Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.64 KB, 82 trang )

LỜI CẢM ƠN

..

Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ
của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Với tình cảm sâu sắc, chân thành, cho phép tơi
được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến tất cả các cá nhân và cơ quan đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Trước hết tơi xin gởi tới các thầy cô, giảng viên khoa Luật trường Đại học
Cơng nghệ TP. Hồ Chí Minh lời chào trân trọng, lời chúc sức khỏe và lời cảm ơn sâu
sắc. Với sự quan tâm, dạy dỗ, chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cơ, đến nay tơi đã có
thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp, đề tài: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại có yếu tố nước ngồi”.
Đặc biệt tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thầy Thạc sĩ - Luật sư
Nguyễn Minh Nhựt đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn tơi hồn thành tốt khóa luận tốt
nghiệp này trong thời gian qua.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban Giám hiệu, các Phịng ban chức năng
Trường Đại học Cơng nghệ TP. Hồ Chí Minh đã trực tiếp và gián tiếp giúp đỡ tơi
trong suốt q trình học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm cịn hạn chế của một sinh viên,
khóa luận tốt nghiệp này khơng thể tránh được những thiếu sót. Tơi rất mong nhận
được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cơ để tơi có điều kiện bổ sung, nâng
cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.
Xin chân thành cảm ơn!

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Bùi Quang Đăng


MSSV: 1411270085,

Lớp: 14DLK05, Khoa Luật, Trường Đại học Cơng nghệ TP. Hồ Chí Minh.
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Khóa luận tốt nghiệp chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận tốt nghiệp đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định).
Nội dung trong khóa luận tốt nghiệp này do kinh nghiệm của bản thân được
rút ra từ q trình nghiên cứu và thực tế. KHƠNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu,
báo cáo khác.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ
Khóa luận tốt nghiệp.
Nếu sai sót tơi hồn tồn chịu trách nhiệm theo qui định của Nhà Trường và
Pháp luật.
Xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Bùi Quang Đăng

ii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
BLTTDS
LTM


Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng Dân sự
Luật Thương mại

LTTTM

Luật Trọng tài thương mại

TAND

Tòa án nhân dân

TTTM

Trọng tài thương mại

UNCITRAL
VIAC

United Nations Commission on International Trade Law
Vietnam International Arbitration Centre

iii


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................2

4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................3
5. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp ............................................................................3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ...................................................... 4
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại và yếu tố nước ngoài trong
tranh chấp kinh doanh thương mại ..............................................................................4
1.1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại ................................ 4
1.1.2. Khái quát về yếu tố nước ngoài trong tranh chấp kinh doanh
thương mại .................................................................................................................. 7
1.2. Quy định pháp luật Việt Nam về tranh chấp kinh doanh thương mại và
yếu tố nước ngoài trong tranh chấp kinh doanh thương mại ......................................9
1.2.1. Quy định pháp luật thương mại về tranh chấp kinh doanh
thương mại .................................................................................................................. 9
1.2.2. Quy định pháp luật dân sự về yếu tố nước ngồi có liên quan đến tranh
chấp kinh doanh thương mại. .................................................................................... 13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................19
CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ...................................................................................... 20
2.1. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi bằng
Tịa án nhân dân ........................................................................................................20
2.1.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nhân dân .............. 20
2.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của
Tòa án nhân dân ........................................................................................................ 20
2.1.3. Yêu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố
nước ngồi bằng Tịa án nhân dân ........................................................................... 26
2.1.4. Quy định đặc thù trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
có yếu tố nước ngồi bằng Tịa án nhân dân ............................................................ 27
iv



2.2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài bằng
Trọng tài thương mại .................................................................................................28
2.2.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại ....... 28
2.2.2. Thẩm quyền của Trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài ........................................................... 29
2.2.3. Yêu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố
nước ngồi bằng Trọng tài thương mại .................................................................... 31
2.2.4. Quy định đặc thù trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
có yếu tố nước ngoài bằng Trọng tài thương mại..................................................... 32
2.3. Sự khác biệt giữa phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nhân dân
và Trọng tài thương mại ............................................................................................34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................35
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ BỔ SUNG
HOÀN CHỈNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI ........................................................................................................ 36
3.1. Thực trạng áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
có yếu tố nước ngồi .................................................................................................36
3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam ................................................ 36
3.1.2. Thực trạng giải quyết bằng Tòa án nhân dân .................................... 39
3.1.3. Thực trạng giải quyết bằng Trọng tài thương mại............................. 43
3.2. Kiến nghị bổ sung hoàn chỉnh các quy định pháp luật trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài .........................................48
3.2.1. Kiến nghị bổ sung hoàn chỉnh các quy định pháp luật trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi bằng phương thức
Tịa án nhân dân ........................................................................................................ 49
3.2.2. Kiến nghị bổ sung hoàn chỉnh các quy định pháp luật trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi bằng phương thức
Trọng tài thương mại ................................................................................................ 54

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................56
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 59
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 61

v


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong phát
kinh tế. Để đạt được điều này, Việt Nam đã tích cực thu hút đầu tư nước ngồi nhằm
tranh thủ vốn và công nghệ của các nước tiên tiến. Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế - một xu thế phát triển tất yếu của các nền kinh tế thế
giới. Năm 1993, Việt Nam đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB)... Năm 1995, Việt Nam đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nước
Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA). Với sự gia nhập này, Việt Nam khẳng định được vị trí kinh tế của mình
trong khu vực và trên thế giới. Tháng 3 năm 1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn
hợp tác Á Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập. Tháng 11 năm 1998, Việt
Nam chính thức gia nhập Diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Ngày
11/01/2007, Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất thế giới
WTO sau 12 năm nộp đơn xin gia nhập. Chính vì điều này mà hiện nay các giao dịch
thương mại khơng chỉ tập trung ở trong nước mà cịn lan rộng cả trên thế giới. Khi
các giao kết thương mại diễn ra cũng khó tránh khỏi các tranh chấp thương mại với
một bên là Việt Nam và bên còn lại là nước ngồi.
Trong bối cảnh đó, địi hỏi phải có những phương thức giải quyết tranh chấp
nhanh chóng, hiệu quả. Với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, hiện có rất nhiều
phương pháp giải quyết tranh chấp như thương lượng, hịa giải, thơng qua Tịa án,

thơng qua Trọng tài. Và nhưng phương pháp này đang được xem trọng trên trường
quốc tế. Các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là quốc gia có nền kinh tế phát triển đã
vận dụng rất tốt lợi thế của việc giải quyết tranh chấp thương mại nói chung, và tranh
chấp thương mại có yếu tố nước ngồi nói riêng. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì việc giải
quyết tranh chấp thương mại bằng những phương pháp trên vẫn bộc lộ rất nhiều hạn
chế, bất cập, chưa tạo được niềm tin đối với các nhà kinh doanh, nhất là các doanh
nhân nước ngoài.
Thực tế đó đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu, đánh giá pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam, tìm ra nguyên
nhân của những khó khăn, vướng mắc gặp phải, từ đó đề xuất giải pháp hồn thiện,
góp phần thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước
ngồi một cách hiệu quả, phù hợp với pháp luật Việt Nam.

1


Nhận thức được tầm quan trọng trên của vấn đề, tôi đã chọn đề tài: “Giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi” làm khóa luận tốt nghiệp
cử nhân luật với mong muốn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về thực
tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài, đồng thời chỉ
ra một số hạn chế và đề xuất nhằm phát triển hơn nữa việc giải quyết tranh chấp bằng
những phương thức này tại Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Tính đến nay, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại đã nhận được sự
quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu luật học tại Việt Nam. Đã có khá nhiều cơng
trình nghiên cứu về các quy định pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại, có những cơng trình nghiên cứu đã xuất bản thành sách như: Giải quyết tranh
chấp kinh tế bằng con đường trọng tài (Đặng Thị Bích Liễu, NXB Chính trị quốc gia,
1998); Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới (ThS. Dương Văn
Hậu, NXB Chính trị quốc gia,1999); Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh

tế ở nước ta hiện nay (TS. Đào Văn Hội, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004)…
Hay các bài viết, bài nghiên cứu, luận văn của các chuyên gia, các tác giả như: Điều
khoản trọng tài trong các hợp đồng thương mại quốc tế (Trần Hữu Huỳnh, báo Diễn
đàn doanh nghiệp, số 2, ngày 20/11/1995); Luận văn Thạc sĩ “Giải quyết tranh chấp
hợp đồng thương mại quốc tế bằng Tòa án” của Nguyễn Thị Thoa năm 2009; Luận
văn Thạc sĩ “Pháp luật về thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại ở Việt Nam
– Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Mạnh Cường năm 2012; Luận văn
Thạc sĩ “Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngồi bằng Trọng
tài tại Việt Nam” của Nguyễn Minh Giáp năm 2015;
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, các bài viết về giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau, đặt trong những
bối cảnh và giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình nghiên cứu chủ
yếu tập trung nghiên cứu về giải quyết quyết tranh chấp kinh doanh thương mại khơng
có yếu tố nước ngồi và tính đến thời điểm hiện tại các cơng trình nghiên cứu về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi cịn rất ít. Kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đây về các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại tại Việt Nam, đề tài khóa luận tốt nghiệp tập trung vào nghiên
cứu những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng của việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố
nước ngồi tại Việt Nam có phạm vi rất rộng bởi các tranh chấp kinh doanh thương
2


mại có yếu tố nước ngồi rất phong phú; phương thức giải quyết cũng rất đa dạng. Vì
vậy, với tính chất của đề tài này, đề tài khóa luận tốt nghiệp không nghiên cứu tất cả
các vấn đề về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi mà
chỉ giới hạn ở hình thức giải quyết bằng tố tụng Tòa án và tố tụng Trọng tài. Đồng
thời làm rõ các đặc trưng pháp lý cũng như thực tiễn của quá trình giải quyết tranh

chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
Mác – Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền. Khóa luận chú trọng vận dụng quan điểm
của triết học về phép biện chứng như mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về các
cặp phạm trù cái chung, cái riêng; nội dung và hình thức khi phân tích, đánh giá về
pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước
ngồi.
Bên cạnh đó, để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đặt ra, khóa luận
cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu và khảo
sát thực tiễn.
5. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài khóa
luận tốt nghiệp được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu
tố nước ngoài;
Chương 2. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có
yếu tố nước ngồi theo quy định của pháp luật Việt Nam;
Chương 3. Thực trạng áp dụng và Kiến nghị bổ sung hoàn chỉnh các quy định
pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước
ngồi.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI
1.1. Khái qt về tranh chấp kinh doanh thương mại và yếu tố nước ngồi
trong tranh chấp kinh doanh thương mại

Lịch sử hình thành hoạt động thương mại diễn ra kể từ khi con người bước ra
khỏi hình thái xã hội cơng sản ngun thủy để bắt đầu phát triển đời sống xã hội dưới
hình thái tư hữu về tư liệu sản xuất. Con người, lúc bấy giờ, bắt đầu biết phân chia tài
sản, biết xác lập quyền sở hữu và quan trọng hơn hết là bắt đầu biết trao đổi tài sản
dựa trên giá trị lao động và nhu cầu của các bên. Trong suốt q trình sản xuất, tích
lũy và trao đổi tài sản, các tài sản này đa phần xuất hiện dưới tên gọi là hàng hóa và
việc trao đổi tài sản này cũng không phải nhất thiết là sẽ nhận lại một hàng hóa khác
mà có khi chỉ là nhận lại giá trị hàng hóa thơng qua một cơng cụ giao dịch mới gọi là
tiền. Và chính lúc này đã xuất hiện một bộ phận khác trong xã hội chuyên kết nối nhu
cầu của những người khác nhau, ở những vị trí địa lý khác nhau mà ngày nay gọi là
thương nhân. Thương nhân giúp hàng hóa sản xuất được lưu thông, thương nhân giúp
thỏa mãn nhu cầu vật chất của xã hội. Nhưng không phải tất cả đều diễn ra trôi chảy
và suôn sẻ. Sự khác biệt về địa lý, quốc tịch, tập quán, tư duy…luôn là nguyên nhân
của mọi sự bất đồng trong suốt quá trình đàm phán và giao dịch.
Dưới góc độ pháp lý, tranh chấp được hiểu là những bất đồng, mâu thuẫn về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong một quan hệ xã hội nhất định được pháp luật
điều chỉnh. Quy định về tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi
trong các hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới cũng có những cách hiểu khác
nhau. Để hiểu rõ hơn về thế nào là tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngồi, chúng
ta cần phân tích rõ về hai khái niệm “tranh chấp thương mại” và “yếu tố nước ngoài”.
1.1.1.

Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại

❖ Khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tranh chấp là sự tranh đấu, giằng co khi có ý
kiến bất đồng thường là về quyền lợi giữa hai bên”. 1
Về mặt ngôn ngữ “tranh chấp” được hiểu là sự tranh giành một cái gì đó hay
bất đồng, mâu thuẫn một vấn đề gì đó giữa các bên. Các vấn đề tranh giành, bất đồng
mâu thuẫn chủ yếu là các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên. Trong kinh doanh thương

mại quyền và nghĩa vụ của các bên mang tính đối ứng, khi quyền và nghĩa vụ đó bị
một trong các bên vi phạm thì có thể dẫn đến tranh chấp.

1

Hoàng Phê (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Hồng Đức.

4


Dưới góc độ pháp lý: Tranh chấp được hiểu là những xung đột, bất đồng về
quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp
luật. Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ được sử dụng
khá phổ biến trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Thuật ngữ này
mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở Việt Nam trong những năm gần đây.
Trước đây trong cơ chế kinh tế tập trung, sản xuất và phân phối theo kế hoạch,
thuật ngữ tranh chấp kinh tế là thuật ngữ quen thuộc đã ăn sâu vào tiềm thức và tư
duy pháp lý của người Việt Nam. Nguyên nhân là trong thời kỳ đó, chúng ta chịu ảnh
hưởng của Luật học Xô Viết cùng với sự tồn tại của một ngành luật độc lập là ngành
luật kinh tế. Trong thời kì mà hoạt động kinh tế chủ yếu là kế hoạch hóa tập trung với
sự thống trị của khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sử dụng mệnh lệnh hành
chính thì mọi hoạt động kinh tế chủ yếu do nhà nước thực hiện và chi phối. Kinh tế
tư nhân chưa có điều kiện phát triển. Các đơn vị kinh tế đều hoạt động thông qua kế
hoạch và sử dụng hợp đồng kinh tế làm công cụ thực hiện kế hoạch được giao. Do
đó, các tranh chấp kinh tế trong thời kì kế hoạch hóa tập trung đơi khi đồng nghĩa với
tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Theo Luật mẫu của UNCITRAL2 năm 1985, thuật ngữ “thương mại” được
hiểu theo nghĩa rộng là các vấn đề nêu lên từ tất cả các quan hệ mang bản chất thương
mại, xuất phát từ hợp đồng hoặc không từ hợp đồng. Các quan hệ mang bản chất
thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn, những giao dịch sau: Mọi giao dịch

thương mại từ việc cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá, dịch vụ; thỏa thuận phân phối;
đại diện thương mại hoặc văn phòng đại diện, đại lý; cho thuê tài chính; xây dựng; tư
vấn; kỹ thuật; cấp phép; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
hay nhượng quyền; liên doanh và các hình thức khác của cơng nghiệp hay hợp thương
mại; vận chuyển hàng hoá hoặc hành khách bằng máy bay, đường biển đường sắt hay
đường bộ.
Tuy nhiên, nếu xét về việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của các
Quốc gia về hoạt động thương mại quốc tế thì khái niệm tranh chấp trong hoạt động
này không chỉ bao gồm là tranh chấp quyền, lợi ích giữa các thương nhân mà còn là
tranh chấp phát sinh giữa các thủ thể quốc tế (chủ yếu là các quốc gia) với nhau về
chính sách pháp luật thương mại và tranh chấp giữa quốc gia với các với các thương

2

UNCITRAL (tiếng Anh: United Nations Commission on International Trade Law; tiếng Pháp: CNUDCI,

Commission des Nations Unies pour le droit commercial international) là Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật
Thương mại quốc tế được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thành lập theo Nghị quyết 2205 (XXI) ngày 17 Tháng
12 năm 1966 "để thúc đẩy tiến bộ hài hòa và thống nhất của pháp luật thương mại quốc tế".

5


nhân nước ngồi về chính sách, pháp luật thương mại do chính các quốc gia đó cam
kết với thương nhân.
Như vậy, có thể hiểu: Tranh chấp trong kinh doanh thương mại là sự mâu
thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các bên liên quan trong quan hệ kinh doanh
thương mại và có ít nhất một bên đưa ra u cầu giải quyết.
Ngồi các định nghĩa trên thì trong Giáo trình Luật thương mại tập 2 của
trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra quan điểm về tranh chấp thương mại: Tranh

chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.
❖ Đặc điểm về tranh chấp kinh doanh thương mại
Các tranh chấp kinh doanh thương mại nhìn chung có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đây là các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh nên chịu
chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này như: mục đích sinh lợi, các yêu cầu
về thời cơ kinh doanh và u cầu giữ bí mật thơng tin liên quan đến hoạt động kinh
doanh.
Thứ hai, các tranh chấp kinh doanh thương mại thường phát sinh giữa các chủ
thể kinh doanh mà trong đa số các trường hợp là các doanh nghiệp. Ngoài ra, tranh
chấp giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại cũng được
xem là tranh chấp kinh doanh thương mại để có thể giải quyết bằng TTTM theo quy
định của LTTTM 2010 hoặc tranh chấp phát sinh trong nội bộ công ty (giữa các thành
viên công ty với nhau hoặc giữa thành viên với công ty) liên quan đến thành lập, hoạt
động, giải thể, tổ chức lại công ty cũng được coi là tranh chấp về hoạt động kinh
doanh thương mại theo quy định tại BLTTDS 2015. Theo quy định của LTM 2005,
hoạt động kinh doanh thương mại được định nghĩa rất rộng, bao gồm cả hoạt động
đầu tư. Chính vì thế tranh chấp phát sinh trong nội bộ công ty cũng được coi là tranh
chấp liên quan đến hoạt động đầu tư và vì thế cũng thuộc phạm trù tranh chấp kinh
doanh thương mại.
Thứ ba, tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại có thể
được giải quyết bằng các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau, trong đó có
các phương thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án như thương lượng, hịa giải và
trọng tài. Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trước khi
LTTTM 2010 được ban hành chỉ áp dụng đối với các tranh chấp kinh doanh thương
mại.

6



❖ Nguyên nhân hình thành tranh chấp kinh doanh thương mại
Trong nền kinh tế thị trường các chủ thể được quyền làm tất cả những gì mà
pháp luật khơng cấm, dựa vào đó các chủ thể kinh doanh tự do thỏa thuận trên cơ sở
mục đích và lợi ích đạt được. Tuy nhiên, có thỏa thuận thì cũng có thể phát sinh vi
phạm thỏa thuận. Sự vi phạm này có thể từ ngun nhân bất khả kháng khơng có sự
chủ định của một bên, cũng có thể do lỗi của một hoặc các bên nhưng có chủ định
trước... Chính vì thế, việc phát sinh tranh chấp trong hoạt động kinh doanh là điều tất
yếu. Một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, do lợi nhuận: Mục đích cuối cùng của hoạt động kinh doanh là lợi
nhuận. Chính vì lợi nhuận mà có những chủ thể đã chấp nhận phá vỡ hợp đồng, vi
phạm hợp đồng và phát sinh tranh chấp.
Thứ hai, do hạn chế kiến thức pháp luật: Không phải bất kỳ nhà đầu tư nào
cũng nắm rõ quy định pháp luật, điều này dẫn đến có những thỏa thuận vượt quá quy
định của pháp luật.
Thứ ba, do thiếu vắng các quy định của pháp luật: Pháp luật không thể dự trù
tất cả các mâu thuẫn trong quan hệ thương mại có thể xảy ra do hoạt động kinh doanh
hiện nay đa dạng, phức tạp.
Thứ tư, do sự khác biệt, xung đột pháp luật giữa các quốc gia
1.1.2.

Khái quát về yếu tố nước ngoài trong tranh chấp kinh doanh thương

mại
❖ Khái niệm về yếu tố nước ngoài trong tranh chấp kinh doanh
thương mại
Yếu tố nước ngoài là thuật ngữ của tư pháp quốc tế, dùng để chỉ những yếu tố
cấu thành của quan hệ pháp luật mà những yếu tố đó có liên quan đến nước ngồi.
Đặc trưng cơ bản của những quan hệ tư pháp quốc tế là các yếu tố cấu thành của quan
hệ pháp luật đó có liên quan đến nước ngoài.
Tùy thuộc vào pháp luật của từng nước, các yếu tố nước ngồi có thể được

quy định rõ ngay trong luật hoặc không được quy định trong luật nhưng được Nhà
nước mặc nhiên thừa nhận như một nguyên tắc tập quán hay thông lệ trong giao dịch
quốc tế. Các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài là những tranh chấp vượt
ra khỏi biên giới lãnh thổ của một quốc gia. Chính vì thế những tranh chấp thương
mại này có những dấu hiệu đặc trưng so với các tranh chấp cùng loại trong phạm vi
một quốc gia.

7


❖ Đặc điểm về yếu tố nước ngoài trong tranh chấp kinh doanh
thương mại
• Chủ thể của quan hệ tranh chấp
Một trong những dấu hiệu đặc thù của quan hệ tranh chấp thương mại có yếu
tố nước ngồi là một hoặc các bên chủ thể có quốc tịch nước ngồi. Ví dụ, một cơng
ty nước ngồi tiến hành đầu tư trực tiếp vào một quốc gia sở tại, các tranh chấp phát
sinh về hoạt động đầu tư đó giữa cơng ty nước ngoài trên với các cá nhân và pháp
nhân sở tại sẽ là tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngồi.
Chủ thể của quan hệ thương mại nói chung, quan hệ thương mại quốc tế nói
riêng là các thương nhân có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Các quốc gia
khác nhau trên thế giới có những quy định khác nhau về những điều kiện để trở thành
thương nhân nhưng nhìn chung đều căn cứ vào hai điều kiện chủ yếu sau: điều kiện
về nhân thân (đối với cá nhân) hoặc điều kiện về việc thành lập hợp pháp (đối với
pháp nhân) và các điều kiện về nghề nghiệp.
Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập hoặc đăng ký theo
pháp luật nước ngoài và đang hoạt động tại nước sở tại. Để xác định địa vị pháp lý
của một pháp nhân nước ngoài khi tiến hành đầu tư, kinh doanh tại một quốc gia khác
phải căn cứ theo quy định của nước mà pháp nhân đó mang quốc tịch. Trên thế giới,
thơng thường quốc tịch của một pháp nhân được xác định theo những cơ sở sau:
- Nơi thành lập pháp nhân hoặc nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân đó; (Luật

Anh, Mỹ thường áp dụng tiêu chuẩn này);
- Nơi đặt trung tâm quản lý hoặc nơi đặt trụ sở ban quản lý hành chính, ban
quản trị của pháp nhân đó (Luật một số nước Châu Âu);
- Nơi kinh doanh chính hoặc nơi hoạt động đầu tư chính của pháp nhân (luật
một số nước đang phát triển)
Pháp luật Việt Nam quy định: “Thương nhân nước ngoài là thương nhân được
thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được
pháp luật nước ngồi cơng nhận”. 3 Đây là một dấu hiệu rất quan trọng để nhận biết
thương nhân nước ngồi có đủ tư cách pháp lý để tham gia vào các giao dịch thương
mại tại Việt Nam hay không? Đồng thời tư cách chủ thể cũng là một yếu tố để xem
xét các thoả thuận của các cá nhân, tổ chức nước ngoài trong các quan hệ thương mại
có hợp pháp hay khơng?

3

Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại 2005

8


• Căn cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ tranh chấp ở
nước ngoài
Tuy các bên trong quan hệ tranh chấp có quốc tịch giống nhau nhưng nếu
những sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ tranh chấp đó
xảy ra ở một nước khác nước mà họ mang quốc tịch thì đó cũng là tranh chấp thương
mại có yếu tố nước ngoài. Pháp luật Việt Nam quy định những tranh chấp thương
mại mà có thể các bên đều là các cá nhân, tổ chức Việt Nam nhưng những căn cứ để
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ tranh chấp này xảy ra ở một quốc gia khác thì
cũng được coi là tranh chấp có yếu tố nước ngồi. Ví dụ, hai công ty Việt Nam ký
kết một hợp đồng thương mại ở nước ngoài, một bên tham gia hợp đồng đã có hành

vi vi phạm hợp đồng dẫn đến tranh chấp giữa các bên.
• Tài sản tranh chấp ở nước ngoài
Một trong những dấu hiệu để nhận biết tranh chấp thương mại yếu tố nước
ngồi là tranh chấp đó liên quan đến khối lượng tài sản ở nước ngoài. Tài sản ở nước
ngoài là tài sản ở ngoài biên giới lãnh thổ của một quốc gia nhất định. Ví dụ, tranh
chấp liên quan đến khối lượng hàng hoá ở nước ngồi trong hợp đồng mua bán hàng
hố giữa hai cơng ty Việt Nam.
• Luật áp dụng để giải quyết
Trên thế giới, pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế rất đa dạng
và phong phú và chủ yếu bao gồm: điều ước quốc tế, pháp luật các quốc gia, án lệ,
tập quán thương mại. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không coi án lệ là nguồn của
pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại.
1.2. Quy định pháp luật Việt Nam về tranh chấp kinh doanh thương mại và
yếu tố nước ngoài trong tranh chấp kinh doanh thương mại
1.2.1. Quy định pháp luật thương mại về tranh chấp kinh doanh
thương mại
Thời kỳ Phong kiến, việc giải quyết các tranh chấp nói chung đều thơng qua
các quan lại thuộc chính quyền và chủ yếu trên cơ sở ý chí chủ quan của họ. Trong
khi đó, các quan hệ thương mại khơng có luật điều chỉnh riêng mà nằm rải rác trong
các luật dân sự. Vì vậy tranh chấp thương mại và tranh chấp dân sự khơng có sự phân
biệt và đều là những tranh chấp về quyền và lợi ích của các bên khi tham gia vào quan
hệ xã hội.
Thời kỳ Pháp thuộc, theo quan niệm của Bộ Luật Thương mại Pháp, thương mại
tách biệt với dân sự nhưng chỉ là một dạng đặc thù của quan hệ dân sự. Các hành vi
thương mại bao gồm 6 loại: mua tài sản để bán lại; các xí nghiệp sản xuất, chuyên chở
9


những hãng thầu cung cấp vật liệu, những hãng bán đấu giá cơng khai; các nghiệp vụ
hối đối, ngân hàng, giao dịch chứng khoán, bảo hiểm; các nghiệp vụ trung gian, đại

diện, đại lý thương mại; khai thác hầm mỏ và ngun liệu; giải trí cơng cộng: nhà hát,
rạp chiếu phim, rạp xiếc.
Còn theo Bộ luật Thương mại của Việt Nam Cộng hòa năm 1972, hành vi
thương mại được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: “Các hành vi chế tạo, chế biến các
sản phẩm kỹ nghệ; Khai thác hầm mỏ và nguyên liệu; Mua hàng để bán lại; Thuê tài
sản; Các hoạt động vận chuyển, bảo hiểm, hối đoái ngân hàng, giao dịch chứng
khoán, trung gian thương mại...”. 4
Trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án Kinh tế ngày 16/3/1994 và Nghị
định số 116/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/9/1994 quy định về tổ chức và hoạt động
của trọng tài kinh tế phi chính phủ đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh chấp
kinh tế gồm: Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa
pháp nhân với cơ quan có đăng ký kinh doanh; Các tranh chấp giữa công ty với các
thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể công ty; Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu;
Các tranh chấp khác theo quy định pháp luật. Với một khái niệm nội hàm rộng và
việc pháp luật gắn cho các tranh chấp có nội dung kinh tế trên được gọi là tranh chấp
kinh tế đã tạo ra sự không phù hợp với các hoạt động thương mại hiện nay.
Thuật ngữ “tranh chấp kinh tế” ít được sử dụng trong các văn bản pháp lý quốc
tế mà thay vào đó là thuật ngữ “tranh chấp thương mại” (commercial dispute) hay
thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh” (business dispute). Trên thực tế, khái niệm tranh
chấp thương mại được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau và có nhiều tên gọi khác
nhau: Tranh chấp kinh tế, tranh chấp thương mại, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp
về kinh doanh, thương mại. Các nhà nghiên cứu luôn cố gắng phân biệt sự khác nhau
giữa tranh chấp kinh tế và tranh chấp kinh doanh.
Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại lần đầu tiên được đề cập trong
LTM ngày 10/5/1997, cụ thể: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do
việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương
mại”. 5 Như vậy, LTM 1997 đã thu hẹp phạm vi quyết tranh chấp thương mại là tranh
chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng thương mại. Trong khi đó, chỉ được coi là hợp
đồng thương mại khi đó là hợp đồng ký giữa các thương nhân liên quan đến 14 hành

vi thương mại theo quy định tại Điều 45 của Luật này. Vì vậy, quan niệm về tranh
4

Các điều từ 340 đến 346 Bộ luật Thương mại Việt Nam Cộng hòa năm 1972

5

Điều 238 Luật Thương mại 1997

10


chấp thương mại theo LTM 1997 đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh
chấp thương mại mặc dù xét về bản chất đó vẫn có thể coi là các tranh chấp thương
mại như đầu tư, xây dựng, hoạt động trung gian thương mại…
Sau khi Việt Nam ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày
13/7/2000 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 28/11/2001, quan niệm về thương mại
và tranh chấp thương mại của chúng ta đã được mở rộng và mang bản chất của thương
mại. Điều này được quy định cụ thể tại Điều 9.4 Chương I của Hiệp định. Theo đó,
khái niệm thương mại bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, quyền sở
hữu trí tuệ và đầu tư; cịn tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các bên
trong một giao dịch thương mại. Ngoài ra Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
còn phân biệt thêm về Thương mại nhà nước. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam
sửa đổi và ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật quan trọng sau này về thương
mại và giải quyết tranh chấp thương mại.
Các quan niệm về thương mại như trong Hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ tiếp
tục được thể hiện trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, BLTTDS 2004
và LTM 2005.
Hoạt động thương mại được quy định trong LTM 2005 được Quốc hội thông
qua ngày 14/6/2005 đã đưa bản chất của thương mại gần với thông lệ quốc tế hơn. Cụ

thể, LTM 2005 định nghĩa: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đich sinh lợi khác”. 6 Các khái niệm về thương mại này đã
loại bỏ yếu tố “chính sách kinh tế - xã hội” so với quy định trong LTM 1997 và khơng
bó hẹp phạm vi chủ thể là thương nhân. Đó là điểm nổi bật của LTM 2005 mà chúng
ta đã làm được để phù hợp với quy định trên thế giới. Tuy nhiên LTM 2005 không
đưa ra khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại mà lại đưa ra các hình thức
giải quyết tranh chấp thương mại tại Điều 317, cụ thể:
“1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được
tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.”.

6

Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005

11


BLTTDS năm 2004 cũng đã liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại,
cụ thể tại Điều 29:
“Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;

c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ
nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dị, khai thác.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa cơng ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty.”.
Với cách quy định trên của BLTTDS 2004 cho thấy các nhà làm luật đã sử
dụng phương pháp liệt kê khá là chi tiết và dài dòng. Cho nên đến khi BLTTDS 2015
được ban hành thì việc quy định về các tranh chấp kinh doanh, thương mại đã được
quy định ngắn ngọn và tổng quát hơn tại Điều 30:

12


“Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng
ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.”.
Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành khơng có
quy định về việc tranh chấp thương mại phải được thương lượng, hịa giải trước sau
đó mới được giải quyết tại Tịa án. Do đó, việc thương lượng, hịa giải do hai bên tự
thực hiện với nhau, nếu một trong hai bên khởi kiện tới Tịa án thì Tịa án vẫn có thẩm
quyền thụ lý giải quyết.
Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất hay văn bản pháp lý nào quy
định về tranh chấp kinh doanh thương mại mà nó mới chỉ dừng lại ở vấn đề quan
điểm của một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thơng qua luật nội dung và luật tố tụng.
Như vậy, có thể hiểu tranh chấp kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn,
bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên quan
đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại và đầu tư. Và có thể định nghĩa tranh chấp kinh
doanh thương mại như sau: Tranh chấp kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn,
bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể phát sinh trong quá
trình thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại.
1.2.2. Quy định pháp luật dân sự về yếu tố nước ngồi có liên quan đến
tranh chấp kinh doanh thương mại.
Các nước trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm "yếu tố
nước ngoài" trong quan hệ dân sự. Để xác định yếu tố nước ngoài trong một quan hệ

13


dân sự hay vụ việc dân sự cụ thể người ta thường dựa vào một trong ba dấu hiệu, đó
là:
Thứ nhất, khi quan hệ dân sự có ít nhất một bên là chủ thể nước ngoài (Chủ
thể);
Thứ hai, khách thể của quan hệ đó là tài sản hoặc quyền tài sản và quyền nhân
thân được thực thi ở nước ngoài hoặc được xác lập theo luật nước ngoài;
Thứ ba, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ dân sự
đó xảy ra ở nước ngồi.
Việc nhận diện yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự là hết sức cần thiết.
Khơng ít trường hợp xác định không đúng dẫn đến việc giải quyết các vấn đề phát
sinh trên thực tiễn là rất khó khăn. Do vậy, đây chính là những dấu hiệu phân biệt đối
tượng điều chỉnh giữa Tư pháp quốc tế với Luật dân sự nói chung.
Khi nói đến yếu tố chủ thể, một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xác
định tư cách chủ thể trong quan hệ dân sự là vấn đề quốc tịch. Về mặt lý luận, quốc
tịch của một cá nhân thể hiện sự lệ thuộc của cá nhân đó vào một nước nhất định, là
tiền đề pháp lý bắt buộc để cá nhân đó được hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ
công dân đối với quốc gia mà họ có quốc tịch. Đồng thời, cá nhân đó phải chịu sự chi
phối, quản lý, tác động về mọi mặt của nhà nước mà mình mang quốc tịch.
Cơng dân một nước khi tham gia vào bất cứ quan hệ dân sự nào cũng địi hỏi
phải có năng lực chủ thể, tức phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy
định của nước mà họ mang quốc tịch. Năng lực chủ thể của các cá nhân trước tiên
được xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật mà người đó có quốc tịch.
Trong tư pháp quốc tế, khái niệm người nước ngoài là khái niệm khá cơ bản
và là dấu hiệu để phân biệt với các quan hệ dân sự khác. Khái niệm người nước ngoài
được tiếp nhận khá sớm trong khoa học pháp lý ở nước ta. Ngay sau khi giành được
độc lập 8/1945, trong tun ngơn về chính sách của Chính phủ liên hiệp lâm thời ngày
01/01/1946, Hồ chủ tịch đã nêu rõ "làm cho các nước công nhận nền độc lập của Việt

Nam, thân thiện với kiều dân ngoại quốc, nhất là Hoa kiều..." Từ đó, khái niệm
"Người nước ngồi được sử dụng nhiều trong các văn bản pháp luật khác của nước
ta. Trong Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 không đưa ra định nghĩa cụ thể về
người nước ngồi, nhưng khi giải thích về thuật ngữ "quốc tịch nước ngồi" thì Luật
có quy định: “Quốc tịch nước ngồi là quốc tịch của một nước khác không phải là

14


quốc tịch Việt Nam”. 7 Định nghĩa trên của ta cũng phù hợp với pháp luật của nhiều
nước trên thế giới như Luật Quốc tịch Vương Quốc Anh năm 1981.
Người nước ngồi cịn bao gồm cả người khơng quốc tịch. Theo quy định Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì: “Người khơng quốc tịch là người khơng có quốc
tịch Việt Nam và cũng khơng có quốc tịch nước ngồi”. 8 Từ những khái niệm trên
có thể thấy, khái niệm người nước ngồi được hiểu là người có quốc tịch nước ngồi
nhưng khơng có quốc tịch Việt Nam bao gồm người có quốc tịch nước ngồi và người
khơng quốc tịch. Các khái niệm trên đây được thống nhất sử dụng khi nghiên cứu tư
cách chủ thể của những người tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Như
vậy, để tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, người nước ngồi phải có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, trước tiên là theo pháp luật mà người
đó là cơng dân hoặc pháp luật của nước mà người đó cư trú nếu người đó khơng có
quốc tịch.
Pháp luật Việt nam cũng như nhiều nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu quốc
tịch để xác định phạm vi các quan hệ hay vụ việc dân sự thuộc phạm trù điều chỉnh
của tư pháp quốc tế nước mình. Bên cạnh dấu hiệu chủ thể, để xác định một quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài cũng cần xem xét đến dấu hiệu khách thể của quan hệ,
cụ thể gồm:
- Tài sản: khi nói đến tài sản liên quan đến quan hệ ở nước ngoài người ta
thường chú ý đến quy chế pháp lý của tài sản, quyền của các bên đối với tài sản cụ
thể đó. Điều này có nghĩa rằng pháp luật nước ngồi cũng có thể được áp dụng để

điều chỉnh quan hệ liên quan đến tài sản. Nhưng vấn đề cơ bản ở đây là hiểu như thế
nào về tài sản. Theo quy định tại BLDS Việt Nam 2015 thì: “Tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”, 9 và quyền tài sản là: “quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác”. 10 Đây cũng là khái niệm về tài sản được các
nước trên thế giới sử dụng trong các văn bản pháp lý. Đồng thời, khi giải quyết các
vấn đề liên quan đến tài sản, cũng như xem xét về quy chế pháp lý của tài sản hầu hết
các nước đều sử dụng hệ thuộc Luật nơi có tài sản để điều chỉnh (Lex rei sitae). Tuy
nhiên, quy tắc này không phải lúc nào cũng được áp dụng để giải quyết các tranh
chấp liên quan đến quyền tài sản. Chẳng hạn, về quyền sở hữu trí tuệ, vì quyền sở
7

Khoản 1 Điều 3 Luật Quốc tịch 2008

8

Khoản 2 Điều 3 Luật Quốc tịch 2008

9

Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015

10

Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015

15


hữu trí tuệ mang tính chất lãnh thổ tuyệt đối nên quyền sở hữu phát sinh theo pháp

luật nước nào thì chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ nước đó, cịn khi ở nước
ngồi nếu khơng có điều ước quốc tế ký kết giữa các nước với nhau hoặc pháp luật
của nước sở tại không cho phép bảo hộ thì quyền sở hữu trí tuệ sẽ khơng được bảo
hộ.
Bên cạnh tài sản và quyền tài sản là khách thể của quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi được nêu ở trên, thì quyền nhân thân phi tài sản cũng là khách thể của
quan hệ này. Khi giải quyết xung đột pháp luật phát sinh liên quan đến quyền nhân
thân, các nước đều sử dụng hệ thuộc Luật nhân thân (Lex personalis) của các đương
sự. Ở đây cho phép lựa chọn một trong hai phân hệ của hệ thuộc trên đó là Luật quốc
tịch của chủ thể (lex patriae) hoặc Luật nơi cư trú (Lex domicili). Ngoài ra xung đột
pháp luật về quyền nhân thân còn được điều chỉnh bởi Luật nơi thực hiện hành vi
(Lex loci actus).
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự cũng là
dấu hiệu nhận biết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi tùy thuộc vào các biện pháp
tác động đối với quan hệ dân sự đó. Có thể hiểu một cách chung nhất về sự kiện pháp
lý là những sự kiện thực tế mà sự xuất hiện thay đổi, hay mất đi của chúng được pháp
luật gắn với việc hình thành thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật. Sự kiện
thực tế chỉ xuất hiện sự kiện pháp lý chỉ khi nào pháp luật xác định rõ điều đó.
Đối với các sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp
luật dân sự có yếu tố nước ngoài được mỗi nước quy định khác nhau, việc thừa nhận
hay không thừa nhận một sự kiện thực tế nào đó là sự kiện pháp lý đều xuất phát từ
lợi ích của xã hội, của giai cấp cầm quyền nước đó. Thứ nhất, sự kiện pháp lý làm
phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi: Chẳng hạn trong trường hợp các bên
kết hơn có cùng quốc tịch nhưng lại kết hôn với nhau trước cơ quan có thẩm quyền
tại nước mà các bên khơng mang quốc tịch. Trường hợp này pháp luật được áp dụng
để giải quyết vấn đề liên quan như xác định điều kiện kết hơn, nghi thức kết hơn của
các bên có thể là Luật của hai nước có hữu quan. Thứ hai, sự kiện pháp lý làm thay
đổi quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi: Trên thực tế, có nhiều trường hợp các bên
trong quan hệ hơn nhân gia đình khơng cịn coi nhau như vợ chồng nhưng chưa muốn
ly hôn với nhau. Trường hợp này, ở các nước công nhận việc ly thân, pháp luật cho

phép các bên ly thân với nhau trên cơ sở quyết định của Tòa án. Việc Tòa án tuyên
bố cho phép các bên ly thân là sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ hôn nhân. Theo
quyết định này, hôn nhân chưa chấm dứt nhưng quan hệ vợ chồng thì thay đổi. Sự
thay đổi này thể hiện trong quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Khi
vợ chồng quyết định chấm dứt quan hệ hơn nhân nói trên tại một Tịa án của một
quốc gia khác mà ở đó không công nhận việc ly thân sẽ làm nảy sinh vấn đề công
16


nhận bản án, quyết định của Tịa án trước đó đã ra quyết định để xử lý quan hệ hôn
nhân và tài sản con chung liên quan giữa vợ chồng. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong
rất nhiều trường hợp có thể xảy ra liên quan đến sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài
làm thay đổi quan hệ dân sự. Cũng tương tự như vậy đối với sự kiện pháp lý xảy ra ở
nước ngoài làm chấm dứt quan hệ dân sự.
Hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự nhằm làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi nói riêng bao gồm cả các quyết định của cơ quan có thẩm quyền
và hành vi cụ thể của các chủ thể tham gia quan hệ đó. Như vậy xác định đúng thời
điểm mà sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cơ quan có thẩm quyền xác định đúng
luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh giữa các nước hữu quan, từ
đó giải quyết chính xác những tranh chấp liên quan giữa các bên tham gia quan hệ.
Thuật ngữ “yếu tố nước ngoài” lần đầu tiên được xác định cụ thể trong BLDS
1995. Theo đó: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được hiểu là các quan hệ dân
sự có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ
đó ở nước ngồi”.11
Nghị định số 60/CP ngày 06/06/1997 hướng dẫn thi hành các quy định của
BLDS 1995 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi một lần nữa khẳng định yếu tố
nước ngoài thuộc một trong các trường hợp: Có người nước ngồi, pháp nhân nước

ngồi tham gia; Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt ở nước ngoài; Tài sản liên quan
ở nước ngoài. Trong đó, "người nước ngồi" là người khơng có quốc tịch Việt Nam,
bao gồm cơng dân nước ngồi và người khơng có quốc tịch; "Pháp nhân nước ngồi"
là tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài.
Bắt đầu từ BLTTDS 2004, khái niệm yếu tố nước ngoài được xác định rõ ràng
hơn tại Khoản 2 Điều 405, trong đó quy định có ít nhất một trong các đương sự là
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự
giữa các đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc
tài sản liên quan ở nước ngoài. Ngoài ra, BLDS 2005 cũng xác định: “Quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là
cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là
các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn

11

Điều 826 Bộ luật Dân sự 1995

17


cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi, phát sinh
tại nước ngồi hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. 12
Như vậy, BLDS 2005 đã đưa thêm chủ thể người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào khái niệm yếu tố nước ngoài để thừa nhận trên thực tế, khi giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy việc xác định thế nào là "người Việt Nam định cư ở nước ngồi" khơng
dễ dàng. Luật Quốc tịch 2008 xác định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngồi là
cơng dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước
ngoài”. 13 Vậy thời hạn bao lâu thì được xác định là lâu dài? Trường hợp người Việt

Nam đi công tác, học tập hoặc du lịch nhưng họ không về nước khi hết thời hạn có
được coi là người Việt Nam định cư ở nước ngồi hay khơng? Vì vậy, Khoản 2 Điều
663 BLDS 2015 đã quy định lại về khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi,
cụ thể các nhà làm luật đã loại bỏ chủ thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài:
“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng
việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngồi;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng
đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”.
Cũng như BLTTDS 2015 đã quy định lại về khái niệm vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngồi tại Khoản 2 Điều 464, cụ thể:
“Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngồi;
b) Các bên tham gia đều là cơng dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc
xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngồi.”.

12

Điều 758 Bộ luật Dân sự 2005

13

Khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch 2008


18


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nhìn chung, chương 1 đã trình bày về tổng quan giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại có yếu tố nước ngồi. Cụ thể chương này đã làm rõ về khái niệm,
đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại và yếu tố nước ngoài trong tranh
chấp kinh doanh thương mại. Bên cạnh đó, chương 1 cũng đã làm rõ hai khái niệm
trên thông qua các quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ cũng như việc
so sánh với quy định của pháp luật các nước khác trên thế giới.
Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất hay văn bản pháp lý nào quy
định về tranh chấp kinh doanh thương mại mà nó mới chỉ dừng lại ở vấn đề quan
điểm của một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thông qua luật nội dung và luật tố tụng.
Như vậy, có thể hiểu tranh chấp kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn,
bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên quan
đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại và đầu tư. Và có thể định nghĩa tranh chấp kinh
doanh thương mại như sau: “Tranh chấp kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn,
bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể phát sinh trong quá
trình thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại”.
Ngoài ra chương 1 cũng đã chỉ ra quy định pháp luật hiện hành về yếu tố nước
ngoài trong tranh chấp kinh doanh thương mại, cụ thể tại BLDS 2015 và BLTTDS
2015. Theo đó, quan hệ (vụ việc) dân sự có yếu tố nước ngồi khi thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài;
- Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc
xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngồi;
- Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.


19


CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Như chúng ta cũng đã biết, theo quy định tại Điều 317 Luật Thương mại 2005,
để giải quyết một tranh chấp kinh doanh thương mại có các hình thức sau:
“- Thương lượng giữa các bên
- Hồ giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
- Giải quyết theo thủ tục tố tụng: Trọng tài hoặc Toà án”.
Nhưng hai phương thức thương lượng và hòa giải khi giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi giống với khi giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại khơng có yếu tố nước ngồi. Vì vậy, khóa luận này chỉ đề cập đến
phương thức giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng, đó là: TAND và TTTM.
2.1. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi bằng Tịa
án nhân dân
2.1.1.

Khái niệm về giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nhân dân

Giải quyết tranh chấp bằng Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ
quan tài phán Nhà nước thực hiện được tiến hành theo tình tự thủ tục do pháp luật tố
tụng của Nhà nước ban hành. Toà án nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán
quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thông qua Tịa án là
những quan điểm, tư tưởng mang tính chủ đạo, chỉ đạo xuyên suốt quá trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án mà các chủ thể tham gia giải quyết tranh

chấp phải tuân thủ.
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi bằng
Tịa án nhân dân dựa trên quy định theo BLTTDS 2015.
2.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa
án nhân dân
Thẩm quyền là một thuật ngữ được dùng để chỉ quyền phán quyết (quyền giải
quyết) của một cơ quan, một hệ thống cơ quan về những vụ việc nào đó theo quy định
của pháp luật. Thẩm quyển là sự giới hạn hoạt động của một cơ quan (hệ thống cơ
quan) nhà nước, theo đó, pháp luật quy định cho cơ quan đó những việc được làm
hoặc không được làm trong một hoặc nhiều lĩnh vực. Trong việc giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngồi, một trong những hệ thống cơ quan
20


×