sống, nó tạo ra “những giây phút tinh thần nhàn rỗi, thư
thái…, cái đẹp trong nghệ thuật có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh chống lại cái
xấu, cái tầm thường, nhàm chán” [39; 59]. Với G.W.F. Hegel, cái đẹp nghệ thuật ưu
việt hơn nhiều so với cái đẹp tự nhiên. Theo ông, đặc trưng chủ yếu của cái đẹp nghệ
thuật là sự thống nhất giữa khái niệm, hiện thực - tinh thần và ngoại hiện. Có được sự
thống nhất như thế, cái đẹp nghệ thuật sẽ đạt tới tính tự do. Ông hết mực đề cao giá
trị nhận thức của nghệ thuật: “Nghệ thuật thật sự trở thành vị thầy cao nhất của các
dân tộc” [39; 259]. Từ quan điểm này chúng tôi thấy được sức mạnh tiềm ẩn của
nghệ thuật trong hình tượng cơ đặc xúc cảm, lý trí qua sáng tạo, điều đó thể hiện
những ưu điểm của cái đẹp trong nghệ thuật, giúp con người luôn hướng tới cái thiện
và tự nhân đôi nhận thức tốt đẹp trong tâm hồn.


15

Nghệ thuật nào cũng hướng đến tâm hồn con người, nhưng âm nhạc là ngôn
ngữ trực tiếp của tâm hồn, nó len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, chạm vào trái
tim mỗi con người. G.W.F. Hegel cho rằng: “Âm nhạc là nghệ thuật dùng để biểu
hiện những âm hưởng của nội cảm chủ thể bằng âm thanh” [39; 439] và khẳng định
nhiệm vụ chính của âm nhạc khơng phải là tái hiện các sự vật, mà là làm rung động
cái Tôi sâu xa nhất. Âm nhạc phủ định không gian, biến không gian thành cái trừu
tượng, là nghệ thuật thời gian biểu hiện những trạng thái tình cảm của con người.
Theo ông trong âm nhạc, giai điệu là cơ sở tạo thành sự thống nhất của nhịp, tiết tấu,

hòa âm của âm thanh. Giai điệu là phương diện nên thơ nhất và tuyệt vời nhất: “giai
điệu, tiếng vang dội thuần túy nội cảm là linh hồn của âm nhạc” [39; 401]. Ơng
khẳng định âm nhạc có vai trị quan trọng đối với đời sống tinh thần của con người.
Từ một số vấn đề của mỹ học mà G.W.F. Hegel đưa ra, chúng tôi thấy: hiện
nay trong công cuộc đổi mới đất nước, việc GDTM âm nhạc ở nhà trường càng trở
nên cấp thiết hơn, đó là nhiệm vụ của mỗi GV cũng như các cấp lãnh đạo. Do đó, cần
có sự chỉ đạo nhất qn mang tính hệ thống và đồng bộ của các cấp quản lý, tránh
tình trạng chắp vá nửa vời, thực hiện qua loa, nơi thì xem mơn âm nhạc rất cần thiết,
nơi thì coi là mơn giải trí... dẫn đến khơng đạt được hiệu quả và mục tiêu mà Bộ
GD&ĐT đề ra. Bởi, đây là yếu tố cơ bản để GD nhân cách cho HS để trở thành con
người có giá trị sống trong tương lai.
Ý nghĩa cao quý của nghệ thuật đối với con người, một phần là nhờ vào GDTM. Bàn về

vấn đề này, Đỗ Văn Khang viêt trong cuốn Lịch sử mỹ học [56]:
“Nói đến nghệ thuật là nói đến quy luật của tình cảm bởi nghệ thuật là sản phẩm của bàn
tay, khối óc và trái tim của con người” [56; 256]. Ông cho rằng: “Cái đẹp trong nghệ
thuật là sự tổng hòa của cái đẹp trong tự nhiên và trong xã hội, nó là cái đẹp của mọi cái
đẹp” [56; 255]. Qua những dẫn chứng trên, chúng tôi hiểu được ảnh hưởng của nghệ
thuật đến con người thông qua tác động từ tình cảm. Chỉ có con người mới thưởng thức
được nghệ thuật, nghệ thuật làm cho mỗi cá nhân đạt được sự hứng thú tinh thần cao cả
và trác tuyệt, đạt tới chân lý tuyệt đối. Mục tiêu của GDTM là thông qua nghệ thuật sẽ
tác động mạnh mẽ vào mỹ cảm, từ đó tạo nên những rung động của hoạt động tinh thần,
hình thành các tình cảm, thị hiếu, lý tưởng và TM của nhân cách.


16

Đồng quan điểm về tầm quan trọng của GDTM, tác giả Trần Túy đã phân tích chi
tiết việc GDTM trong cuốn Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ [114]. Với
mối liên hệ chặt chẽ giữa Chân - Thiện - Mỹ thì con người sẽ được hồn thiện về nhân

cách. Ông cho rằng: trong cuộc sống hiện nay, GDTM phải nói tới mối quan hệ của cái
đẹp với chính trị và đạo đức, vì nó có tác động rất tích cực để con người được phát triển
cả nhận thức đạo đức và tình cảm TM [114; 27]. “GDTM phải tiến hành theo lứa tuổi với
các biện pháp khác nhau, mục tiêu khác nhau và có tính liên tục” [114; 27]. Ngồi việc
GD thơng qua nghệ thuật cịn có các hình thức khác như: GDTM bằng cách nêu gương.
Phân tích về hình thức này, theo ơng: “GDTM bằng cách nêu gương có hiệu quả thẩm
mỹ tích cực” [114; 33]. GDTM bằng gương tốt, việc tốt mang tính truyền cảm rất mạnh.
Về phương diện giá trị TM gương người tốt, việc tốt đã tự mang trong nó cái tồn vẹn,
cái dẫn đến hồn thiện và hài hịa, gần gũi dễ được thừa nhận và noi theo. Tác giả đã làm
nổi bật vai trò của GDTM bằng nghệ thuật với việc phát triển nhân cách, hình thành cảm
xúc, thị hiếu, lý tưởng TM lành mạnh. Bên cạnh đó, ơng nêu ra một số thực trạng và đề
xuất giải pháp nâng cao vai trị của nghệ thuật trong GDTM. Ơng khẳng định: “Khi tiếp
xúc với nghệ thuật, con người được biến đổi tâm lý vô cùng sâu sắc” [114; 77]. Cuốn
sách cung cấp lượng kiến thức vô cùng cần thiết, tuy nhiên chúng tôi lại dành sự quan
tâm nhiều tới vấn đề GDTM bằng nghệ thuật. Nghệ thuật giúp con người tăng cường bồi
dưỡng năng lực cảm xúc, ngăn chặn bệnh vô cảm về mặt TM. Thơng qua hình tượng
nghệ thuật thì tình cảm về đạo đức, sự cao thượng được nâng lên. “Nghệ thuật với tính
cách là cơng cụ GD, đã kích thích năng lực thẩm mỹ, hình thành các thị hiếu và lý tưởng
thẩm mỹ mới, các tình cảm đạo đức ở cá nhân mang một đặc tính khách quan” [114;
111]. Đánh giá thực trạng về việc GD nghệ thuật cho thế hệ trẻ ngày nay, ông đưa ra
6

giải pháp, trong đó ơng đặc biệt nhấn mạnh về vai trị quan trọng của GDTM trong
giáo dục quốc gia.
Cuốn Triết học thẩm mỹ và nhân cách của Nguyễn Thế Kiệt [58] gồm 4
chương. Chương mở đầu là tổng quan về mỹ học, tác giả lấy đó làm cơ sở lý luận để
thực hiện nghiên cứu tiếp theo. Các chương còn lại, tác giả đã phân tích một cách cơ
bản có hệ thống, luận giải những vấn đề về quy luật của sự hình thành và phát triển



17

nhân cách, đi sâu nghiên cứu nhiều góc độ thơng qua các hình thức GDTM, trong đó
có GDTM bằng nghệ thuật. Cái cốt yếu của vấn đề là, để chứng minh cho vai trị của
GDTM trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người theo quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lê nin.
Nguyễn Thế Kiệt đề cao việc GDTM bằng nghệ thuật: “Do chức năng của
nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng hình tượng cụ thể và sinh động, tồn vẹn như
chính cuộc sống, nên hình tượng nghệ thuật vừa có chức năng nhận thức, vừa có
chức năng đạo đức và chức năng thẩm mỹ” [58; 149]. Chức năng GD của nghệ thuật
là hướng con người tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Nghệ thuật là sản phẩm hoạt động
sáng tạo của con người, giúp cho con người hiểu biết thế giới xung quanh và hiểu
biết lẫn nhau. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ là cầu nối, làm cho các dân
tộc xích lại gần nhau hơn và hơn thế, nó có thể cảm hóa, chinh phục con người thơng
qua q trình hoạt động hay thưởng thức tác phẩm. Khi người thưởng thức cảm nhận
được trọn vẹn nội dung tác phẩm nghệ thuật, thì tác dụng mang đến có thể coi như
một thử nghiệm của sáng tạo, “vì nó ln tạo ra tình huống bất ngờ, đem lại niềm
sảng khoái và những phát hiện mới mẻ, khâm phục cái đẹp, kích thích khát vọng
vươn tới cái đẹp” [58; 108].
Trong lĩnh vực nghệ thuật, cái đẹp là linh hồn sống của nghệ thuật. Cái đẹp
trong nghệ thuật là hình thức cao nhất của cái đẹp, trong đó tác phẩm nghệ thuật,
hình tượng nghệ thuật đạt tới sự hài hịa của TM. Tác phẩm nghệ thuật đẹp bao gồm
ba yếu tố: phản ánh chân thực cuộc sống của con người trong tính tồn vẹn, đa diện
và sinh động; có sự hài hịa giữa nội dung và hình thức; sự chân thực của ý thức xã
hội được nghệ sĩ gửi gắm vào tác phẩm. Công chúng đến với nghệ thuật để nhận
được sự mách bảo con đường chiếm lĩnh cái đẹp. GDTM giúp nhận thức được giá trị
TM của cuộc sống và nghệ thuật ở mức độ sâu sắc, toàn diện, có khả năng đánh giá
TM biểu lộ thơng qua các nhận xét, cảm xúc, thái độ của chủ thể TM trước khách thể
TM. Những người có óc TM phát triển bao giờ cũng là những người có trình độ hiểu
biết sâu rộng, có kinh nghiệm phong phú và đời sống đạo đức lành mạnh [8; 2].

GDTM bằng nghệ thuật đã làm biến đổi hoàn toàn giá trị của sự vật, khiến cho
cái bình thường quen thuộc khi đi vào nghệ thuật cũng trở nên lạ, khác thường, cái


×