Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Bai van dat diem 10 HS gioi Tinh TTHue nam 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.62 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>LTS: Trong kỳ thi chọn HS giỏi lớp 12 năm học 2005-2006 của Sở GD&ĐT Thừa Thiên Huế, em</b>
<b>Nguyễn Thị Hường, HS lớp 12 trường THPT Vinh Lộc, đã đạt điểm tối đa 20/20. Sau đây, BBT xin</b>
<b>giới thiệu đề bài và bài làm nói trên của em Nguyễn Thị Hường.</b>


<b>Đề bài:</b>


Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:


<i>“Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!”</i>
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)


Anh (chị) hãy bình luận ý thơ trên.


Từ đó, chọn phân tích một bài thơ mà theo anh (chị) là đẫm vị mặn của chất muối cuộc đời.
<b>Bài làm:</b>


Không biết thơ ca sinh ra tự thuở nào, nhưng nó đã được biết đến, bàn đến rất nhiều. Có lẽ bởi thơ ca là
hình thái nghệ thuật dễ đi vào lòng người nhất, dễ rung cảm bể cả tình người nhất. Điều làm cho thơ ca có
sức quyến rũ như vậy? Bởi thơ ca được chưng cất lên từ nước biển, nó nói hộ bao cung bậc tình cảm con
người. Vì thế, Chế Lan Viên cho rằng “Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!”. Chế Lan Viên đã
đề cập đến vấn đề quan hệ giữa “đời” và “thơ”.


Tơi cịn nhớ câu nói của Biêlinxki “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Tư tưởng của
những nhà thơ, nhà văn chân chính đã gặp nhau. Tất cả mọi hình thái nghệ thuật đều bắt nguồn từ trực
quan sinh động qua lăng kính của nhà văn nhà thơ rồi mới phản chiếu vào tác phẩm. “ Vị muối” cuộc đời
ấy là hiện thực cuộc sống, là những trăn trở, lo âu, buồn phiền, sung sướng, hạnh phúc…Là nhà thơ chân
chính, anh phải lăn lộn ngồi cuộc đời sương gió kia, phải cảm nhận hết nỗi đau, niềm vui, hạnh phúc của
con người rồi thổi hồn vào tác phẩm, thơ anh mới mặn mà, mới neo chặt vào bến hồn người đọc. Tác
phẩm của anh phải bắt chặt, phải cắm rễ vào mảnh đất hiện thực ngoài kia mới có thể trở thành dịng suối
trong trẻo chảy vào lịng bạn đọc. Khi Nguyễn Du viết truyện Kiều chẳng phải từ “những điều trơng thấy”
mới “đau lịng” đó sao? Những vần thơ ơng như có máu rỏ đầu ngọn bút, chẳng phải từ điều “sở kiến” đó


sao? Tác phẩm văn học là con đẻ của nhà văn, do đó, nó là sự kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt, nó
phải là “Tiếng thét khổ đau hay lời ca tung hân hoan”(Biêlinxki). Nếu nhà thơ sống bàng quan, lãnh đạm,
không nếm trải mùi vị của cuộc đời thì thơ anh ta chẳng qua là một kỹ xảo ngôn từ, anh ta sẽ tự giết chết
đứa con của mình, hay tồn tại thì chỉ “lừa được một người, may mắn là một thời” (Diệp Tiếp). Những vần
thơ thiết tha, sôi nổi của Xuân Diệu, những vần thơ đầy ắp thương mến của Tố Hữu…tất cả đều từ bầu
sữa của bà mẹ cuộc sống. “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã
<i>tràn đầy” (Tố Hữu). Cái chất mặn của những vần thơ ấy chính là cái tình của tác giả gửi gắm. Có rung</i>
động sâu xa trước những nỗi đau nhất, trước những biến đổi tinh vi nhất của tình cảm con người. Có bám
chặt vào vị muối cuộc đời, độc giả mới tìm đến thơ anh để thấy mình trong đó. Khi Hồ Xuân Hương kêu
lên:


<i>Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,</i>
<i>Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nguyễn Du khi đau đớn thốt lên:
<i>Đau đớn thay phận đàn bà</i>


<i>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.</i>
(Truyện Kiều)


thì cũng là từ những đắng cay mà thi sĩ Tố Như đã cùng Thuý Kiều trải qua trong mười lăm năm đoạn
trường, để rồi viết nên thiên tình sử làm rung động bao thế hệ người đọc.


Nhưng nếu chỉ là “vị muối của đời” mà khơng có tài năng, khơng có con tim nhạy cảm hơn người của nhà
thơ thì cũng khó làm nên những vần thơ nóng bỏng. Cái vị muối cuộc đời ấy phải xuyên qua trái tim thi
sĩ, thấm nhuần trong tâm hồn thi sĩ thì mới thành những vần thơ bất hủ. Nguyễn Du viết nên những trang
“Kiều” đẫm lệ nhưng cũng thật lung linh tuyệt đẹp. Nhà thơ phải có tài mới biến cái vị mặn của cuộc đời
ấy thành viên muối, để nó dễ dàng thâm nhập vào trái tim bạn đọc. Những vần thơ tuyệt bút của Nguyễn
Du chẳng phải là mẫu mực cho ngơn ngữ Việt đó sao? Nếu chỉ biết nếm trải cái vị muối cuộc đời mà
khơng có ngịi bút tài hoa, làm sao Nguyễn Du lột tả hết nỗi cô đơn của Kiều sau những đêm “mưa Sở


mây Tần”:


<i>Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,</i>


<i>Giật mình mình lại thương mình xót xa.</i>


Do đó, một nhà thơ vĩ đại phải là một nhà thơ có tài, và trên hết, anh phải có vốn sống, phải tắm mình
trong bể muối để những nỗi đau, niềm vui, niềm hạnh phúc sáng bừng trong thơ anh, thế mới trở thành
mạch nguồn trong trẻo qua tim người đọc.


Để viết nên những nhận định chân thực ấy, hẳn Chế Lan Viên đã từng trăn trở, băn khoăn, từng nếm mùi
vị của “muối đời”. Chàng thi sĩ của “Ánh sáng và phù sa” ấy đã trải qua biết bao thăng trầm, đã một thời
“điêu tàn” trong mộng tưởng, trong nỗi đau nhân thế. Những vần thơ anh chẳn hẳn cùng được chưng cất
lên từ bể muối cuộc đời? Trước Cách mạng tháng Tám, anh quan niệm thi sĩ không phải là người thường,
đó là người mơ, người điên, người say, là Tiên là Ma, là Quỷ…Nhưng khi ánh sáng cách mạng chiếu vào
hồn thơ “Điêu tàn” ấy thì “Xưa phù du mà nay đã phù sa, xưa bay đi mà không trôi mất”. Và từ những vị
muối của cuộc đời, chàng thi sĩ ấy đã viết nên “Tiếng hát con tàu”.


Vị muối của cách mạng, của niềm tin mới đã thổi vào thơ anh một nhân sinh quan mới mẻ:
<i>Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc</i>


<i>Khi lịng ta đã hố những con tàu</i>
<i>Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát</i>
<i>Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ cịn đâu.</i>


Nhận ra chân lí cách mạng, thơ anh đã thật sự đổi mới, từ những vần thơ đầy ắp tình yêu quê hương, đất
nước. Tâm hồn của thi sĩ thực sự đã “hoá những con tàu”, đã hoá thành Tây Bắc. Lời thơ (phần đề từ)
mang một quan niệm hết sức nhân văn. Là một con người, nhất là một nhà thơ, anh phải đi ra cuộc đời
ngoài kia, phải hoà tiếng hát mình vào bản hợp xướng của dân tộc:



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội</i>
<i>Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi</i>
<i>Ngồi cửa ơ? Tàu đói những vầng trăng.</i>


Lời thơ thúc giục, mang ý nghĩa triết lý – “gió ngàn rú gọi” hay lời đất nước gọi? Không biết Chế Lan
Viên đã trải qua bao nhiêu suy tư trước cuộc đời mới viết nên được những dòng thơ đầy triết lý như thế?
Phải sống chân thực, phải cảm nhận sự đổi thay lớn lao của đất nước, chàng thi sĩ “Điêu tàn” khi xưa mới
nhận rõ chân lý: “Chẳng có thơ đâu giữa lịng đóng khép, tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. Và đây, hiện
thực cuộc đời đã hiện ra:


<i>Xứ thiêng liêng, rừng núi hoá anh hùng</i>
<i>Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất</i>


<i>Nay dạt dào đã chín trái đầu xn.</i>


Dưới ngịi bút của thi sĩ, hiện thực cuộc đời ở rừng núi Tây bắc đã hoá “anh hùng”. Tây Bắc - miền sơn
cước anh dũng đấu tranh chống giặc, nay lại anh hùng đứng lên xây dựng lại cuộc đời mới. “Tâm hồn ta
thấm đất”, cách nói thật mới mẻ, có tính biểu cảm cao. Từ “rỏ” đọc lên sao mà xúc động đến tận tim gan,
đến từng thớ thịt, từng ngóc ngách sâu xa nhất của trái tim. “Rỏ” biểu hiện cái gì nó kiên nhẫn q, bền bĩ
q! Trái tim thi sĩ như hồ cùng dịng máu Tây Bắc để cuộc sống mới “dạt dào trái chín của đầu xuân”.
Trái đầu xuân hay trái hạnh phúc, trái cuộc đời? Lời thơ thiết tha, dạt dào tình cảm. Đúng là “xưa phù du
mà nay lại phù sa”. Ở đây có sự biến đổi rất lớn lao, sâu sắc trong tư tưởng Chế Lan Viên. Để có được
nhận thức như vậy, chàng thi sĩ ấy đã trải qua biết bao trăn trở, để cùng hồ mình vào đất mẹ:


<i>Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ</i>
<i>Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa</i>
<i>Như đứa trẻ thơ đói lịng gặp sữa</i>
<i>Chiếc nôi ngừng bổng gặp cánh tay đưa</i>


Cách so sánh thật độc đáo! Cuộc đời cách mạng đã cho anh lẽ sống, niềm vui mới. Chế Lan Viên thực sự


đã hoà mình vào dịng chảy cuộc đời, “Gặp lại nhân dân như nai về suối cũ” thể hiện niềm vui tột đỉnh,
niềm sung sướng hân hoan khi được sống giữa tình nhân dân trìu mến trên mảnh đất anh hùng. Khơng còn
là “con nai bị chiều giăng lưới” (Xuân Diệu) hay “con nai vàng ngơ ngác” (Lưu Trọng Lư), mà bây giờ là
con nai của cuộc sống thời đại, của hơi thở lịch sử. Phải yêu thương chân thành, tha thiết, phải có xúc cảm
mãnh liệt với “xứ thiêng liêng” ấy Chế Lan Viên mới viết nên được dòng thơ độc đáo như vậy. Con người
Tây Bắc lần lượt hiện ra trong tâm tưởng nhà thơ:


<i>Con nhớ anh con, người anh du kích</i>
<i>(…) Con nhớ em con, thằng em liên lạc.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Lời thơ thắm thiết như chính tấm lịng yêu thương, cảm phục của tác giả gửi đến những con người Tây
Bắc. Nếu không sống trong bể đời dân tộc, khơng tắm trong dịng chảy lịch sử, thì những lời thơ như có
ánh sáng ấy làm sao có thể đẹp đến như vậy. Cảm động nhất là hình ảnh người mẹ:


<i>Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc</i>
<i>Năm con đau, mế thức một mùa dài</i>
<i>Con với mế không phải hòn máu cắt</i>
<i>Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.</i>


Trái tim ta như bổi hổi, bồi hồi cùng thi sĩ. Tình cảm như tràn ra khỏi câu thơ, dạt dào chảy vào tim ta.
Ngọn lửa hồng ấy phải chăng là ngọn lửa của tình thương mà người mế thức suốt mùa dài để sưởi ấm cho
đứa con nuôi? Nếu Chế Lan Viên khơng có xúc cảm mãnh liệt thì không thể vẽ nên bức tranh giản dị,
chân thực và xúc động đến thế! Chính tình thương của người mế đã thổi vào hồn thi sĩ những xúc cảm
chân thành. Nỗi nhớ chồng chất nỗi nhớ, tình thương dồn dập tình thương. Tình cảm thi sĩ cứa tn trào,
tn trào khơng dứt. Bên cạnh “nhân dân”, “anh du kích”, “em liên lạc” và “mế” là “em”:


<i>Anh bổng nhớ em như đơng về nhớ rét</i>
<i>Tình u ta như cánh kiến hoa vàng.</i>


Lại nỗi nhớ! Nhưng được biểu đạt bằng một cách riêng: Nhớ “như đông về nhớ rét”. “đông” và “rét” là


hai hiện tượng tự nhiên luôn gắn liền với nhau. Cách ví von thật chính xác. “Tình u” ấy có thể là tình
u đơi lứa, tình bạn hay tình quê hương, đất nước, nghĩa nào cũng đúng cả. Chất suy tưởng nhiều tầng
nghĩa vốn là một bút pháp của Chế Lan Viên. Hai câu “thi nhãn” theo tôi là câu:


<i>Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở</i>
<i>Khi ta đi, đất đã hố tâm hồn !</i>


Có thể nói Chế Lan Viên đã thấm hồn trên câu chữ. Hai câu thơ đọc lên sao cứ rưng rưng! Nếu khơng có
lịng yêu quê tha thiết, nếu không nếm trải chất muối vùng Tây Bắc thì làm sao thi sĩ có thể hạ bút thế
được. Cũng như chàng Lý Bạch xưa kia, xa quê hương, khi ngắm vầng trăng quê người thì “Ngẩng đầu
<i>nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương”. Mảnh đất nơi ta đã rỏ máu, nơi nhân dân đã khơng tiếc xương</i>
máu để “giăng lúa chín rì rào” ấy đã gắn chặt nơi trái tim ta, đã hoá vào tâm hồn ta. Câu thơ là nỗi niềm
riêng của nhà thơ hay nỗi lòng của bao người con xa xứ? Chất muối của tình u, của sự gắn bó đã kết
tinh trên câu chữ:


<i>Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!</i>


Có người cho rằng: ngồi Chế Lan Viên khơng cịn ai có thể viết được hai câu thơ hay đến như thế. Âu
cùng là từ tấm lòng thi sĩ đã cảm tình người, tình quê Tây Bắc.


Trở lên là những tình cảm, những nỗi nhớ dồn dập của nhà thơ. Nỗi nhớ ấy khơng “chơi vơi” như Quang
Dũng, mà nó cụ thể, nó hiện thực, nó bắt nguồn từ cuộc sống xưa – nay của miền Tây Bắc. để rồi từ nỗi
nhớ ấy tác giả đã biến thành một lời ước nguyện:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Tây Bắc ơi người là mẹ của hồn thơ</i>


<i>Mười năm kháng chiến vàng ta đau trong lửa</i>
<i>Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.</i>


Lời nguyện ước chân thành, xúc động. Tác giả nguyện đến vùng núi xa xôi ấy để chung tay xây dựng


cuộc sống mới, hay nguyện hồ vào lịng nhân dân, vào lịch sử về hồn thơ được sống cùng bầu sữa mẹ Tổ
quốc. “Đất nước gọi” - đó là khách quan, “lịng ta gọi” - đó là chủ quan. Và cái quý nhất ở thi sĩ chính là
“lịng ta gọi” - thể hiện một sự tự nguyện của nhà thơ.


Cuộc sống đã cho nhà thơ cái nhìn mới, thời đại đã cho nhà thơ cảm xúc mới: “Mười năm kháng chiến
vàng ta đau trong lửa”. Cách nói mang đầy chất triết lý, suy tưởng. Thi sĩ ơi! Cuộc đời đã về với anh, thơ
đã thực sự là thơ, khơng cịn “đau trong lửa”. Trái tim Chế Lan Viên như reo mừng: “nay trở về ta lấy lại
vàng ta”. Trái tim cô đơn, điêu tàn khơng cịn nữa! Tình u con người và cuộc sống thời đại đã cho anh
ánh sáng mới, bồi đắp cho anh nguồn phù sa màu mỡ, để thơ anh thật sự đi vào lòng người. Đoạn cuối
cũng lại là một dịng suy tưởng:


<i>(…) Ai bảo con tàu khơng mộng tưởng?</i>
<i>Mỗi đem khuya khơng uống một vầng trăng</i>
<i>Lịng ta cũng như tàu, ta cũng uống</i>


<i>Mặt hồng em trong suối lớn mùa xn.</i>


Đến đây thì lịng thi sĩ, mùa xn của thi sĩ đã thực sự hoà mùa xuân đất nước.


Bài thơ khép lại, nhưng lại mở ra bao suy nghĩ cho người đọc. Những vần thơ giàu tính triết lý, giàu hình
ảnh ấy thật sự là trái tim thi sĩ được bóc ra. Chế Lan Viên đã thực sự hồ trong dịng chảy lịch sử, đã cảm
nhận tinh tế tình cảm của con người Tây Bắc, đã sống trong những ngày gian khổ của dân tộc, nên thơ
anh cứ như bản nhạc lúc thanh lúc trầm dội vào lòng độc giả. Há chẳng phải thơ anh được cất lên từ vị
muối của đời đó sao?


<i>“Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn”, âu đó cũng là châm ngơn sáng tác cho tồn bộ giới văn</i>
nghệ sĩ vậy!


</div>

<!--links-->

×