Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐÔNG TƯ VẤN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.55 KB, 25 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐÔNG TƯ VẤN
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mô hình tổ chức của công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm
Để thị trường chứng khoán có thể hoạt động minh bạch, hiệu quả và an
toàn, không thể thiếu được các tổ chức tài chính trung gian, trong đó có các
công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán chính là một định chế tài chính
trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Nó được thành
lập, tổ chức, hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn. Uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép cho công ty
chứng khoán hoạt động trên lĩnh vực chứng khoán có tư cách pháp nhân, có vốn
riêng và thực hiện chế độ hạch toán độc lập. Như vậy công ty chứng khoán thực
chất là một doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán vớí các nghiệp vụ chính là tự
doanh, môi giới, bảo lãnh phát hành, và tư vấn. Trên thực tế, một công ty chứng
khoán không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ trên, tùy theo loại
hình nghiệp vụ mà công ty chứng khoán được cấp phép có đáp ứng được các
tiêu chuẩn quy định của loại hình nghiệp vụ đó không. Tuy nhiên nghiệp vụ tư
vấn vẫn được coi là nghiệp vụ cơ bản quan trọng mà hầu hết công ty chứng
khoán nào cũng tham gia.
1.1.1.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán
Là một chủ thể kinh doanh, công ty chứng khoán cũng có những điểm
tương đồng với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, sản phẩm và dịch vụ mà
công ty chứng khoán cung cấp đều liên quan đến chứng khoán đã làm cho công
ty chứng khoán mang những đặc trưng riêng. Không những thế các công ty
chứng khoán ở các nước khác nhau cũng có thể có điểm khác nhau, thậm chí ở
trong cùng một quốc gia các công ty chứng khoán vẫn có nhiều sự khác biệt tùy
thuộc vào tính chất hoạt động của công ty và mức độ phát triển của thị trường.
Song xét về bản chất các công ty chứng khoán có một số đặc trưng cơ bản sau :
• Về loại hình tổ chức của công ty chứng khoán
Trong lịch sử và trên thực tế, công ty chứng khoán đã từng được tồn tại


dưới nhiều loại hình tổ chức như công ty cổ phần, doanh nghiệp góp vốn, doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp liên doanh. Mỗi loại
hình này đều có những ưu thế, bất lợi riêng, trong đó loại hình công ty cổ phần
và công ty trách nhiệm hữu hạn với những ưu điểm về quyền sở hữu, khả năng
huy động vốn, năng lực điều hành, tư cách pháp lý… rất phù hợp với nghiệp vụ
chứng khoán đã trở thành sự lựa chọn phổ biến ở các quốc gia.
• Về mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán
Việc xác định mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán không
đơn giản chỉ là quyết định của bản thân công ty mà hơn thế nó mang tính pháp
luật, thể hiện ở chỗ: những người làm công tác quản lý Nhà nước sẽ cân nhắc,
lựa chọn ra mô hình phù hợp nhất với đặc điểm của hệ thống tài chính, hệ thống
pháp luật, mức độ phát triển của nền kinh tế. Từ đó, các công ty chứng khoán
chỉ được phép hoạt động theo những mô hình đã lựa chọn.
• Về tính chuyên môn hóa và phân cấp quản lý
Các công ty chứng khoán chuyên môn hóa ở mức độ cao trong từng bộ
phận, từng phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ.
Nếu như ở các doanh nghiệp sản xuất, trong quy trình sản xuất sản phẩm giữa
các khâu phải có mắt xích kết nối, một sản phẩm ra đời nó phải trải qua tất cả các
công đoạn một, không thể thiếu một công đoạn nào. Trong khi đó, toàn bộ các
nghiệp vụ của công ty chứng khoán đều phục vụ cho các giao dịch chứng khoán
những mỗi một nghiệp vụ lại liên quan đến một góc cạnh riêng. Các phòng ban
khác nhau đảm nhiệm các công việc khác nhau như: môi giới, tự doanh, bảo lãnh
phát hành, tư vấn và ngay cả trong từng bộ phận các công việc đều được phân công
cụ thể, rõ ràng đến từng nhân viên.
Từ trình độ chuyên môn hóa cao độ dẫn đến phân cấp quản lý và làm nảy
sinh việc có quyền tự quyết. Các bộ phận trong công ty chứng khoán nhiều khi
không phụ thuộc lẫn nhau (ví dụ bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh, hay môi
giới và bộ phận bảo lãnh phát hành). Giữa các phòng ban có một sự độc lập
tương đối, mối liên kết không phải mật thiết, hữu cơ như trong các doanh
nghiệp sản xuất khác. Chính vì vậy hoạt động hay cơ cấu của phòng ban này

không tác động nhiều đến phòng ban khác.
• Về nhân tố con người
Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Chứng
khoán là một loại tài sản tài chính đặc biệt mà việc thẩm định chất lượng của nó
không phải giống như hàng hóa thông thường. Sự có mặt của công ty cứng
khoán trên thị trường là cần thiết khi người đầu tư không biết được nhiều thông
tin hay không có khả năng phân tích thông tin một cách thích hợp để từ đó đánh
giá và quyết định hướng sử dụng vốn của mình.
Đối với các công ty chứng khoán, với chức năng là định chế trung gian tài
chính thì khách hàng là mục tiêu số một, mục tiêu quan trọng nhất. Khách hàng
của công ty chứng khoán gồm các công ty phát hành chứng khoán, nhà đầu tư
chứng khoán. Như vậy, khách hàng của công ty chứng khoán cũng là chủ thể
tham gia trên thị trường cứng khoán có tư cách là người đại diện cho nguồn
cung hoặc nguồn cầu chứng khoán. Để có thể tồn tại và phát triển, công ty
chứng khoán phải thực hiện nguyên tắc “biết khách hàng của mình”, nắm rõ khả
năng tài chính của khách hàng, tư vấn cho khách hàng, giữ gìn đạo đức kinh
doanh và tôn trọng khách hàng, luôn luôn đặt khách hàng lên trên hết.
Làm được điều này, công ty chứng khoán phải dựa vào chất lượng chuyên
môn, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý trong công
ty.
• Về ảnh hưởng của thị trường tài chính
Công ty chứng khoán tham gia hoạt động trực tiếp trên thị trường chứng
khoán (TTCK) thì bất kỳ một biến động nào của TTCK nói riêng và thị trường
tài chính nói chung đều tác động sâu sắc đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và
doanh thu của công ty chứng khoán.
Thị trường tài chính, TTCK càng phát triển càng tạo ra nhiều công cụ tài
chính, có thêm nhiều dịch vụ, mở rộng phạm vi kinh doanh và qua đó một mặt
tạo cơ hội thu lợi nhuận cho công ty chứng khoán, mặt khác buộc các công ty
chứng khoán phải cải tiến, sáng tạo không ngừng để thích nghi với môi trường
hoạt động.

• Về cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phụ thuộc vào quy mô kinh
doanh và các nghiệp vụ mà công ty được phép hoạt động. Mặt khác nó còn căn
cứ vào tính chất sở hữu của công ty chứng khoán.
Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán chia
thành 2 khối chủ yếu: khối nghiệp vụ và khối phụ trợ. (Sẽ trình bày cụ thể ngay
sau đây)
1.1.1.3. Mô hình tổ chức của một công ty chứng khoán
Hình 1.1: Mô hình tổ chức của một công ty chứng khoán
HỖ TRỢ
Kế toán
Kho quỹ
Văn phòng
IT
Kiểm soát
Pháp chế
KINH DOANH
Môi giới
Tự doanh
Bảo lãnh phát hành
Tư vấn đầu tư
Phụ trợ
BAN ĐIỀU HÀNH
Giám đốc/TGĐ
Phó Giám đốc/PTGĐ
CHỦ SỞ HỮU
Hội đồng quản trị
Chủ tịch Công ty
(Nguồn Trung Tâm đào tạo UBCKNN)
Cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán dựa trên nền tảng loại

hình nghiệp vụ mà công ty thực hiện và quy mô hoạt động kinh doanh …Mặc
dù vậy, cơ cấu tổ chức của các công ty chứng khoán đều được xây dựng gồm
hệ thống các phòng ban chức năng được chia thành hai khối, là : Nghiệp vụ và
Phụ trợ.
- Khối nghiệp vụ (Front office): thực hiện các giao dịch kinh doanh
và dịch vụ chứng khoán. Khối này được tổ chức thành các bộ phận, phòng ban
hoạt động cụ thể: phòng môi giới, phòng tự doanh, phòng bảo lãnh phát hành,
phòng tư vấn, phòng ký quỹ…
Tuy nhiên, căn cứ vào chiến lược hoạt động của công ty, quy mô vốn,
quy mô và sự phát triển của thị trường mà mỗi công ty chứng khoán có thể
chuyên sâu vào từng bộ phận, từng mảng hoạt động (như tách bạch các phòng
môi giới OTC, phòng phân tích đầu tư, tư vấn …) hoặc tổng hợp các nghiệp
vụ trong cùng một bộ phận ( như phòng kinh doanh có thể bao gồm cả: cho
vay cầm cố chứng khoán,OTC..hay phân tích và tư vấn, bảo lãnh phát hành
vào cùng một bộ phận..)
- Khối phụ trợ: đây là khối không thể thiếu trong quá trình hoạt
động của một công ty chứng khoán, mặc dù nó không trực tiếp tham gia các
nghiệp vụ kinh doanh. Khối này bao gồm các bộ phận như: phòng kế hoạch
công ty, phòng phân tích thị trường, phòng IT, phòng hành chính- nhân sự,
phòng kiểm soát nội bộ…
Bên cạnh sự phân chia thành hai khối nghiệp vụ như vậy, hiện nay các
công ty chứng khoán còn mở thêm các chi nhánh tại các địa phương, đại lý
nhận lệnh tại các địa điểm khác nhau… phục vụ cho mục đích mở rộng mạng
lưới khách hàng, quy mô kinh doanh…
1.1.2. Vai trò của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Đối với mỗi chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, vai trò
của các công ty chứng khoán cũng được nhìn nhận dưới những góc độ khác
nhau.
1.1.2.1. Đối với thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán phát triển không thể thiếu sự tham gia của các
công ty chứng khoán. Hoạt động của các công ty chứng khoán đã giúp công
chúng và nhà đầu tư quen dần với thị trường. Công ty chứng khoán góp phần
tạo lập giá cả, điều tiết thị trường và làm tăng tính thanh khoản của các tài sản
tài chính. Trên thị trường thứ cấp, công ty chứng khoán có vai trò giúp nhà đầu
tư đánh giá chính xác giá trị khoản đầu tư của mình. Toàn bộ các lệnh mua bán
chứng khoán được tập hợp tại các thị trường giao dịch tập trung thông qua các
công ty chứng khoán, và trên cơ sở đó giá chứng khoán sẽ được xác định theo
quy luật cung cầu. Ngoài ra, chính hoạt động tự doanh của các công ty chứng
khoán cũng góp phần điều tiết giá chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, thông
qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, công ty chứng khoán đã thực
hiện xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với
các chứng khoán trong đợt phát hành. Các công ty chứng khoán thực hiện các
giao dịch mua bán chứng khoán sau khi phát hành, vì vậy giúp người đầu tư dễ
dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, làm tăng tính thanh
khoản cho các chứng khoán.
1.1.2.2. Đối với nhà đầu tư
Sân chơi mới này cũng dành cho tất cả các nhà đầu tư, từ nhà đầu tư có tổ
chức đến nhà đầu tư cá nhân. Họ tạm thời có một khoản tiền nhàn rỗi, nhưng sẽ
rất khó khăn khi ra quyết định đầu tư. Như vậy, nhờ lợi thế của một tổ chức
trung gian, chuyên môn hoá cao làm cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau, các
công ty chứng khoán giúp cho nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí, thời gian, công
sức trong từng giao dịch, giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường.
1.1.2.3. Đối với các tổ chức phát hành
Thị trường chứng khoán là một sân chơi mới cho tất cả các doanh nghiệp,
một cơ chế huy động vốn mới. Các doanh nghiệp hiện nay không còn phải lệ
thuộc hoàn toàn vào vốn đi vay từ các ngân hàng thương mại, họ có thể chủ
động tìm được nguồn vốn mới thông qua việc phát hành các chứng khoán trên
thị trường. Công ty chứng khoán là một trung gian tài chính với vai trò huy
động vốn, sẽ giúp tổ chức phát hành tìm được nhà đầu tư và phân phối chứng

khoán đến tận tay những người có nhu cầu nắm giữ loại chứng khoán đó. Nhà
đầu tư và nhà phát hành không phải mua bán trực tiếp chứng khoán với nhau,
điều này giúp giảm chi phí huy động cho nhà phát hành.
1.1.2.4. Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Công ty chứng khoán thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán, nắm
giữ các tài khoản giao dịch của khách hàng, vì vậy nó có được thông tin về các
giao dịch trên thị trường, thông tin về các loại cổ phiếu, trái phiếu, thông tin về
tổ chức phát hành và nhà đầu tư... Công ty chứng khoán có nghĩa vụ phải cung
cấp các thông tin đó cho các cấp có thẩm quyền khi có yêu cầu, qua đó, các cơ
quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng,
lũng đoạn thị trường... bảo vệ nhà đầu tư
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán
1.1.3.1. Môi giới chứng khoán
Với nghiệp vụ môi giới chứng khoán, công ty chứng khoán là trung gian
thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho khách hàng, chính là các nhà đầu tư
(cả cá nhân và tổ chức). Khách hàng sẽ ra các mọi quyết định như mua, bán
loại chứng khoán nào, khối lượng, giá cả, thời điểm mua bán ra sao. Khách
hàng sẽ chịu trách nhiệm về kết quả của việc mua bán và phải trả phí môi giới
cho công ty chứng khoán.
1.1.3.2. Tự doanh chứng khoán
Đây là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của công ty chứng
khoán. Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua
bán chứng khoán cho chính mình. Đối với hoạt động tự doanh, Công ty chứng
khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty, nhằm thu lợi nhuận cho
chính mình. Trong trường hợp hoạt động tự doanh được thực hiện thông qua
hoạt động tạo lập thị trường, khi đó công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo
lập thị trường, sẽ nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại chứng khoán,
và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch
giá. Là nguồn thu chủ yếu của các công ty chứng khoán, vì vậy nhà quản lý rất
chú trọng đến hoạt động này. Hoạt động tự doanh đòi hỏi công ty chứng khoán

phải có đủ một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật (tối thiểu là 100 tỷ
đồng), nhằm đảm bảo rằng các công ty chứng khoán dùng vốn của họ để kinh
doanh và đội ngũ nhân viên phải có trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng
phân tích thị trường, nhạy bén với thông tin, nhạy cảm trong công việc, có khả
năng tự quyết cao để có thể đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.
Công ty chứng khoán vừa kinh doanh chứng khoán cho chính mình, vừa
làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng, vì vậy có thể dẫn đến sự mâu
thuẫn về lợi ích giữa công ty và khách hàng. Do đó, khi thực hiện hoạt động tự
doanh, công ty chứng khoán cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tách biệt về quản lý: giữa hai hoạt động tự doanh và môi giới, để đảm
bảo sự phù hợp về lợi ích của các bên. Đặc biệt, không được lấy tài sản của
khách hàng để kinh doanh cho công ty và ngược lại.
- Ưu tiên khách hàng: công ty chứng khoán với lợi thế về nghiệp vụ có
thể dự đoán trước diễn biến của thị trường, để đảm bảo sự công bằng cho các
khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán phải
ưu tiên thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng trước lệnh tự doanh của công
ty.
- Góp phần bình ổn thị trường: khi thị trường có sự biến động bất thường,
các công ty chứng khoán sẽ điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại
chứng khoán thông qua hoạt động tự doanh, bằng cách mua vào khi giá chứng
khoán giảm và bán ra khi giá chứng khoán tăng nhằm giữ giá chứng khoán ổn
định.
Hình1.2: Quy trình hoạt động tự doanh tại công ty chứng khoán
Xây dựng chiến lược đầu tư
Khai thác, tìm kiếm cơ hội đầu tư
Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư
Thực hiện đầu tư
Quản lý đầu tư và thu hồi vốn
(Nguồn: Trung tâm đào tạo Ủy ban chứng khoán Nhà nước)
1.1.3.3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán

Hoạt động bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán có chức năng
bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán
trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Để có thể trở thành một tổ chức bão lãnh
phát hành, Công ty chứng khoán có mức vốn tối thiểu cho hoạt động này là 165
tỷ đồng Việt Nam, được cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán đồng ý và cho phép. Mặt khác, công ty chứng khoán và tổ
chức phát hành không được chi phối nhau, không nắm giữ quá 5% vốn của
nhau; không cùng chi phối một tổ chức khác và không cùng bị một tổ chức khác
chi phối. Để đợt phát hành chứng khoán ra công chúng của doanh nghiệp được
thành công, việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành rất quan trọng. Công ty
chứng khoán với tư cách là tổ chức bảo lãnh phát hành được doanh nghiệp lựa
chọn sẽ tư vấn cho tổ chức phát hành về loại, số lượng chứng khoán cần phát
hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các
nhà đầu tư. Khi phương án phát hành được Uỷ ban chứng khoán thông qua,
chứng khoán sẽ được phép phát hành, sau đó công ty chứng khoán thực hiện
phân phối chứng khoán. Công ty chứng khoán sẽ có được một khoản thu từ phí
bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh phát hành chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong
tổng doanh thu của công ty chứng khoán vì vậy các công ty cũng rất chú trọng
phát triển hoạt động này.
Hoạt động mạnh về nghiệp vụ này là Công ty chứng khoán Nông Nghiệp,
Ngoại thương.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán được thực hiện
theo quy trình sau :
Hình 1.3: Quy trình hoạt động Bảo lãnh phát hành
Công ty chứng khoán
Nhận đơn yêu cầu bảo lãnh
Ký hợp đồng tư vấn quản lý
Đệ trình phương án bán
Lập nghiệp đoàn bảo lãnh phát hành, định giá chứng khoán và ký hợp đồng bảo

lãnh
Đơn xin bảo lãnh, nộp bản cáo bạch
Phân phát bản cáo bạch và phiếu đăng ký mua chứng khoán
Đăng ký phát hành chứng khoán có hiệu lực
Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng ký
Công ty phát hành
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
(Nguồn:Trung tâm đào tạo Ủy ban chứng khoánNhà nước)
1.1.3.4. Hoạt động tư vấn tài chính doanh nghiệp và đầu tư chứng khoán
Đây là một trong bốn hoạt động kinh doanh chính của công ty chứng
khoán. Hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán có thể được hiểu: đó là việc
Thanh toán

×