Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.42 KB, 42 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI
RO ĐẶC BIỆT
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC
RỦI RO ĐẶC BIỆT
1. Vài nét về lịch sử ra đời và phát triển của nghiệp vụ Bảo hiểm cháy và
các rủi ro đặc biệt
1.1 . Trên thế giới
Trong quá trình tồn tại và phát triển loài người luôn phải đối mặt với những
rủi ro tai ương, thảm hoạ xảy ra bất ngờ như động đất, núi lửa, bão, bạo loạn
chiến tranh…Trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro nguy hiểm nhất.
Theo lịch sử để lại từ thời Trung đại rồi Phục Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có
có một hệ thống phòng cháy hữu hiêụ nào hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng
đế La mã trị vì. Ở các thành phố lớn và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô
đầy nước. Vào ban đêm đội tuần tra đi dọc các phố hễ thấy nhà nào có nguy cơ
cháy là họ báo ngay cho chủ nhà. Nếu có hoả hoạn xảy ra thì thiệt hại từ cháy có
thể được phường hội giúp đỡ với điều kiện họ phải là hội viên. Tuy nhiên khoản
trợ giúp này chỉ mang tính chất động viên khích lệ chứ chưa thể coi là một khoản
bồi thường thực sự. Phường hội đầu tiên kiểu này do các nhà buôn thành phố
Rowen (Pháp) thành lập năm 1374 trong nhà thờ Saint Patree. Nhưng thời bấy giờ
dân chúng vẫn có tư tưởng xem hoả hoạn là rủi ro không thể tránh khỏi cũng như
nạn đói, chiến tranh và các dịch bệnh khác…
Hiệp hội BH cháy đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591mang tên là Feuer Casse.
Một thời gian ngắn sau đó xuất hiện thêm một vài tổ chức nữa nhưng không để
lại dấu ấn gì lớn cho đến giữa thế kỷ 17. Phải đến năm 1666, sau khi chứng kiến
vụ cháy khủng khiếp ở thủ đô Luân Đôn diễn ra trong vòng 7 ngày 8 đêm, thiêu
huỷ 13.200 ngôi nhà, 87 nhà thờ và rất nhiều tài sản có giá trị khác, người dân
Anh mới thực sự nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống
PCCC và bồi thường cho người thiệt hại một cách hữu hiệu. Với mức độ nghiêm
trọng của thảm hoạ này khiến các nhà kinh doanh của Anh phải nghĩ ngay đến
việc cộng đồng chia sẻ rủi ro trong hoả hoạn. Do vậy năm 1667 ở Anh đã xuất
hiện một số văn phòng cung cấp dịch vụ PCCC .Trong thời gian thành phố được


kiến thiết lại, một nhà vật lý người Anh tên là Nicolas Bavbon đã bắt đầu nhận
BH cháy cho những ngôi nhà xây dựng lại. Ban đầu công ty của ông hoạt động
theo hình thức tư nhân, nhưng sau đó năm 1684 đã bắt đầu chuyển đổi thành
công ty cổ phần với tên gọi là “Friendly Society Fire Office”. Công ty này hoạt
động trên nguyên tắc tương hỗ, hệ thống phí cố định và người BH phải chịu một
phần thiệt hại xảy ra. Tiếp theo đó một số công ty BH khác cũng theo đó ra đời:
Hand in hand (1696), Sun Fire office (1710), Union (1714). Và khi mới ra đời
các công ty này chỉ nhận đảm bảo cho hậu quả sự cố “hoả hoạn” gọi là BH cháy
đơn thuần.
Trước những nhu cầu của nhiều khách hàng muốn được BH chống lại các
rủi ro đặc biệt có mức độ tổn thất tương tự hoả hoạn với chi phí thấp và thể thức
đơn giản, các công ty phải thiết kế những bản hợp đồng BH phối hợp giữa rủi
ro hoả hoạn và các rủi ro khác như đa rủi ro nhà ở, đa rủi ro của các doanh
nghiệp…
Từ đó đến nay, nghiệp vụ BH cháy đã được triển khai hầu hết các nước
trên thế giới và là một trong những nghiệp vụ BH truyền thống chiếm tỷ trọng
doanh thu phí cao của các doanh nghiệp BH. Theo tài liệu thống kê việc kinh
doanh BH thì BH cháy có lịch sử gần lâu đời nhất, chỉ đứng sau BH hàng hải.
1.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam trước năm 1945 đã có một công ty BH cháy của Pháp hoạt
động. Tuy nhiên do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại
nhằm đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi họ không may gặp rủi ro. Vì
vậy BH nói chung và BH cháy cháy nói riêng không có điều kiện phát triển.
Phải đến tận khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế tự hạch
toán kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tài chính,
về thiệt hại kinh doanh, cùng với quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/11/1989 của
bộ trưởng Bộ Tài chính kèm theo quy tắc và biểu phí BH cháy thì nghiệp vụ
này mới chính thức được công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) triển khai và
phát triển.
Sau một thời gian thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế, Bộ Tài chính

ban hành thêm một số quyết định khác đối với nghiệp vụ BH cháy: quyết định số
142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày12/4/1993
thay thế cho biểu phí quyết định 142 và mới nhất là quyết định số 28/2007/QĐ-
BTC ngày 24/4/2007 về quy tắc và biểu phí Bảo hiểm cháy bắt buộc. Việc Chính
phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006 quy định chế độ BH
cháy nổ bắt buộc kèm theo quyết định số 28 của Bộ Tài chính về quy tắc và biểu
phí BH cháy nổ bắt buộc đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên để Bảo Việt cũng như các
công ty BH khác triển khai nghiệp vụ BH cháy .
Từ năm 1990, nước ta đã có 16 công ty triển khai nghiệp vụ BH cháy với
giá trị tham gia BH lên đến 6.200 tỷ đồng. Đến năm 1994 BH cháy được thực
hiện ở hầu hết 53 tỉnh thành phố với tổng giá trị BH là 27.000 tỷ đồng. Tuy
nhiên các công ty mới chỉ BH chủ yếu cho các kho xăng dầu, còn phần lớn các
tài sản như nhà máy, khách sạn, xí nghiệp…trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được
BH. Giai đoạn 1994-1995 đánh dấu sự ra đời của một số công ty BH phi nhân
thọ như Bảo Long, Bảo Minh, Pjico làm cho thị trường BH nói chung và thị
trường BH cháy nói riêng bắt đầu phát triển sôi động.
Qua một số năm thực hiện, nghiệp vụ này càng phát triển. Năm 2000
doanh thu phí BH đạt 16.200.000USD Mỹ, tăng 16% so 1999. Số lượng công ty
BH tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường BH cháy không ngừng tăng với
sản phẩm ngày càng đa dạng phong phú.
2. Sự cần thiết và tác dụng của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
2.1 Sự cần thiết của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
Cháy là một trong những rủi ro mang tính chất thảm hoạ và khi xảy ra hậu
quả để lại rất nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng
lồ. Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn
nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la. Các vụ cháy không chỉ xảy ra ở các nước
có nền kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Mỹ…nơi mà có nền khoa học, công
nghệ đã đạt đến đỉnh cao của sự hiện đại và an toàn thì cháy vẫn xảy ra và ngày
càng tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc
sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của con người.

Ở Việt Nam, các vụ cháy xảy ra nhiều, gây thiệt hại lớn đặc biệt tại các
khu vực kinh tế phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…Trong vòng
30 năm, kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh ký sác lệnh PCCC ngày 4/10/1961
đến ngày 4/10/1991 đã xảy ra 566.036 vụ cháy lớn nhỏ, gây thiệt hại về vật chất
ước tímh 948 tỷ đồng, làm chết 2.574 người, bị thương 4.479 người.
Từ năm 1992-1993 cả nước có khoảng 1.710 vụ cháy, làm chết 213 người,
bị thương 348 người, ước tính thiệt hại 114,746 tỷ đồng.
Giai đoạn 1996-2003, xảy ra 8.015 vụ cháy, gây thiệt hại trên 1.000 tỷ
đồng. Tỷ lệ các vụ cháy lớn là 2,47%, thiệt hại lên tới 67,25% tổng thiệt hại.
Năm 97 cả nước có 58 vụ cháy chợ trong đó có 4 vụ cháy lớn xảy ra ở Hà Nội,
Nam Định, Thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang.
Trong những năm gần đây nước ta liên tiếp xảy ra nhiều vụ cháy lớn nhỏ
để lại hậu quả nặng nề:
+ Ngày 16/12/2006 cháy chợ Lớn Quy Nhơn thiêu rụi toàn bộ hàng hoá trong
hai dãy nhà hai tầng và một dãy nhà hai tầng tổng diện tích 5.000m
2
, tổng thiệt
hại trên 120 tỷ đồng.
+ Ngày 27/3/2007 trung tâm thương mại Sài gòn cháy kho chứa dụng cụ vệ
sinh, tổng thiệt hại lên đến 67.150USD.
+ Ngày 23/5/2007 cháy doanh nghiệp tư nhân Dy Khang ở khu công nghiệp
Vĩnh Lộc A (TPHCM), thiệt hại tài sản khoảng 19,2 tỷ đồng.
+ Ngày 30/6/2007 công ty TNHH Nhị Hà & Tân Việt Phát cháy, tổng giá trị
thiệt hại ước tính 20 tỷ đồng.
Thiệt hại do cháy gây ra rất nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng đến cuộc
sống của một vài cá nhân mà còn tác động mạnh đến cả cộng đồng dân cư, môi
trường khí hậu. Để đối phó với cháy từ xa xưa con người dân sử dụng rất nhiều
biện pháp khác nhau như PCCC, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý thức
thông tin tuyên truyền về PCCC. Mặc dù khoa học công nghệ phát triển thì
phương tiện PCCC được đổi mới. Tuy nhiên sự phát triển của khoa học công

nghệ về an toàn thường chậm hơn so kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất và
nguồn vốn đầu tư vào công tác đảm bảo an toàn thường thấp hơn so nguồn vốn
đầu tư phát triển. Vì thế ngày càng có nhiều vụ cháy với thiệt hại lớn hơn,
nguyên nhân xảy ra cũng khó lường hơn trong đó cũng có cả nguyên nhân xuất
phát từ mặt trái công nghệ.
Do vậy để đối phó hậu quả của cháy gây ra thì BH vẫn được coi là một
trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Ngoài ra khi tham gia BH, người được BH
còn có thể nhận được các dịch vụ tư vấn về quản lý rủi ro, PCCC từ phía người
BH. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường, các tổ chức doanh nghiệp, cá
nhân đều phải tự chủ về tài chính. Hoạt động sản xuất, đầu tư, khai thác…ngày
một gia tăng, khối lượng hàng hoá, vật tư luân chuyển và tập trung rất lớn, công
nghệ sản xuất đa dạng phong phú. Nếu xảy ra cháy lớn, họ phải đương đầu với
rất nhiều khó khăn về tài chính, thậm chí có thể bị phá sản. Vì vậy bên cạnh việc
tích cực PCCC thì BH cháy thực sự là một giá đỡ cho các tổ chức cá nhân tham
gia BH.
2.2 Tác dụng của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
BH cháy là loại hình BHTS, trong đó đối tượng bảo hiểm thường có giá trị
BH rất lớn. Khi xảy ra rủi ro hậu quả để lại rất nặng nề không chỉ riêng đối với
cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cả xã hội. Vì vậy nghiệp vụ BH cháy và rủi ro
đặc biệt ra đời có ý nghĩa tác dụng vô cùng to lớn.
* Đối với người tham gia Bảo hiểm :
Thứ nhất, BH cháy khắc phục tổn thất từ đó góp phần ổn định cuộc sống
sản xuất sinh hoạt của mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Đối với các cá nhân, hộ gia đình giá trị tài sản đều nằm trong phạm vi ngôi
nhà của họ. Theo số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây, tỷ lệ xảy
ra cháy ở các hộ dân cư khá cao chiếm 70,1% số vụ cháy. Do đó khi cháy xảy ra
bản thân mỗi người gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Trong các doanh nghiệp, quy mô sản xuất càng rộng, giá trị TS càng lớn.
Vì vậy khi có tổn thất do cháy gây ra thì hậu quả thật khôn lường và ảnh hưởng
lâu dài tới bản thân doanh nghiệp và cá nhân đơn vị khác có liên quan. Doanh

nghiệp phải đứng trước bờ vực cơ nguy cơ mất trắng những TS có giá trị lớn và
việc khôi phục sản xuất trở lại là điều vô cùng khó khăn, trong trường hợp xấu
nhất là phá sản.
BH ra đời giúp cho mỗi cá nhân doanh nghiệp ổn định được cuộc sống
cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc bồi thường một cách
kịp thời thoả đáng khi không may có tổn thất, từng bước khắc phục hậu quả của
những thiệt hại xảy ra đối với họ. Trên cơ sở người tham gia BH cháy đóng góp
một khoản phí với tỷ lệ nhỏ so với giá trị TS của mình, các cá nhân doanh
nghiệp sẽ nhận được cam kết bồi thường từ phía công ty BH khi co rủi ro xảy
ra. Có thể nói BH là “lá chắn kinh tế” hữu hiệu đảm bảo nguồn tài chính cho
các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khi không may xảy ra sự cố bảo hiểm, giúp
họ yên tâm sản xuất kinh doanh, tiến hành mở rộng đầu tư góp phần tăng
trưởng kinh tế.
Thứ hai, Bảo hiểm cháy còn góp phần tích cực công tác ĐPHCTT, giúp
cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho
mỗi cá nhân, doanh nghiệp.
Rủi ro cháy có thể xảy ra bất cứ đâu bất cứ khi nào.Vì vậy để giảm thiểu
xác suất bồi thường cho khách hàng, các công ty BH hết sức quan tâm đến công
tác quản trị rủi ro mà trong đó công tác PCCC được đặt lên hàng đầu. Bằng một
khoản trích theo tỷ lệ nhất định từ phần phí thu được, các công ty BH sẽ thực
hiện các biện pháp ĐPHCTT một cách hiệu quả thông qua công tác thống kê
tình hình tổn thất hàng năm, xác định nguyên nhân tổn thất, tư vấn những khu
vực có nguy hiểm cao về cháy, thường xuyên phối hợp với khách hàng trong
công tác tập huấn PCCC, hỗ trợ khách hàng trang bị phương tiện PCCC …Để
làm tốt công tác này, công ty BH cần có những cán bộ chuyên môn giỏi về đánh
giá và quản lý rủi ro , tích cực hướng dẫn khách hàng các biện pháp đảm bảo an
toàn.
Ngoài ra hàng năm các doanh nghiệp cũng thường xuyên đóng góp kinh
phí cho hoạt động PCCC theo quy định Nhà nước để đầu tư trang bị PCCC, hỗ
trợ tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật và kiến thức phổ thông về PCCC

cho toàn dân…Hoạt động này không chỉ có ý nghĩa đối với người tham gia
trong công tác hạn chế rủi ro mà có ý nghĩa đối với cả xã hội.
Thứ ba, BH cháy còn là chỗ dựa tinh thần cho mọi cá nhân, tổ chức, giúp
họ yên tâm trong cuộc sống và trong hoạt động sản xuất kinh doanh
BH thể hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc, góp phần ổn
định xã hội. Hậu quả của rủi ro cháy sẽ gây khó khăn về tài chính, kinh doanh
bị gián đoạn, phá sản…dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng do nhà máy đóng
cửa, đình công, bạo loạn gây mất trật tự cho xã hội. Việc triển khai BH cháy
gúp nhà đầu tư và nhà thầu mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế vì đã có BH cháy
bảo trợ. Từ đó ngày càng tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời
tránh sự lo lắng, bất ổn của người dân sống xung quanh khu vực thường xuyên
có cháy và nguy cơ xảy ra cháy cao.
Bên cạnh đó BH cháy ra đời còn giúp các doanh nghiệp tham gia thuận tiện
hơn trong các hoạt động vay vốn của các tổ chức tài chính, Ngân hàng. Vì khi
tiến hành cho các doanh nghiệp vay vốn để sản xuất kinh doanh thì các Ngân
hàng, quỹ tài chính bao giờ cũng đòi hỏi có thế chấp. Doanh nghiệp đã tham gia
BH thì có thể trình hợp đồng BH như một bằng chứng của sự đảm bảo để vay
vốn, giúp các Ngân hàng, tổ chức tài chính yên tâm đối với các khoản cho vay
bởi vì nếu có rủi ro xảy ra đối với doanh nghiệp đó thì doanh nghiệp sẽ nhận
được bồi thường từ phía công ty BH, đảm bảo khả năng trả nợ cao hơn các doanh
nghiệp không tham gia BH.
Thứ tư, BH cháy góp phần nâng cao ý thức cộng đồng về công tác PCCC
và tham gia BH.
Đối với các nghiệp vụ BH, đặc biệt BH cháy, công tác thống kê đóng vai
trò hết sức quan trọng. Có làm tốt công tác này thì việc tính toán tỷ lệ phí, tỷ lệ
tổn thất, tỷ lệ bồi thường mới chính xác được. Thông qua thống kê BH số liệu
về các vụ cháy xảy ra trong quá khứ cũng như xác suất xảy ra cháy được thu
thập đầy đủ và khoa học. Những tài liệu này có vai trò hết sức quan trọng trong
việc nâng cao nhận thức của người dân về rủi ro cháy. Hơn nữa bằng việc tham
gia BH cháy, người tham gia sẽ có ý thức hơn về việc tự bảo vệ TS của mình

cũng như cộng đồng thông qua sự tuyên truyền rộng rãi, phổ biến kiến thức
PCCC của các nhà BH về nguy cơ, hậu quả của rủi ro cháy.
* Đối với Nhà nước và nền kinh tế:
BH cháy mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho cả doanh nghiệp BH và Nhà
nước.
Khi nghiệp vụ BH cháy ngày càng được mở rộng, đặc biệt với sự chấp
hành nghiêm chỉnh của đối tượng tham gia BH cháy bắt buộc, khoản phí thu
được từ khách hàng ngày càng gia tăng, từ đó quỹ BHcháy được hình thành
tương đối lớn. Các công ty BH chỉ giữ lại một khoản tiền nhất định trong quỹ
để đảm bảo khả năng thanh toán, số còn lại sẽ được mang đi đầu tư sinh lời.
Với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi không nhỏ các công ty BH có thể cho vay,
mua trái phiếu, đầu tư bất động sản…Do vậy nền kinh tế chắc chắn luôn nhận
được một lượng vốn đầu tư đáng kể từ quỹ của các doanh nghiệp BH khiến cho
các hoạt động kinh tế trở nên sôi động, hiệu quả hơn. Với tư cách là trung gian
tài chính lớn của nền kinh tế, BH góp phần tạo nguồn quỹ đầu tư dồi dào kích
thích thị trường vốn phát triển. Các doanh nghiệp BH đã tạo ra “bàn tay vô
hình” thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hậu quả của cháy để lại thường rất nằng nề, số tiền để khắc phục hậu quả
thường rất lớn, không có một tổ chức cá nhân nào có thể gánh chịu được mà phải
viện tới sự giúp đỡ của Ngân sách Nhà nước. BH cháy ra đời góp phần giảm bớt
gánh nặng cho Ngân sách quốc gia trong việc chi khắc phục hậu quả, tránh nhiều
biến động chi tiêu ảnh hưởng đến kế hoạch Ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra BH cháy còn góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước thông qua
hoạt động TBH. Đây là nghiệp vụ có giá trị lớn, để đảm bảo khả năng thanh toán
bồi thường, các doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành nhượng tái đồng thời nhận
tái từ những hợp đồng lớn. Thị trường BH cháy ngày càng phát triển thì ngày càng
có nhiều đơn TBH và mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Ngày nay khi nền kinh tế đang mở cửa, có rất nhiều doanh nghiệp đã và
đang đầu tư vào nước ta. Các nhà đầu tư nước ngoài rất yên tâm khi đầu tư vào
Việt Nam vì những lĩnh vực mà họ hoạt động đều được các công ty BH đứng ra

bảo trợ khi không may xảy ra rủi ro tổn thất. Điều này tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy quá trình mở rộng phát triển kinh té đối ngoại trong công cuộc xây
dựng đất nước.
Như vậy với những tác dụng to lớn mà BH nói chung và BH cháy nói
riêng mang lại cho cá nhân người tham gia cũng như cho Nhà nước, nhiều quốc
gia đã quy định chế độ BH cháy bắt buộc đối với những cơ sở có nguy cơ cháy
cao. Ở Việt Nam điều 8 luật kinh doanh BH và điều 9 luật PCCC cũng quy định
bắt buộc nghiệp vụ này.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI
RO ĐẶC BIỆT
1. Một số khái niệm
BH cháy thực chất là loại hình BHTS. Tuy nhiên do tính chất đặc thù riêng
của nghiệp vụ chỉ BH cho những rủi ro cháy đơn thuần và các rủi ro đặc biệt đi
kèm, nên trong đơn BH cháy và các rủi ro đặc biệt có một số khái niệm, thuật
ngữ sau:
- Cháy: theo nghĩa thông thường cháy được hiểu là phản ứng hoá học có toả
nhiệt và phát ra ánh sáng.
- Hoả hoạn: là cháy xảy ra ngoài sự kiểm soát của con người, ngoài nguồn lửa
chuyên dùng và gây thiệt hại về người hoặc tài sản.
- Sét: là hiện tượng phóng điện từ các đám mây tích điện tác động vào đối
tượng BH.
- Nổ: có nhiều hiện tượng nổ, có 2 loại nổ chính:
+ Nổ lý học: là trường hợp nổ do áp suất trong một thể tích tăng lên quá cao,
vỏ thể tích không chịu được áp lực nên bị nổ. Nói một cách khác có thể coi hiện
tượng nổ là một việc san bằng bất thình lình sự khác nhau về áp lực giữa hai
khối khí.
+ Nổ hoá học: là hiện tượng nổ do cháy quá nhanh (một phần nghìn hay một
phần vạn giây đồng hồ) toả ra nhiều sức nóng, sinh ra nhiều hơi. Nghiên cứu
các hiện tượng nổ hoá học thì thấy có đủ ba dấu hiệu của sự cháy, đó là có phản
ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng .Vì vậy nổ hoá học thực chất là

hiện tượng cháy nhưng cháy với tốc độ nhanh. Các loại thuốc nổ, bom đạn đều
là nổ hoá học.
Nổ thường gây thiệt hại có tính cơ học cho môi trường xung quanh như
phá huỷ, lật đổ hay lan sang rất mạnh.
- Đơn vị rủi ro: là một nhóm TS tách biệt nhóm TS khác, cách nhau một khoảng
trống lớn hơn khoảng trống tối thiểu hoặc có bức tường chống lửa giữa các nhóm
TS đó, không cho lửa cháy lan từ nhóm này sang nhóm khác. Đơn vị rủi ro còn gọi
là rủi ro riêng biệt: rủi ro TS này không ảnh hưởng rủi ro TS khác.
+ Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về không gian nếu TS được BH đảm
bảo khoảng cách tối thiểu.
Khoảng cách tối thiểu được quy định là khoảng cách tính bằng chiều cao
của ngôi nhà cao nhất. Hoặc:
• Tối thiểu 20m đối với các kho bãi ngoài trời chứa nguyên vật liệu dễ cháy
• Tối thiểu 15m đối với các ngôi nhà có chứa hay gia công vật liệu dễ cháy
• Tối thiểu 10m đối với tài sản là loại không cháy hoặc khó cháy
Lưu ý trong phạm vi khoảng cách đó không được để vật liệu dễ cháy. Cầu
và hành lang nối các nhà làm bằng vật liệu không cháy, các ống khói không liên
quan đến việc xác định khoảng cách tối thiểu.
+ Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về cấu trúc nếu các toà nhà, bộ phận
ngôi nhà hoặc kho tàng được ngăn cách bằng tường ngăn cháy.
Tường ngăn cháy là cấu trúc xây dựng phân chia đơn vị rủi ro, ngăn cho lửa
không cháy lan giữa các đơn vị rủi ro. Tường ngăn cháy phải đáp ứng yếu tố kỹ
thuật sau:
• Có giới hạn chịu lửa ít nhất 90 phút
• Phải chịu được nhiệt độ trên 1000
o
C
• Nếu là nhà cao tầng thì phải được xây kín ở hầu hết các tầng không được so le
nhau
• Nếu mái nhà làm bằng vật liệu khó cháy thì tường ngăn cháy phải được xây

dựng sát và khít tới tận mái nhà. Nếu mái nhà làm bằng vật liệu dễ cháy thì
phải xây vượt quá phần mái nhà ít nhất 30m
• Nếu mái nhà có lỗ hở thì phải xây cách ít nhất 5m
• Không được để được vật liệu hay cấu kiện xây dựng dễ cháy vắt ngang qua
tường ngăn cháy
- Bậc chịu lửa của công trình: đặc trưng cho khả năng chịu lửa theo tính chất
ngôi nhà và công trình, được xác định bởi giới hạn chịu lửa của các kết cấu xây
dựng chính. Các công trình có bậc chịu lửa khác nhau thì tỷ lệ phí BH cũng
khác nhau.
- Giới hạn chịu lửa: là thời gian tính từ khi bắt đầu chịu lửa theo một tiêu chuẩn
nhất định đến khi xuất hiện một trong các trạng thái giới hạn của kết cấu.
- Tổn thất toàn bộ:
+ Tổn thất toàn bộ thực tế: trong BH cháy và rủi ro đặc biệt là TS được bảo
hiểm bị phá huỷ hoặc hư hỏng hoàn toàn hoặc số lượng còn nguyên nhưng giá
trị không còn gì.
+ Tổn thất toàn bộ ước tính: là TS được BH bị phá huỷ đến mức nếu sửa chữa
phục hồi thì chi phí sửa chữa, phục hồi lớn hơn số tiền BH.
- Tổn thất bộ phận: là bộ phận của TS bị hư hỏng hoặc bị phá huỷ, thường tồn
tại dưới bốn dạng: giảm về giá trị, giảm về số lượng, giảm về trọng lượng và
giảm về thể tích.
2. Đặc điểm của Bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt
Cháy là một trong số những loại rủi ro gây hậu quả lớn nhất và nặng nề
nhất. Bởi vậy trên thế giới hầu hết các công ty BH phi nhân thọ đều triển khai
nghiệp vụ này. Ngoài những đặc điểm chung của loại hình BHTS, BH cháy và
các rủi ro đặc biệt còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất: Những tài sản tham gia BH cháy rất đa dạng và phong phú từ
máy móc thiết bị vật tư đến hàng hoá thành phẩm, mỗi loại có khả năng gặp hoả
hoạn rất khác nhau. Ngay bản thân một loại TS được làm bằng nguyên vật liệu
khác nhau thì khả năng xảy ra hoả hoạn cũng khác nhau. Phạm vi BH hay rủi ro
rất dễ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, do sự vô tình hay hữu ý của con người

hay do sự biến động của thiên nhiên gây ra. Chính vì vậy nhà BH rất khó phân
loại, kiểm soát và đánh giá rủi ro trước khi ký hợp đồng, và khó có thể đưa ra
được những biện pháp ĐPHCTT một cách có hiệu quả cho những TS tham gia
BH. Để tránh phải bồi thường nhiều cho đối tượng BH và hạn chế tối thiểu
được hiện tượng trục lợi BH cũng như để người tham gia nhận thức chính xác
về thực trạng TS của mình, các công ty BH cần có những cán bộ chuyên môn
giỏi trong việc đánh giá rủi ro và ĐPHCTT góp phần tạo lòng tin cho khách
hàng và tăng doanh thu cho nghiệp vụ BH cháy.
Thứ hai: Hoạt động của nghiệp vụ BH cháy mang tính chất kỹ thuật rất
phức tạp. Vì đối tượng tham gia BH thường là các TS như: máy móc, nguyên
vật liệu, hàng hoá…nên quá trình triển khai sẽ liên quan đến nhiều yếu tố kỹ
thuật. Đặc điểm này thể hiện rõ trong từng khâu của nghiệp vụ: xác định giá trị
BH, phân chia đơn vị rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro, ĐPHCTT, xác định nguyên
nhân cháy, giá trị thiệt hại.
Thứ ba: Phí BH cháy phụ thuộc vào nhiều yếu tố tăng giảm rủi ro. Đây là
loại hình BH cho đối tượng là TS, và rủi ro cơ bản được BH là rủi ro hoả hoạn, do
vậy các yếu tố như: kết cấu của loại TS ( vật liệu xây dựng, bao bì), chất lượng TS,
cách thức hay khu vực bố trí TS, các phương tiện PCCC…ảnh hưởng rất lớn đến
phí BH. Bởi vì các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc gia tăng hay giảm thiểu
rủi ro cháy. Nếu khả năng xảy ra rủi ro cháy càng ít thì cả người được BH, nhà
BH và xã hội đều có lợi. Người được BH giảm được phí, nhà BH giảm được khả
năng phải bồi thường, xã hội không ngưng trệ bởi tổn thất.
Thứ tư: Đối tượng của BH cháy thường là các công trình xây dựng, vật
kiến trúc đã đưa vào sử dụng , xí nghiệp... Giá trị TS của các đối tượng này rất
lớn nên số tiền BH rất lớn. Mức độ thiệt hại do hoả hoạn gây ra đôi khi mang
tính thảm hoạ. Do vậy khi triển khai nghiệp vụ BH này các công ty BH đồng
thời phải nghĩ ngay đến việc thực hiện TBH để phân tán rủi ro và các nghiệp vụ
bổ sung như: BH gián đoạn kinh doanh, BH trách nhiệm đối với thiệt hại người
thứ ba…
Bên cạnh đó trong nghiệp vụ này các công ty cũng phải đặc biệt quan tâm

đến nguồn tài chính dự trữ dự phòng. Mặc dù có thể xác định khá chính xác phí
BH nhưng do các vụ cháy xảy ra không đúng quy luật nên biên độ dao động tổn
thất của nghiệp vụ là khá lớn, hậu quả không lường trước được. Do vậy việc duy
trì và đảm bảo an toàn cho quỹ dự phòng dao động lớn là rất quan trọng.
Như vậy trong quá trình triển khai nghiệp vụ BH cháy và các rủi ro đặc
biệt, doanh nghiệp BH cần chú ý những đặc điểm trên để xây dựng những
phương án phòng tránh hữu hiệu, phối hợp với lực lượng cảnh sát PCCC để kịp
thời xử lý trong mọi tình huống, giải quyết nhanh chóng khiếu nại bồi thường.
Điều này mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp BH, giúp tiết kiệm được thời
gian tiền bạc trong suốt quá trình BH.
3. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
3.1 Đối tượng, phạm vi Bảo hiểm
3.1.1 Đối tượng Bảo hiểm
BH cháy là loại hình BHTS vì vậy đối tượng BH có giá trị rất lớn, đa
dạng, phức tạp. Các đối tượng đó bao gồm là các TS bất động sản, động sản
( trừ phương tiện giao thông, vật nuôi, cây trồng và tài sản đang trong quá trình
xây dựng, lắp đặt thuộc loại hình BH khác) thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp
pháp của các đơn vị, tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã
hội. Tuy nhiên để giúp cho việc tính phí BH chính xác, giúp công tác giải quyết
bồi thường nhanh chóng, đồng thời giúp cho người tham gia BH nhận biết một
cách dễ dàng TS tham gia, các công ty BH thống nhất chia đối tượng BH thành
năm nhóm cơ bản:
+ Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng ( trừ đất đai).
+ Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
+ Sản phẩm vật tư, hàng hoá dự trữ trong kho.
+ Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dở, thành phẩm trên dây truyền sản xuất.
+ Các loại tài sản khác như: kho, bãi, chợ, cửa hàng, khách sạn…
3.1.2 Phạm vi Bảo hiểm
Phạm vi BH là giới hạn các rủi ro được BH và giới hạn trách nhiệm của
các công ty BH. Trong BH cháy và các rủi ro đặc biệt, nhà BH có trách nhiệm

bồi thường thiệt hại và chi phí sau:
+ Những thiệt hại do những rủi ro được BH gây ra cho TS .
+ Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất TS được BH
trong và sau khi cháy.
+ Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy.
a, Rủi ro được Bảo hiểm: bao gồm rủi ro chính và rủi ro đặc biệt ( rủi ro phụ)
* Rủi ro chính ( rủi ro nhóm A): Hoả hoạn
Rủi ro này thực chất bao gồm ba phần: cháy, sét. nổ
- Cháy: Trong đơn BH cháy tiêu chuẩn không định nghĩa rõ như thế nào là
hoả hoạn vì người ta hiểu nó theo nghĩa thông dụng. Tuy nhiên Hoả hoạn được
BH phải hội tụ đầy đủ ba yếu tố:
+ Phải thực sự phát lửa.
+ Lửa đó không phải lửa chuyên dùng.
+ Về bản chất đám lửa đó phải là bất ngờ hay ngẫu nhên đối với người được
BH chứ không phải cố ý, có chủ định của họ hoặc có sự đồng loã của họ. Tuy
nhiên hoả hoạn xảy ra do sự bất cẩn của người được BH vẫn thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường.
Khi có đủ ba điều kiện đó và có những thiệt hại vật chất do những nguyên
nhân được cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó vẫn được bồi thường cho dù
đó là vì cháy hay do nhiệt hoặc khói.
Mặc dù không được nêu rõ trong đơn BH nhưng thiệt hại do hoả hoạn ở
đây gồm cả:
+ Thiệt hại do khói mà mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
+ Thiệt hại do nước dùng để chữa cháy.
+ Thiệt hại do phá vỡ để ngăn chặn cháy lan.
+ Thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữa cháy
+ Thiệt hại mà người được BH phải gánh chịu do việc bảo vệ TS và kiểm
soát sự phát triển của ngọn lửa.
Tuy vậy, hoả hoạn ở đây loại trừ:
+ Động đất, núi lửa phun hay biến động khác của thiên nhiên

+ Tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do:
• Tự lên men hoặc tự toả nhiệt.
• Chịu tác động của một quá trình xử lý có dùng nhiệt.
+ Bất kỳ thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do cháy rừng, bụi cây, đồng cỏ,
hoang mạc, rừng nhiệt đới dù là ngẫu nhiên hay không và đốt cháy với mục
đích làm sạch đất đai.
Việc loại trừ chỉ nhằm mục đích thống nhất khái niệm hoả hoạn được dùng
trong toàn bộ đơn BH. Nếu người BH yêu cầu, TS vẫn có thể được BH bằng
những rủi ro phụ riêng biệt.
- Sét: Người BH sẽ bồi thường khi TS bị phá huỷ trực tiếp do sét hoặc do sét
đánh gây ra cháy. Như vậy khi sét đánh mà không làm biến dạng hoặc gây cháy
cho TS được BH thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của BH.
Cần lưu ý, khi tia sét phá huỷ trực tiếp hoặc làm phát lửa gây cháy đối với
các thiết bị điện thì được bồi thường. Nếu tia sét chỉ làm thay đổi dòng điện, mà
không gây cháy, dẫn đến thiệt hại do thiết bị điện thì không được bồi thường
(sét gián tiếp).
- Nổ: Theo rủi ro nhóm A, phạm vi BH chỉ bao gồm:
+ Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
+ Nổ các lò sưởi trong gia đình, công xưởng có có sử dụng hơi đốt.
Các trường hợp nổ gây ra hoả hoạn nghiễm nhiên được BH. Như vậy ở
đây còn lại là những thiệt hại do nổ mà không gây cháy:
+ Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ nhưng không gây cháy thì không được bồi
thường, trừ trường hợp nổ nồi hơi hoặc khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là
sự nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ.
+ Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy: thiệt hại ban đầu do
cháy được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ, ngoài nồi hơi
và hơi đốt phục vụ sinh hoạt thi không được bồi thường.
Nổ trong rủi ro A chỉ bồi thường những thiệt hại do cháy phát sinh từ nổ.
Những thiệt hại từ các mảnh vỡ hoặc do sức ép từ nổ không được bồi thường.
- Rủi ro nhóm B: Nổ

Nổ trong rủi ro phụ BH cho cả những thiệt hại từ các mảnh vỡ hoặc do sức
ép từ nổ. Tuy nhiên loại trừ:
+ Thiệt hại xảy ra đối với nồi hơi, bình tiết kiệm, bình chứa, máy móc
hoặc thiết bị có sử dụng áp lực hoặc đối với các chất liệu chứa trong các máy
móc thiết bị đó do chúng bị nổ. Mục đích của loại trừ này để tránh trùng lặp
đơn BH kỹ thuật khác (đổ vỡ máy móc), thiệt hại đối với các TS khác vẫn thuộc
phạm vi trách nhiệm BH.

×