Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Luận văn thạc sĩ nghiên cứu đa dạng thực vật ngập mặn vườn quốc gia cát bà phục vụ công tác bảo tồn và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 114 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

Ý nghĩa khoa học:

..……..o0o….......

Ý nghĩa thực tiễn:
4. Dự kiến đóng góp mới

BÙI TUẤN MINH

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG THỰC VẬT NGẬP MẶN
VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ PHỤC VỤ CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT
..……..o0o….......

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG THỰC VẬT NGẬP MẶN


VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ PHỤC VỤ CÔNG TÁC BẢO TỒN
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thế Cường
Học viên thực hiện: Bùi Tuấn Minh – K20
Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 8420111

Hà Nội, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
luận văn là trung thực, các số liệu tham khảo đều có nguồn trích dẫn rõ ràng. Luận văn
này chưa từng được bảo vệ để nhận học vị trước bất kỳ hội đồng nào trước đây.
Tác giả

Bùi Tuấn Minh

LỜI CẢM ƠN


Luận văn được hoàn thanh với sự giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo, các cán bộ
đào tạo của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam.
Xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới thầy giáo hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Thế Cường,
phó Trưởng trạm Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh - Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật đã giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này. Qua sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của
thầy, tơi đã có được hướng đi đúng đắn để xây dựng và hồn thành tớt Luận văn của
mình.

Tơi xin gửi lời cảm ở tới các thầy cô của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật nói
chung và các thầy cơ trực tiếp trong bộ mơn Thực vật học nói riêng đã truyền đạt những
kiến thức và trình độ nhất định để hồn thành được Luận văn tớt nghiệp này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Vườn Quốc gia Cát Bà, cán bộ kiểm lâm xã
Phù Long và người dân xã Phù Long, huyện Cát Hải, thành phớ Hải Phịng đã tạo điều
kiện cho tơi thu thập số liệu phục vụ xây dựng Luận văn.
Xin cảm ơn Đề tài: “Nghiên cứu đa dạng sinh học các đảo đá vôi, quần đảo đá vôi
vùng biển Việt Nam; đề xuất giải pháp và mơ hình sử dụng, bảo tồn và phát triển bền
vững (Mã số: KC09.11-20)” đã hỗ trợ thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lịng biết ơn tới gia đình, người thân cùng bạn bè và cán
bộ lãnh đạo, đồng nghiệp Sở Khoa học và Cơng nghệ thành phớ Hải Phịng đã bên cạnh
động viên và tạo điều kiện tớt nhất để tơi hồn thành Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng

năm 2019

Bùi Tuấn Minh


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 2
1. Tổng quan về nghiên cứu về rừng ngập mặn trên thế giới và khu vực ..... 2
2. Tổng quan về nghiên cứu đa dạng thực vật ngập mặn ở Việt Nam ......... 10
2.1. Diện tích rừng ngập mặn Việt Nam ..................................................... 10
2.2. Phân bố địa lý rừng ngập mặn ven biển ............................................... 11
2.3. Đa dạng cây ngập mặn và bán ngập mặn ............................................. 12

2.4. Các nguyên nhân chủ yếu gây suy thoái rừng ngập mặn ..................... 13
3. Nghiên cứu về sinh khối RNM ở Việt Nam ................................................... 18
4. Tổng quan về VQG Cát Bà .......................................................................... 18
4.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................ 19
4.1.1. Vị trí địa lý ........................................................................................ 19
4.1.2. Địa hình, địa thế ................................................................................ 19
4.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng ......................................................................... 20
4.1.4. Khí hậu .............................................................................................. 22
4.1.5. Thuỷ văn ............................................................................................ 23
4.1.6. Hiện trạng rừng và sử dụng đất ......................................................... 26
4.1.7. Khu hệ Thực vật rừng ngập mặn ....................................................... 27
4.2. Tình hình dân sinh - kinh tế xã hội. ..................................................... 30
5. Sơ lược về tình hình nghiên cứu thực vật ở VQG Cát Bà .............................. 33
CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNGVÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ................................................................................................... 34
2.1. Mục tiêu: ..................................................................................................... 34
2.2. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................... 35
2.3. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................. 35
2.4. Thời gian nghiên cứu: ................................................................................ 35
2.5. Nội dung nghiên cứu: ................................................................................. 35
2.6. Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................... 35
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 38
3.1. Đa dạng các lồi thực vật có mạch trong hệ thực vật RNM
tại VQG Cát Bà ......................................................................................... 38


3.2. Cấu trúc của các kiểu rừng ngập mặn tại khu vực nghiên cứu .................... 41
3.3. Các quần xã khác trong khu vực nghiên cứu ............................................... 47
3.4. Sinh khối của các loài trong khu vực nghiên cứu: ................................. 49
3.5. Đánh giá chỉ sớ đa dạng sinh học của các lồi ngập mặn trong

các kiểu thảm thực vật ngập mặn ................................................................ 50
3.6. Một sớ yếu tớ gây suy thối hệ sinh thái rừng ngập mặn khu vực
nghiên cứu ................................................................................................... 51
3.7. Đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng thực vật và phát triển
bền vững các hệ sinh thái rừng ngập mặn tại khu vực nghiên cứu. .... 52
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 54
1. KẾT LUẬN ................................................................................................ 54
2.

KIẾN NGHỊ ............................................................................................... 55

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 56
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 60


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu và chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

BVR

Bảo vệ rừng

ĐDSH

Đa dạng sinh học

GHCP


Giới hạn cho phép

HST

Hệ sinh thái

KH-KT

Khoa học – Kỹ thuật

Khu DTSQ

Khu Dự trữ Sinh Quyển

KL

Kiểm lâm

NN và PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NTTS

Nuôi trồng thủy sản

RNM

Rừng ngập mặn


RNM

Rừng ngập mặn

TVNM

Thực vật ngập mặn

UBND

Ủy ban nhân dân

VQG

Vườn Quốc gia

VSV

Vi sinh vật


DANH MỤC BẢNG

Bảng - Hình

trang

Bảng 1: Thảm thực vật rừng và sử dụng đất

26


Bảng 2: Tổng hợp kết quả trồng rừng ngập mặn tại VQG Cát Bà

29

Bảng 3: Thành phần loài thực vật tại thảm thực vật ngập mặn VQG Cát Bà

38

Bảng 4: Các loài ngập mặn và tham gia ngập mặn khu vực nghiên cứu

39

Bảng 5: So sánh thành phần thực vật tại RNM VQG Cát Bà và VQG Xuân
Thủy

41

Bảng 6. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 01

43

Bảng 7. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 02

43

Bảng 8. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 03

39


Bảng 9. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 04

44

Bảng 10. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 05

45

Bảng 11. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 06

46

Bảng 12. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 07

46

Bảng 13. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 08

44

Bảng 14. Sinh khối trong ô tiêu chuẩn 09

47

Bảng 15. Tổng hợp sinh khới các lồi trong các OTC

49

Bảng 16: Sinh khới các lồi trong khu vực nghiên cứu


50

Bảng 17. Chỉ số đa dạng sinh học các lồi ngập mặn

50

Hình 1: Bản đồ khu vực điều tra

42


1

MỞ ĐẦU
Rừng ngập mặn (RNM) là một trong những hệ sinh thái quan trọng và có năng suất
cao nhất trên thế giới. RNM là nơi nuôi dưỡng, cư ngụ và cung cấp thức ăn cho nhiều
loại động vật dưới nước và trên cạn có giá trị ở vùng ven biển. RNM ổn định bờ biển,
bảo vệ đê điều và là tấm lá chăn chớng lại gió bão cũng như các tai biến thiên nhiên,
đóng góp đáng kể vào đời sớng kinh tế xã hội của người dân ven biển Việt Nam. Tài
nguyên hệ sinh thái rừng ngập mặn đã được khai thác từ lâu đời làm vật liệu xây dựng,
củi đun, lấy tanin, thức ăn, mật ong, thảo dược, ….
Vườn Q́c gia Cát Bà có diện tích 17.362,96 ha (phần đảo: 10.972,51 ha; phần
biển: 6.450,45 ha), là vùng lõi của Khu Dự trữ Sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà
được Tổ chức Văn hóa - Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận
vào năm 2004. Nơi đây có giá trị cao về đa dạng sinh học, với nhiều lồi động thực vật
q, hiếm đặc hữu.
Vườn Q́c gia Cát Bà có 3 kiểu hệ sinh thái chính gồm: trên cạn, đất ngập nước
và biển. Đây là các hệ sinh thái có tính đại diện cao, với nhiều loài đặc hữu.Cát Bà là
một quần đảo gồm hàng trăm đảo nhỏ nhưng lại nằm ở vị trí cửa sơng, nên cũng chịu
ảnh hưởng bồi tụ phù sa cửa sông. Diện tích đất bồi tụ phù sa cửa sơng. Rừng ngập mặn

ở đây bao gồm những cây nhỏ, thấp khác với rừng cửa sông của các tỉnh Miền Nam.
Việc phục hồi, quản lý và khai thác RNM liên quan với vấn đề môi trường, phát
triển kinh tế, và một số vấn đề quản lý và sử dụng bền vững hệ sinh thái RNM.RNM
được phục hồi đã giúp cải thiện cuộc sống của cộng đồng ven biển, và thay đổi nhận
thức của họ về vai trò của RNM.Tuy nhiên, vẫn còn một số thách thức đối với công tác
quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững RNM.Xuất phát từ đó, nhằm phục vụ cho việc
quản lý bền vững hệ sinh thái đầy tiềm năng nhưng nhạy cảm này, chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài “Nghiên cứu đa dạng thực vật ngập mặn tại Vườn quốc gia Cát Bà
phục vụ công tác bảo tồn và phát triển bền vững”.


2

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Tổng quan về nghiên cứu về rừng ngập mặn trên thế giới và khu vực
Hệ sinh thái RNM đóng vai trị to lớn trong việc bảo vệ, phát triển tài nguyên và
môi trường cửa sông, ven biển phục vụ cho kinh tế-xã hội và cộng đồng thể hiện qua
các chức năng và dịch vụ như: Cung cấp O2 và hấp thụ CO2 cải thiện điều kiện khí hậu
khu vực như các loại rừng khác; Tích luỹ cacbon; Cung cấp thức ăn, nơi sinh đẻ, ni
dưỡng con non và là vườn ươm cho các lồi thủy sản ven biển, nơi ở cho các loài chim
di cư; Góp phần giảm thiểu tác hại của gió, bão, nước biển dâng và sóng thần; Làm tăng
lượng bồi tụ trầm tích, mở rộng đất đai bờ cõi; Lọc nước và hấp thụ các chất độc hại, ô
nhiễm vùng cửa sông ven biển; Lưu giữ nguồn gen; Cung cấp phương tiện thông tin cho
nghiên cứu, giáo dục và đào tạo, giữ gìn bản sắc văn hố và tín ngưỡng; Du lịch và các
dịch vụ khác.
RNM không chỉ là nơi cư trú mà còn là nơi cung cấp nguồn dinh dưỡng, hỗ trợ
cho sự tồn tại và phát triển phong phú của các quần thể sinh vật cửa sông ven biển đồng
thời còn là nơi “ương ấp” những cơ thể non của nhiều lồi sinh vật biển, nơi duy trì đa
dạng sinh học cho biển.
Duy trì nguồn dinh dưỡng giàu có đảm bảo cho sự phát triển của các loài sinh vật

ngay trong RNM: RNM không chỉ tạo nên năng suất sơ cấp cao dưới dạng cây rừng mà
hàng năm còn cung cấp một sản lượng rơi rụng khá lớn để làm giàu cho đất rừng và
vùng cửa sông ven biển kế cận. Những sản phẩm này một phần có thể được sửdụng trực
tiếp bởi sớ ít lồi động vật, một phần nhỏ nằm dưới dạng chất hữu cơ hoà tan (DOM)
cung cấp cho một sớ lồi dinh dưỡng bằng con đường thẩm thấu. Phần chủ yếu còn lại
chuyển thành nguồn thức ăn phế liệu hay cặn vẩn (detrit) nuôi sống hàng loạt động vật
ăn mùn bã thực vật vốn rất đa dạng và phát triển phong phú trong các kênh rạch và bãi
triều vùng RNM.
RNM và nghề nuôi trồng hải sản, từ bao đời nay những người dân ven biển đã biết
ni cá, ngao sị ở các bãi triều hoặc kênh rạch trong vùng RNM, gần đây là nuôi tôm
xuất khẩu. Nhưng mãi những năm 1970, các nhà khoa học mới tìm ra mới quan hệ mật
thiết giữa RNM và nguồn lợi hải sản. Những lồi hải sản ni có giá trị kinh tế cao như
tơm, cua… đều có thời gian dài từ hậu ấu trùng đến khi trưởng thành sống trong kênh


3

rạch RNM (tôm) hoặc đào hang dưới gốc cây (cua), sau đó mới ra biển để đẻ. ấu trùng
theo dịng triều trở vào sinh sớng trong RNM. Nếu khơng có RNM và các thảm thực vật
khác ở vùng cửa sông ven biển thì khơng thể có tơm bớ mẹ (để cho sinh sản nhân
tạo).Điều này hình như nhiều người ni hải sản khơng biết nên vẫn tìm mọi cách để
phá RNM.RNM cũng là mơi trường sớng của nhiều lồi hải sản khác như cá vược, cá
măng, cá đối và một sớ lồi thân mềm giá trị kinh tế cao.
Nhiều cơng trình nghiên cứu ở trong và ngồi nước (Odum 1971; Pitodo 1998;
Primavera 2004; Hà và cs 2002; Hằng 2002, Trang và Hằng 2002) cho thấy RNM là nơi
lưu giữ và phân huỷ các chất thải kể cả các hợp chất hữu cơ khó phân huỷ từ nội địa
chuyển ra, các chất ô nhiểm ven biển, như dầu mỏ. Nhờ các vi sinh vật mà các chất này
trở thành chất dinh dưỡng cho nhiều sinh vật khác và môi trường được trong sạch. Khả
năng sinh kháng sinh của nhiều loài vi khuẩn, nấm men, đặc biệt là nấm sợi có hoạt tính
kháng sinh mạnhcó tác dụng ức chế các VSV gây bệnh cho động, thực vật, làm sạch

môi trường bị ô nhiễm ven biển. Trong đất RNM có vi khuẩn Bacillus thuringiensis (Bt)
tạo ra protein tinh thể độc có khả năng tiêu trừ đặc hiệu một sớ lồi cơn trùng gây hại
cho người và động thực vật như các loài sâu róm, sâu tơ, bọ nẹt, ấu trùng muỗi, sớt rét
và sớt xuất huyết.
Về điều hịa khí hậu và tích tụ cacbon, theo Blasco (1975) nghiên cứu khí hậu và
vi khí hậu rừng, đã có nhận xét: các quần xã RNM là một tác nhân làm cho khí hậu dịu
mát hơn, giảm nhiệt độ tối đa và biên độ nhiệt. Hệ sinh thái RNM giúp cân bằng O 2 và
CO2 trong khí quyển, điều hồ khí hậu địa phương (nhiệt độ, lượng mưa) và giảm thiểu
khí nhà kính. Theo Lê Xuân Tuấn và cs, 2005, hàm lượng CO2 của nước ở trong rừng
(7,38mg/l) thấp hơn nơi khơng có rừng (7,63mg/l). Lượng cacbon tích tụ trên bề mặt
đến độ sâu 100cm khoảng từ 71-82 tấn các bon/ha (Hà và cs, 2004). Nhờ các tán lá hút
CO2 mạnh nên hàm lượng khí CO2 nơi có rừng giảm mạnh, qua đó làm cho pH của nước
phù hợp với điều kiện sống của thủy sinh vật.
Về hạn chế xâm nhập mặn, khi có RNM thì quá trình xâm nhập mặn diễn ra chậm
và phạm vi hẹp vì khi triều cao, nước lan toả vào trong những khu RNM rộng lớn; hệ
thống rễ dày đặc cùng với thân cây đã làm giảm tớc độ dịng triều, tán cây hạn chế tớc
độ gió. Khi mất rừng, dịng triều và gió đơng bắc đưa nước mặn vào sâu kèm theo sóng


4

đã gây ra xói lở bờ sơng và cả các chân đê. Mặt khác nước mặn sẽ thẩm thẩu qua thân
đê vào đồng ruộng khiến cho năng suất bị giảm, tình trạng thiếu nước ngọt ảnh hưởng
đến sản xuất và sử dụng trong sinh hoạt (Phan Nguyên Hồng, 1997).
Về giảm thiểu tác hại của sóng, bão lụt, các dải RNM phịng hộ ven biển đã có tác
dụng rất lớn trong việc làm giảm thiểu tác hại của sóng do bão gây nên, nhờ thế đã bảo
vệ được các đê biển trong các cơn bão lớn, qua đó tài sản và sinh mạng của cộng đồng
ven biển cũng được bảo vệ an toàn. Với chiều rộng rừng Trang 1,5 m ở Thuỵ Hải, Thái
Bình, độ cao của sóng giảm từ1m x́ng 0,05m, cịn nếu khơng có rừng chỉ giảm x́ng
0,75 m (Mazda và cs, 1997). Những số liệu đo đạc về độ cao và cường độ sóng của Vũ

Đồn Thái, 2005 trong các thời kỳ có bão lớn (bão sớ2, sớ 6 và số 7, 2005) tại một số
rừng trồng ở Hải Phịng cho thấy, nơi có RNM trồng thì đê khơng bị vỡ hay xói lở. Ví
dụ trong cơn bão sớ 7 (29/9) khi sóng đi qua rừng trang (5 - 6 tuổi) rộng 650m ở xã Bàng
La-Đồ Sơn, độ cao của sóng giảm từ 1,4m cịn 0,2m (giảm 86%); Độcao của sóng cách
rừng bần chua ở xã Vinh Quang-Tiên Lãng rộng 920m là 1,5m, khi qua rừng đó, độ cao
của sóng chỉ cịn 0,35m (giảm 77%). Có rất nhiều thực tế chứng minh vai trò bảo vệ đê
điều của RNM. Ví dụ khi cơn bão sớ 7(29/9/2005) vào bờ biển Thái Thuỵ, Thái Bình,
hơn 5km bờ đê q́c gia ở xã Thái Đơ chưa được bê tơng hố khơng bị sứt mẻ, trong lúc
650m đê còn lại của xã đó ở xóm Tân Bồi chưa có RNM bảo vệ thì bị xói lở nghiêm
trọng.
Những phát hiện đầu tiên về mối quan hệ giữa RNM và hải sản, trước năm 1969,
trong số hơn 5000 thư mục nghiên cứu RNM thế giới (Rollet, 1981) chưa có một tài liệu
nào đề cập đến vai trị của RNM đới với hải sản. W.E. Odum là nhà khoa học người Mỹ
đầu tiên tìm ra chuỗi thức ăn trong dòng năng lượng ở vùng cửa sơng Nam Florida khi
trình bày luận án tiến sĩ ở trường Đại học Miami (1969). Sau đó, Odum cùng với Heald
(1972), Snedaker và Lugo (1973) tiếp tục công bố một sớ tài liệu về vai trị của mùn bã
thực vật trong mạng lưới thức ăn của quần xã RNM vùng cửa sông.
Odum mô tả lá của cây RNM rụng xuống, qua quá trình phân hủy chuyển thành
các mẩu nhỏ được các động vật sử dụng làm thức ăn, và sau khi ra khỏi ớng tiêu hóa,
một lần nữa chúng lại bị các động vật khác sử dụng (động vật ăn phân). Đến lượt mình,


5

các động vật này lại làm mồi cho những động vật lớn hơn là các loài cá kinh tế, chim,
rái cá, người.
Từ 1975, Hệ thống thông tin về khoa học ở nước và nghề cá (ASFIS) của Liên
Hợp Quốc ra đời, cung cấp thơng tin về nhiều cơng trình nghiên cứu có giá trị trong lĩnh
vực này.
RNM cịn là nơi cung cấp thức ăn cho các loài hải sản, nguồn thức ăn đầu tiên,

phong phú và đa dạng cung cấp cho các loài hải sản là xác hữu cơ thực vật dạng hạt,
hoặc còn gọi là mùn bã hữu cơ, đó là sản phẩm của q trình phân hủy xác thực vật, bao
gồm: lá, cành, chồi, rễ… của các cây ngập mặn. Theo Snedaker (1978), lượng lá rơi của
cây RNM ở nam Florida là 10.000 – 14.000 kg khô/ha/năm. Kết quả nghiên cứu ở rừng
đước Cà Mau cho thấy năng suất lượng rơi là 9.719,9 kg/ha/năm, riêng lá chiếm 79,71%.
Hàng năm, rừng đước Cà Mau cung cấp cho hệ sinh thái RNM ở đây 8.400 – 12.000 kg
lá/ha/năm (tính theo trọng lượng khơ) (Trí, Hồng, 1984).
Quanh năm lá rơi x́ng kênh rạch và trên sàn rừng, rồi lại được nước triều mang
đi; quá trình phân hủy cũng diễn ra liên tục, kể cả mùa khơ, mùa mưa.
Khi lá cịn ở trên cây đã có một sớ lồi nấm sớng trên đó, một sớ chui sâu vào
biểu bì, một sớ sớng trên mặt lá. Khi lá rụng xuống, sau 24 giờ ngập nước triều đầu tiên,
lá đã bị các vi sinh vật phân hủy, lúc đầu là chi Phytophora thuộc lớp Nấm tảo
(Phycomycetes), rồi đến Fusarium và Penicillium thuộc lớp Nấm bất toàn (Fungi
imperfecti). Sau tuần thứ 2 và thứ 3 các nấm tảo nhường chỗ cho các loài vi sinh vật
khác như nấm phân huỷ xenlulô (Zelerion và Lulnorthia). Tất cả các mơ xớp được phân
huỷ nhanh nhất, cịn các hợp chất xenlulô và lignin bị phân huỷ cuối cùng. Trong quá
trình phân huỷ, lượng đạm trên các mẩu lá tăng 2 – 3 lần so với ban đầu (Kaushik và
Hynes, 1971). Năm 1977, Untawale và cs. ở Viện Hải dương học Ấn Độ đã nghiên cứu
sự biến đổi của các thành phần hố học của lá mấm lưỡi địng (Avicennia officilalis) từ
khi còn non cho tới khi lá bị phân huỷ, thấy hàm lượng protein tăng lên rất cao.
Khi phân tích, so sánh các loại acid amin có trong lá tươi và lá phân huỷ,
Casagrade (1970) đã thấy sự tăng tổng sớ các acid amin có protein và khơng protein trên
bề mặt lá và trong thành phần lá phân hủy cao hơn hẳn lá tươi. Một số acid amin không
protein như α – aminobyturic, α, γ diaminnobutyric và α, ε diamino pimonic cùng các


6

loại acid citruline, ortrithine, cysteic là các sản phẩm được tạo ra trong quá trình trao đổi
chất của vi sinh vật.

Nghiên cứu thành phần và vai trò của vi sinh vật trong RNM huyện Giao Thủy và
Nghĩa Hưng (Nam Định), các cán bộ của MERC và Bộ môn Công nghệ sinh học và vi
sinh - Đại học Sư phạm Hà Nội (2002) cũng đã tìm ra nhiều chủng vi sinh vật phân hủy
mùn bã trong đất.
VSV trong đất và RNM bao gồm vi khuẩn, nấm sợi, nấm men và xạ khuẩn đều có
khả năng phân huỷ các hợp chất ở lớp đất mặt như tinh bột, xenlulôzơ, pectin, gelatin,
casein, kitin có trong xác động vật và thực vật và một số hợp chất phức tạp hơn như
cacboxin methyl xenlulôzơ (CMC), các chất lighnoxenlulơzơ ở các mức độ khác nhau
và khống hoá nhanh các chất này nhờ khả năng sinh các enzym ngoại bào mạnh như
xenlulaza, amylaza, proteinaza, kitinaza.
Một số nấm sợi phân giải được các hợp chất phớt pho khó tan. Chúng phân huỷ
các mùn bã cây ngập mặn tại chỗ, cung cấp nguồn thức ăn cho khu hệ động thực vật
RNM rất phong phú ở các kênh rạch và vùng biển nông.
Khi nghiên cứu về vi sinh vật (VSV) ở miền nam Thái Lan, Chalermpongse (1989)
đã phát hiện 59 loài nấm tham gia phân hủy vật rơi rụng của cây ngập mặn ở Ranong.
Bên cạnh đó, những chất thải rắn trong sinh hoạt, y tế, công nghiệp, nông nghiệp
cùng với các hoá chất dư thừa từ nội địa theo sông ra RNM được giữ lại và nhờ VSV
phân huỷ, biến chúng thành thức ăn cho hệ sinh vật ở đây và làm trong sạch nước biển.
Người ta đã ví RNM là quả thận khổng lồ lọc các chất thải cho môi trường vùng ven
biển.
Bên cạnh vi sinh vật, giun trịn cũng tham gia tích cực trong q trình phân hủy.
Sớ liệu của Nguyễn Chung Tú (1984) cho thấy có 264 cá thể giun tròn trên 1 lá đước
đang phân hủy, cịn trên lá mới rụng chỉ có 5 cá thể. Trong thời gian lá bị phân hủy thành
các mẩu vụn nhỏ, trên mặt mỗi mẩu vụn này được bọc 1 lớp áo vi sinh vật. Đây là đơn
vị dinh dưỡng có hàm lượng protein cao, và cũng là cơ sở cho chuỗi thức ăn phân hủy
ở các mức độ khác nhau, đặc biệt là các động vật ăn mùn bã như thân mềm, cua, giun
nhiều tơ và một số loài cá.


7


RNM không những là nguồn cung cấp thức ăn mà cịn là nơi cư trú, ni dưỡng
con non của nhiều lồi thủy sản có giá trị, đặc biệt là các lồi tơm sú, tơm biển xuất
khẩu. Trong vịng đời của một sớ lớn các lồi cá, tơm, cua… có một hoặc nhiều giai
đoạn bắt buộc phải sống trong các vùng nước nơng, cửa sơng có RNM. Ví dụ điển hình
là vịng đời của lồi tơm thẻ (Penaeus merguiensis). Lồi tơm này có tập tính đẻ ở biển,
cách xa bờ chừng 12 km (Ong và cs., 1980), do tác động của dòng nước và thay đổi của
nước triều, sau khi trứng thụ tinh, ấu trùng chuyển vào vùng nước ven bờ, bơi dần vào
cửa sơng theo nước triều lên, thường tìm những vùng nước nơng có giá bám như bụi cỏ,
rễ cây…, sau đó đi sâu vào kênh rạch RNM. Chúng sinh trưởng và phát triển ở đó cho
tới khi thành thục, thường từ 3 – 4 tháng. Ở giai đoạn trưởng thành thì chúng lại bắt đầu
di cư ra biển để đẻ. RNM ở đây vừa là nơi bảo vệ vừa là nơi ni dưỡng con non.
Cá đới cũng có tập tính đẻ ngồi biển, sau đó con non theo nước triều đi vào kênh
rạch RNM, thức ăn chủ yếu là mùn bã hữu cơ phân hủy từ cây RNM. Người ta thường
gặp từng đàn cá đới, có khi với số lượng rất lớn trong các kênh rạch RNM.
Jeyaseelan (1998) đã điều tra, nghiên cứu, mô tả đặc điểm sinh học, sinh thái, phân
bố địa lý và nơi đánh bắt của 57 lồi cá đẻ trứng và có ấu trùng sớng trong vùng kênh
rạch RNM châu Á, trong sớ đó chúng tơi đã liệt kê được 39 lồi tìm thấy ở Việt Nam
(Hồng (chủ biên), 1999).
Với vai trò vừa là nơi bảo vệ, nuôi dưỡng con non, con giống vừa cung cấp thức
ăn, RNM đóng góp một cách đáng kể vào sản lượng thủy sản.
Hệ sinh thái RNM được coi là hệ sinh thái có năng suất sinh học rất cao, đặc biệt
là nguồn lợi thủy sản. Người ta ước tính trên mỗi hecta RNM năng suất hàng năm là
91kg thủy sản (Snedaker, 1975). Riêng đới với các lồi tơm, cá, cua… sống trong RNM,
hàng năm thu hoạch khoảng 750.000 tấn. Trong năm 1978, Indonesia đánh bắt được
550.000 tấn cá trực tiếp có quan hệ với RNM cửa sơng (Salm, 1981).
Những nghiên cứu mới đây ở Indonesia cũng cho thấy mới quan hệ mật thiết giữa
những vùng cửa sơng có RNM và sản lượng đánh bắt tôm thẻ xuất khẩu ở ven biển.
Người ta tính bình qn trên mỗi hecta đầm lầy RNM cho năng suất hàng năm là 160
kg tôm xuất khẩu (Chan, 1986).



8

Nếu tính cả các lồi hải sản đánh bắt được ở các vùng ven biển, cửa sơng có RNM
hoặc liên quan với RNM thì sản lượng lên tới 925.000 tấn, tức là tương đương với 1%
tổng sản lượng thủy sản đánh bắt được trên toàn thế giới.
Theo Ronnback (1999), mỗi năm 1ha RNM có thể tạo ra 13-756kg tơm thuộc họ
Tơm he có giá trị 91-5.292 đơ la Mỹ (USD), 13-64kg cua bể với số tiền tương ứng là
39-352 USD, 257-900kg cá qui ra tiền là 475-713 USD, 500-979kg ốc, sò với giá trị
tương ứng là 140-274 USD.
Theo Talbot và Wilkenson (2001) với 40.000ha RNM được quản lý tốt ở phía tây
Malaysia đã hỗ trợ cho ngành thuỷ sản 100 triệu USD, mỗi hecta thu 2.500 USD/năm.
Cứ 1km dải RNM là đường viền bờ biển ở vịnh Panama cũng thu hoạch được 85.000
USD từ đánh bắt tôm, cá và các giáp xác khác. Còn ở Thái Lan, mỗi năm 1ha RNM cho
thu hoạch 1000 USD từ nghề cá và sản phẩm của rừng (Midas, 1995).
Sản lượng tôm đánh bắt được trong những vùng có liên quan với RNM ở Australia
vào năm 1979 – 1980 là 22.000 tấn tươi (Bant, 1987).
Nhiều kết quả nghiên cứu cho rằng việc đánh bắt thủy sản có năng suất cao chủ
yếu ở các vùng nước nơng, ven bờ, cửa sơng; có thể giải thích: vùng này là nơi tập trung
các chất dinh dưỡng do sông mang từ nội địa ra và do nước triều đem từ biển vào. Có
một mới liên quan mật thiết giữa sản lượng và các loại thủy sản đánh bắt được ở RNM.
Ở miền tây Australia, người ta đánh giá là 67% tồn bộ các lồi thủy sản có giá trị
thương mại đánh bắt được đều phụ thuộc vào RNM ở cửa sơng. Hamilton và Snedaker
(1984) cho rằng 90% các lồi sinh vật biển sống ở vùng cửa sông RNM trong śt một
hoặc nhiều giai đoạn trong chu trình sớng của chúng; đới với nhiều lồi thủy sản mới
quan hệ đó là bắt buộc.
Bản thân RNM đã là một hệ thống ni trồng hải sản tự nhiên, nó lại cung cấp vật
liệu làm nhà, nhuộm lưới, làm dụng cụ đánh bắt trong nghề cá, đồng thời cung cấp
nguyên vật liệu xây dựng làm nơi ở cho làng đánh cá. Có thể nói RNM đã cung cấp

những cơ sở tới thiểu từ đầu đến cuối cho ngành đánh cá ở vùng ven biển.
Trước đây, nhiều người nuôi hải sản cho là cây ngập mặn gây hại cho các đầm
tơm, cá vì lá cây làm thối nước (trong khi nguyên nhân thực là do ít cớng, khơng thay


9

được nước triều đều) nên họ đã chặt phá cây ngập mặn không thương tiếc. Hậu quả là
nhiều bờ đầm bị vỡ khi có sóng gió mạnh, năng suất giảm nhanh. Đến nay, qua thực tế
và công tác truyền thông của Trung tâm Nghiên cứu Hệ sinh thái Rừng ngập mặn
(MERC), nhận thức của những người nuôi ở một số tỉnh ven biển miền Bắc Việt Nam
về tác dụng của RNM đã được nâng lên đáng kể.
Điều mà không ai phủ nhận được là RNM đã bảo vệ rất có hiệu quả các đầm ni
tơm, cua. Có thể lấy 1 ví dụ: Tháng 8 năm 1996, khi cơn bão sớ 2 đổ bộ vào Thái Bình,
các đầm tơm, đầm cua của Thuỵ Hải, Thuỵ Xuân và Thuỵ Trường được bảo vệ tớt nhờ
có RNM, trong lúc hầu hết các đầm ở Nam Phú, Nam Thịnh, Nam Hưng thuộc huyện
Tiền Hải đều bị sạt lở bờ, có một sớ đầm vỡ bờ và người nuôi tôm mất hết vốn do RNM
bị phá.
Sức khoẻ của tôm ở những đầm tôm quảng canh gần RNM hoặc trồng cây ngập
mặn ở xung quanh bờ tớt hơn các đầm trớng trải vì cây ngập mặn che bóng cho một
phần đầm nên khi trời nắng nóng nhiệt độ nước không quá cao, lượng nước bốc hơi cũng
ít hơn đầm khơng có cây. Nhờ đó mà độ mặn không tăng nhiều gây sốc cho tôm. Các
hàng cây này cũng cung cấp một lượng đáng kể mùn bã hữu cơ cho các động vật sống
trong đầm.
Những hộ nuôi cua ở ven biển Bắc Bộ đều có một nhận định chung là từ khi có
RNM trồng, nguồn cua giớng vào nhiều nên rất thuận lợi cho việc thả cua trong các đầm
ni và giá hạ chỉ cịn bằng 1/2-1/3 so với giá mua trước đó.
Đới với các đầm ni bán thâm canh và thâm canh, tuy sử dụng con giớng nhân
tạo nhưng nguồn tơm, bớ mẹ đều có quan hệ mật thiết với RNM. Trong vịng đời của
tơm sú, tơm he, các lồi cua có một giai đoạn dài từ hậu ấu trùng đến cơ thể trưởng thành

sống trong các kênh rạch có RNM sau đó mới ra biển để đẻ. Do đó mất RNM thì nguồn
tơm bớ mẹ và cua giớng cũng khơng cịn.
RNM đóng vai trị xử lý các chất phế thải từ đầm tôm. Một trong những vấn đề
gay cấn của nghề nuôi tôm nước lợ là làm thế nào để hạn chế tác hại của các chất phế
thải do thức ăn thừa, phân tôm, vỏ tôm từ các đầm đối với môi trường trong và ngoài
đầm. Những chất này tạo điều kiện cho các loài vi sinh vật gây bệnh tôm phát triển mạnh


10

trong đó nguy hiểm nhất là các lồi vi khuẩn phát sáng (Vibrio sp.) làm cho tôm chết
hàng loạt (Pitogo và cs 1998).
Kết quả nghiên cứu của Ban Nuôi trồng Thuỷ sản (AQD) thuộc Trung tâm Phát
triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) (2004) cho thấy khả năng xử lý các phế thải
từ các đầm tôm của RNM là rất lớn. 90% nitrogen được vi khuẩn chế biến trong RNM,
trong lúc đó các rễ cây vận chuyển đến 90% lượng ơxy do vi sinh vật khống hố.
Ngồi nguồn lợi tơm, RNM cịn cung cấp thức ăn và giớng cho nghề ni sị lơng,
sị huyết, vạng (nghêu). Đây là nguồn hải sản có giá trị xuất khẩu đứng thứ hai sau tôm.
RNM cung cấp thức ăn xác hữu cơ thực vật cho sò nên trên bề mặt bùn các kênh rạch
RNM có rất nhiều sị con, kích thước 6 – 15 mm vào các tháng 2 và 3. Nếu chỉ đánh bắt
tự nhiên trong vùng RNM thì năng suất sị cũng có thể đạt tới 500 – 750 kg/ha/năm. Nếu
biết tận dụng nguồn giớng tự nhiên để ni sị thì năng suất lên tới 200 – 250 tấn/ha. Chỉ
tính riêng năm 1982, Malaysia đã đạt sản lượng 38.500 tấn và thu 28,5 triệu đơ la
Malaysia. Ở Việt Nam, nhờ có RNM phục hồi mà lượng nghêu giống ở Bến Tre, Trà
Vinh và Sóc Trăng trong những năm gần đây đều tăng nhanh, tạo nguồn thu nhập lớn
cho dân địa phương.
Trong những năm vừa qua, nghề nuôi ngao, vạng ở ven biển Thái Bình, Nam Định
và miền Tây Nam Bộ phát triển mạnh, thu nhập cao và nhiều người giàu lên rất nhanh.
Đó là nhờ có nguồn thức ăn phong phú là mùn bã từ RNM được nước triều chuyển ra
các bãi nuôi.

2. Tổng quan về nghiên cứu đa dạng thực vật ngập mặn ở Việt Nam
2.1. Diện tích rừng ngập mặn Việt Nam
Theo kết quả kiểm kê rừng tồn q́c (theo Quyết định sớ 03/2001/QĐ/TTg của
Thủ tướng Chính phủ ký ngày 5/1/2001) công bố tháng 7/2001 do Viện Điều tra Quy
hoạch Rừng tiến hành, diện tích rừng ngập mặn (RNM) Việt Nam tính đến ngày
21/12/1999 là 156.608ha. Trong đó, diện tích RNM tự nhiên là 59.732ha chiếm 38,1%
và diện tích RNM trồng là 96.876ha chiếm 61,95%. Trong sớ diện tích RNM trồng ở
Việt Nam, rừng đước (Rhizophora apiculata) trồng chiếm 80.000ha (82,6%), còn lại


11

16.876ha là rừng trồng trang (Kandelia obovata), bần chua (Sonneratia caseolaris) và
các loại cây ngập mặn trồng khác (17,4%) (Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, 2001).
Cho đến nay, các số liệu thớng kê về diện tích RNM ở Việt Nam khơng thớng nhất.
Kết quả thớng kê diện tích rừng ngập mặn từ các tỉnh ven biển Việt Nam tập hợp lại
(Sâm và cs. 2005), tính đến tháng 12/2001 thì Việt Nam có tổng diện tích RNM khoảng
155.290ha, chênh lệch 1.318ha so với sớ liệu kiểm kê rừng tồn q́c tháng 12/1999
(156.608ha). Trong đó, diện tích RNM tự nhiên chỉ có 32.402ha chiếm 21%, diện tích
RNM trồng 122.892ha chiếm 79%.
2.2. Phân bố địa lý rừng ngập mặn ven biển
Dựa vào các yếu tố địa lý, khảo sát thực địa và một phần kết quả ảnh viễn thám,
Phan Nguyên Hồng (1991) đã chia RNM Việt Nam ra làm 4 khu vực và 12 tiểu khu.
-

Khu vực I: Ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn

-

Khu vực II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ, từ mũi Đồ Sơn đến mũi Lạch Trường


-

Khu vực III: Ven biển Trung Bộ: Từ mũi Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu

-

Khu vực IV: Ven biển Nam Bộ, từ mũi Vũng Tàu đến mũi Nải, Hà Tiên.

Khu vực I được chia làm 3 tiểu khu:
-

Tiểu khu 1: Từ Móng Cái đến Cửa Ơng, bờ biển dài khoảng 55 km. Tiểu khu này
gồm lưu vực cửa sông KaLong, lưu vực vịnh Tiên Yên – Hà Cối và vùng ven bờ
cửa sông Tiên Yên – Ba Chẽ.

-

Tiểu khu 2: Từ Cửa Ông đến Cửa Lục (dài khoảng 40km)

-

Tiểu khu 3: Từ Cửa Lục đến mũi Đồ Sơn (dài khoảng 55 Km)

Khu vực II: được chia làm 2 tiểu khu:
-

Tiểu khu 1: Từ mũi Đồ Sơn đến cửa sông Văn Úc.

-


Tiểu khu 2: Từ cửa sông Văn Úc đến cửa Lạch Trường, nằm trong khu vực bồi tụ
của hệ sông Hồng

Khu vực III: được chia thành 3 tiểu khu:
-

Tiểu khu 1: Từ Lạch Trường đến Mũi Ròn


12

-

Tiểu khu 2: Từ mũi Ròn đến mũi đèo Hải Vân

-

Tiểu khu 3: Từ mũi đèo Hải Vân đến mũi Vũng Tàu

Khu vực IV: Ven biển Nam Bộ được chia thành 4 tiểu khu:
-

Tiểu khu 1: từ mũi Vũng Tàu đến cửa sơng Sồi Rạp (ven biển đơng Nam Bộ)

-

Tiểu khu 2: Từ cửa sơng Sồi Rạp đến cửa sơng Mỹ Thanh (ven biển đồng bằng
sông Cửu Long)


-

Tiểu khu 3: Từ cửa sông Mỹ Thanh đến cửa sông Bảy Háp (tây nam bán đảo Cà
Mau)

-

Tiểu khu 4: Từ cửa sông Bảy Háp (mũi Bà Quan) đến mũi Nãi – Hà Tiên (bờ biển
phía tây bán đảo Cà Mau)

2.3. Đa dạng cây ngập mặn và bán ngập mặn
Theo Phan Nguyên Hồng (1991), khi nghiên cứu RNM tại khu vực Tiên Yên,
Quảng Ninh ghi nhận hệ thực vật có 16 lồi cây chủ yếu thuộc 14 họ và 34 loài tham
gia RNM thuộc 17 họ. Phan Nguyên Hồng (2004) khi nghiên cứu RNM vùng Đông
Nam Bộ (cụ thể là Cần Giờ) đã thớng kê được 72 lồi trong đó 30 lồi ngập mặn thực
sự và 42 loài tham gia RNM.
Theo Phan Nguyên Hồng & cs. (2007). Đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia Xuân
Thủy, Hệ thực vật bậc cao có mạch tại VQG Cát Bà và vùng phụ cận bao gồm 192 lồi
thuộc 145 chi, 60 họ thực vật phân bớ tại 8 kiểu quần xã thực vật đặt thù cho các điều
kiện sớng khác nhau. Lớp Hai lá mầm có sớ lồi, chi và họ nhiều nhất, 123 lồi (chiếm
67,4% tổng sớ lồi) thuộc 47 họ. Ngành Dương xỉ có sớ lồi chiếm tỷ lệ ít nhất, 8 lồi
(4,3%) thuộc 6 chi của 5 họ. Các loài thuộc lớp Một lá mầm mặc dù chỉ có 51 lồi
(chiếm 28,3%) thuộc 8 họ nhưng chúng là những lồi có sớ lượng cá thể lớn trong các
bãi cỏ, ngập nước triều định kỳ hoặc triều cao. Trong sớ lồi trên có 12 loài cây ngập
mặn chủ yếu (true mangroves), 36 loài tham gia RNM, sớ cịn lại là những lồi thực vật
nội địa được phát tán vào vùng RNM hoặc sống ở bờ đê, chịu ảnh hưởng của gió mặn.
Theo Đào Văn Tấn và cộng sự (2005) khi nghiên cứu RNM khu vực miền trung
(cụ thể là Nga Sơn và Diễn Châu) đã thớng kê được 26 lồi thực vật thuộc 22 chi và 15
họ phân bố trong rừng ngập mặn huyện Nga Sơn, trong đó có 8 lồi cây ngập mặn chủ



13

yếu (thực sự) và 18 loài là cây tham gia rừng ngập mặn. Thớng kê các lồi thực vật
huyện Diễn Châu, xác định 40 loài thuộc 37 chi trong 23 họ thực vật có mạch trong đó
có 9 lồi cây ngập mặn chủ yếu (thực sự) và 31 loài là cây tham gia và di cư vào rừng
ngập mặn.
2.4. Các nguyên nhân chủ yếu gây suy thoái rừng ngập mặn
2.4.1. Đắp đầm nuôi, trồng hải sản
Việc giao đất, giao rừng để nuôi trồng thuỷ sản trong những năm trước đây được
thực hiện một cách ồ ạt khơng có quy hoạch có thể được xem là ngun nhân chính làm
suy thối hệ sinh thái RNM cả về diện tích và chất lượng của rừng. Việc phá rừng ngập
mặn làm đầm tôm trước mắt có thể đem lại lợi nhuận hàng trăm tỉ đồng mỗi năm, nhưng
hậu quả thì rất khó đánh giá. Mất rừng ngập mặn sẽ đẩy mạnh sự xâm nhập nước mặn
vào đất liền, thúc đẩy q trình xói lở, gây ô nhiễm đất và nguồn nước. Mặt khác, do
đặc điểm của đất một số vùng sau những năm đầu đầm có năng suất cao nhưng sau một
thời gian đầm bị thối hóa, chủ yếu do hết dần thức ăn nên đầm bị bỏ hoang. Điều này
phát triển đặc biệt mạnh ở các tỉnh đổng bằng sông Cửu Long, chỉ riêng tỉnh Cà Mau,
giai đoạn 1983 đến năm 1999 đã có hơn 53.000 ha RNM bị mất để đắp đầm nuôi trồng
thủy sản
2.4.2. Quai đê lấn biển
Quai đê lấn biển là một hoạt động kinh tế thường xuyên của các tỉnh ven biển
châu thổ Sông Hồng. Khi châu thổ tiến ra biển, vùng đất chân đê ngày một nâng cao,
biển càng ngày càng lùi xa. Nông dân vùng châu thổ lại đắp thêm một vòng đê để mở
mang diện tích đất nơng nghiệp. Trước đây đã có những đợt đắp đê lấn biển lớn như
Nguyễn Công Trứ thực hiện vào những năm 1820 của thế kỷ 19 lập nên các huyện Tiền
Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) nổi tiếng trong lịch sử. Tuy nhiên, trước đây việc
quai đê lấn biển xảy ra từ từ khi điều kiện đã chín muồi thì nay do áp lực tăng dân sớ,
việc quai đê lấn biển đã xảy ra thường xuyên hơn, ảnh hưởng mạnh đến diện tích RNM
vùng ven biển. Các tỉnh miền Nam cũng đã có những q trình tương tự. Ví như, từ năm

1976 – 1982 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu đã giao 26.300 ha đất ngập mặn cho nhân dân địa
phương và đồng bào Nam Định – Ninh Bình đi xây dựng vùng kinh tế mới để sản xuất
nơng nghiệp nhưng đất vẫn bị sì mặn do đó diện tích đất khai hoang vào rừng ngập mặn


14

để sản xuất nông nghiệp này chỉ sau một thời gian ngắn 26300 ha khai hoang lại phải
bỏ hoang (Phan Ngun Hồng, 1999).
2.4.3. Lấy đất RNM làm các cơng trình dân dụng
Vùng đất ven biển quanh các đô thị lớn, các tỉnh ven biển có diện tích dùng cho
các cơng trình dân dụng hạn chế như Quảng Ninh, Hải Phịng,... đã tận dụng vùng đất
thấp ven biển, nơi có RNM để san lấp xây dựng các khu đô thị mới, các cơng trình cơng
nghiệp như khu chế xuất, các nhà máy, xí nghiệp, các cảng biển, ... Điều này khá phổ
biến ở Quảng Ninh như Cái Dăm, Cái Lân, Bãi Cháy, Hạ Long, Cẩm Phả; ở Hải Phòng
như Nhà máy đóng tàu Nam Triệu, Khu cơng nghiệp Đình Vũ, sắp tới là Sân bay Tiên
Lãng. Ở miền Nam, các hoạt động tương tự xảy ra rất mạnh dọc con sông Thị Vải với
các cầu tàu, bến cảng, nhà máy, xí nghiệp (Katrien Van De Sijpe và cs, 2006).
2.4.4. Khai thác gỗ, củi từ RNM

Việc chặt phá cây rừng ngập mặn để lấy củi, gỗ của người dân ven biển từ Bắc đến
Nam làm ảnh hưởng khơng nhỏ tới diện tích và chất lượng rừng. Điều này đặc biệt quan
trọng đối với các vùng đất nghèo phù sa, mùn bã hữu cơ, cây phát triển khơng tớt dẫn
đến xói mịn lớp phù sa tầng mặt, làm đất thối hóa, cây con kém phát triển.
2.4.5. Khai thác các nguồn lợi khác từ RNM
Ngoài khai thác gỗ, củi, rất nhiều nguồn lợi sinh vật khác trong RNM cũng đang
được khai thác mạnh, trong đó nhiều kiểu loại và phương tiện khai thác làm cho RNM
bị suy thối. Trong đó, đáng chú ý hơn cả là:
- Khai thác mật ong tự nhiên: Đồng bào Nam bộ có thói quen đến mùa là vào
RNM, rừng tràm "gác kèo" để ong về làm tổ. Sau một thời gian họ trở lại để khai thác.

Việc nuôi ong mang lại nhiều lợi ích cho cây ngập mặn, giúp cho cây thụ phấn hoa. Tuy
nhiên, khi khai thác người ta thường đốt lửa để xua ong, khi không cẩn thận thường gây
ra cháy rừng. Những đợt cháy rừng như vậy gây tác hại rất lớn cho rừng nói chung và
RNM nói riêng.
- Khai thác Sá sùng, Bơng thùa: Việc khai thác Sá sùng, Bông thùa thường phải
đào bới trong RNM. Việc đào bới đó sẽ làm đứt rễ cây ngập mặn làm cho cây phát triển
kém. Nhiều nơi còn đào cả cây ngập mặn lên để dễ thu Sá sùng. Ngồi Sá sùng, Bơng


15

thùa, một số đối tượng khác cũng sống trong các hang, hốc trong RNM như cá Nhệch
cũng bị khai thác như vậy đã góp phần làm suy thối RNM.
2.4.6. Ảnh hưởng do ô nhiễm nguồn nước
Vấn đề quan trọng hiện nay và trong tương lai là ô nhiễm nguồn nước đối với hệ
sinh thái vùng triều ở Việt Nam, trong đó có rừng ngập mặn đáng để chúng ta quan tâm.
Hằng năm theo các hệ thớng sơng, có hàng ngàn tấn chất thải được đổ ra các vùng biển
Việt Nam, gây ra bồi tụ trầm tích, cây chết do tắc nghẽn rễ, gây đảo lộn trầm tích trong
hệ sinh thái rừng ngập mặn, tích lũy cát ở cửa sơng, nạo vét làm biến dạng điều kiện gây
ảnh hưởng tới RNM, sự ô nhiễm nặng nề cho vùng biển ven bờ, ảnh hưởng nghiêm trọng
tới ngành nuôi trồng thủy hải sản.
Thải lượng do các hệ thống sông của Việt Nam đổ ra biển hàng năm được đề tài
cấp Nhà nước KT.03.07 thớng kê cho thấy cho thấy, ở các tỉnh phía nam có hệ thớng
sơng Sài Gịn - Đồng Nai và Mê Kơng là có thải lượng lớn, đặc biệt là các thông số về
NO3; PO4 và Cu. Với thải lượng như vậy thì khơng chỉ RNM mà cịn các đới tượng khác
trong các hệ sinh thái ven biển cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ. Và các thải lượng này có
thể góp phần gây ra các hiện tượng ơ nhiễm khác nhau, biểu hiện rõ nét ở các hiện tượng
ô nhiễm sau:
- Ơ nhiễm dầu: ơ nhiễm dầu đã xuất hiện ở các vùng triều của sơng có cảng, như
cảng Hải Phịng, Sài Gịn, Vũng Tàu, Hịn Gai…

Ơ nhiễm dầu tạo ra nhiều tác động khác nhau lên hệ sinh thái rừng ngập mặn, đặc
biệt là các sinh vật phân bố trong rừng, sự rụng lá cây ngập mặn, phá vỡ mô của rể cây
ngập mặn hoặc làm chết thảm thực vật ven sông. Một số dạng dầu như diesel và dầu thô
gây hại nhiều hơn cho cây ngập mặn hơn các loại dầu khác. Sự ơ nhiễm dầu được ước
tính sẽ làm mất đi khoảng 28 ha rừng ngập mặn vào năm 2010 và tăng lên 36 ha vào
năm 2020.
- Ô nhiễm do dư lượng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp: Việt Nam là một quốc gia
nông nghiệp. Các nghiên cứu ở cửa sơng Hồng đã phát hiện có 5 chất th́c trừ sâu có
trong nước, trầm tích, sinh vật đáy vùng triều, đó là Lindane, DDT, Endin, DDE, Hepta
Clo.


16

Nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật đã bị cấm sử dụng, nhưng vẫn tồn tại trong nước
ven bờ ở tỉnh Cà Mau. Nhìn chung thì hàm lượng chưa cao nhưng với xu thế phát triển
của nền nông nghiệp tỉnh Cà Mau theo hướng thâm canh thì sự ơ nhiễm nguồn nước do
thuốc bảo vệ thực vật ở vùng ven biển Cà Mau đang ngày càng tăng lên và cần phải hết
sức chú ý.
Trong tương lai cần có những biện pháp phù hợp để ngăn chặn sự ô nhiễm do sử
dụng quá mức thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp.
- Các hóa chất độc hại từ các đầm ni tôm: Ở một số địa phương, những người
nuôi tôm đã thải nước bẩn có hố chất độc từ các đầm tơm ra rừng ngập mặn, làm cho
cây chết. Ví dụ như khu rừng phịng hộ ở hai xã Chí Cơng và Bình Thạnh, huyện Tuy
Phong, Bình Thuận, rừng cây bị chết nhiều do nước thải từ đầm tôm (Nguyễn Nguyên
Vũ, Báo Lao động, số 190 ngày 9-7-2003). Tháng 8-2001 gần 6.000 lồng ni tơm hùm
ngồi khơi làng Xn Tú (Khánh Hồ) bị chết do các đầm ni tơm sú gần đó thải nước
có hố chất độc.
2.4.7. Sức ép dân số gia tăng
Hiện nay có khoảng 80% dân sớ thế giới sống ở vùng ven biển và 60% sống trực

tiếp ở các vùng cửa sông. Việc phá hủy cả rừng ngập mặn và đầm lầy thủy triều để nâng
cao đất xây dựng các khu đô thị, dân cư, bến cảng, sân bay, dịch vụ, v.v. phục vụ cho
nhu cầu phát triển dân cư ven biển là điều gây ảnh hưởng không nhỏ tới hệ sinh thái
rừng ngập mặn và dẫn đến nhiều hậu quả xấu như xói lở, ngập lụt, ơ nhiễm môi trường,
khai thác cạn kiệt nguồn lợi hải sản cũng như suy giảm chất lượng nước trong vùng.
Ở nước ta hiện nay có tới 14% cộng đồng dân cư các huyện ven biển, tức khoảng
gần 2 triệu dân ở 208 xã, vẫn đang ở mức nghèo đói. Chính vì vậy, đa sớ dân cư sớng
ven biển nói chung và ven rừng ngập mặn nói riêng khơng đủ điều kiện kinh tế và kỹ
thuật để thực hiện việc nuôi trồng, khai thác nguồn lợi theo phương thức đảm bảo phát
triển bền vững, cân bằng giữa lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường, nguồn lợi mà họ
luôn luôn phải nghĩ đến lợi ích kinh tế trước mắt, phục vụ cho nhu cầu sinh nhai hàng
ngày của gia đình, do đó việc dùng các hình thức khai thác hủy diệt như xung điện, hóa
chất, lưới mành, cào mé, te, xiệp, lú bát quái, chặt phá rừng khai thác gỗ, củi, đốt than...


17

để khai thác nguồn lợi sẵn có trong mơi trường và RNM là không thể tránh khỏi, gây áp
lực lớn lên hệ sinh thái RNM nói riêng và nguồn lợi và mơi trường ven biển nói chung.
2.4.8. Áp lực và ảnh hưởng từ các tai biến tự nhiên
Hàng năm các hiện tượng tai biến tự nhiên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hệ sinh
thái rừng ngập mặn, đặc biệt hiện nay vấn đề biến đổi khí hậu đang ngày càng làm gia
tăng các hiện tượng thiên tai và chúng ta có thể kể tới các hiện tượng như bảo lũ, xói lở,
cháy rừng…
- Bão lũ:
Ở Việt Nam, trung bình hàng năm có từ 4-6 trận bão từ biển Đơng đổ vào đất liền,
với vận tớc gió 20-40m/giây. Bão ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại của các loại rừng
ngập mặn ven biển và tàn phá các hệ thống đê biển nơi khơng có rừng ngập mặn phịng
hộ.
- Xói lở:

Ở phía Đơng bán đảo Cà Mau có khu vực ven bờ biển Gành Hào sau 27 năm
(1964-1991) đã bị xói lở mất khoảng 7.000 ha, bình quân mỗi năm bờ biển ở đây bị xói
lỡ hơn 259 ha đất. Gây thiệt hại tới diện tích RNM khơng nhỏ. Bình qn bờ biển lấn
sâu vào đất liền từ 5-10m/năm, cực đại đạt tới 15-20m/năm. Ở miền Bắc, hiện tượng
này không phổ biến bằng do các dịng chảy hải dương khơng tác động đến nhưng cục
bộ có chỗ vẫn xảy ra như ở đông bắc huyện Nghĩa Hưng (Nam Định).
- Cháy rừng:
Do thời tiết nắng nóng hàng năm đã xảy ra nhiều vụ cháy rừng thiêu đớt nhiều diện
tích rừng trồng cũng như rừng tự nhiên trong đó có cả những khu rừng ngập mặn, đặc
biệt là rừng ngập mặn tỉnh Cà Mau, gây thiệt hại và ảnh hưởng lớn tới việc bảo vệ tài
nguyên rừng nói chung và rừng ngập mặn nói riêng. Theo thớng kê của sở nơng nghiệp
và phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau cho thấy, năm 2008 đã xảy ra 6 vụ cháy rừng
2.4.9. Áp lực từ quy hoạch phát triển
Việc quy hoạch phát triển cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ
và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển nói chung và hệ sinh thái RNM nói riêng.


×