Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.04 KB, 20 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI NHTM
1.1. Tổng quan về thị trường ngoại hối.
1.1.1. Khái niệm thị trường ngoại hối
Chúng ta thấy rằng, một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa thương
mại quốc tế và thương mại nội địa là:
- Thương mại quốc tế thường liên quan đến việc chuyển đổi giữa các đồng
tiền khác nhau.
- Trong khi đó, thương mại nội địa chỉ liên quan đến nội tệ
Một nhà nhập khẩu Mỹ thường được yêu cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu
Nhật bằng đồng yên Nhật, cho nhà xuất khẩu Đức bằng đồng EURO, cho nhà
xuất khẩu Anh bằng đồng bảng Anh…Với lý do này, để thanh toán tiền hàng,
nhà nhập khẩu Mỹ phải mua các ngoại tệ thích hợp và bán nội tệ.
Giống như thương mại quốc tế, các hoạt động về du lịch quốc tế, đầu tư,
tín dụng và các quan hệ tài chính quốc tế khác làm phát sinh nhu cầu mua bán
các đồng tiền khác nhau trên thị trường. Hoạt động mua bán các đồng tiền khác
nhau được diễn ra trên thị trường và thị trường này gọi là thị trường ngoại hối
(The Foreign Exchage Market- FOREX). Một cách tổng quát: “Thị trường
ngoại hối được định nghĩa như là bất cứ ở đâu diễn ra việc mua bán các đồng
tiền khác nhau thì ở đó gọi là thị trường ngoại hối”
Thị trường ngoại hối là nơi chuyên môn hoá giao dịch về ngoại tệ thông
qua nghiệp vụ mua bán các loại ngoại tệ và chứng từ ngoại tệ nhằm thoả mãn
các nhu cầu của các cá nhân, tổ chức kinh tế.
1.1.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối
1.Thị trường ngoại hối không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu
hình nhất định, mà là ở bất cứ đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền
khác nhau.
2. Đây là thị trường toàn cầu, bởi lẽ : Thời lượng giao dịch 24/24 giờ (trừ
những ngày nghỉ) và hầu khắp mọi nơi đều diễn ra việc mua bán chuyển đổi các
đồng tiền khác nhau.
3.Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng
(Interbank) với các thành viên chủ yếu là các NHTM, các nhà môi giới, và các


NHTW. Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm 85% tổng doanh số giao dịch
ngoại hối toàn cầu.
4. Các nhóm thành viên tham gia thi trường duy trì mối quan hệ với nhau
thông qua điện thoại, telex, fax, mạng vi tính.
5. Do thị trường có tính chất toàn cầu và hoạt động hiệu quả nên các tỷ giá
được yết trên các thị trường khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau
(có độ chênh lệch không đáng kể).
6. Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch là USD, chiếm
41,5% trong tổng số các đồng tiền tham gia (nghĩa là có tới 83% các giao dịch
trên FOREX là có mặt của USD).
7. Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị, kinh tế xã hội,
tâm lý…nhất là chính sách tiền tệ của các nước phát triển.
8. Những thị trường ngoại hối quan trọng nhất hiện nay là: London,
NewYork, Tokyo, Singapore và Frankfurt.
9. Đối tượng mua bán trên thị trường ngoại hối chủ yếu là các đồng tiền
quốc gia.
1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối.
Cách đây chừng 4000 năm đã diễn ra bước ngoặt trong quan hệ thanh toán,
đó là việc xuất hiện sử dụng những đồng tiền kim loại có gián tem của Ngân
hàng, của nhà buôn, của nhà vua…trong thanh toán giữa các quốc gia. Những
ngày đầu xuất hiện, giá trị của những đồng kim loại được xác định theo giá trị
thực của kim loại làm nên chính đồng tiền đó. Tuy nhiên, khi khối lượng các
động tiền trong lưu thông tăng lên theo nhu cầu thương mại, lòng tin của dân
chúng và các giá trị của các đồng tiền với vai trò là phương tiện trao đổi tăng
lên, thì bắt đầu xuất hiện những nhà đổi tiền chuyên nghiệp đầu tiên tại Trung
Đông. Những nhà đổi tiền chuyên nghiệp đã có thể đổi một lượng tiền nhất định
các đồng tiền này lấy một lượng tiền tương ứng các đồng tiền khác. Với sự phát
triển ở dạng sơ khai này đã đánh dấu sự ra đời cuả việc kinh doanh ngoại hối và
thị trường ngoại hối.
Trong những năm đầu sau Đạị chiến Thế giới lần thứ nhất, thị trường ngoại

hối trở nên vô cùng biến động và trở thành đối tượng đầu cơ có quy mô lớn. Sự
đình chỉ chế độ bản vị vàng vào năm 1931 cùng với sự sụp đổ của các Ngân
hàng và các vấn đề khó khăn trong thanh toán đối với một số đồng tiền đẫ trở
thành những trở ngại đáng kể cho sự phát triển của thị trường ngoại hối. Giữa
những năm 1930 các điều kiện hoạt động dần trở lại bình thường, Lon don đã
trở thành trung tâm giao dịch lớn nhất trong thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiến Thế
giới. Bên cạnh đó, những trung tâm khác như: Paris, Zurich, Amsterdam, New
York cũng mạnh mẽ.
Sự tham gia của Chính phủ trên thị trường ngoại hối ngày càng rõ rệt vào
các năm 1930 và càng trở nên thường xuyên hơn sau Đại chiến Thế giới lần thứ
hai và được duy trì cho đến ngày nay. Thời gian sau Đại chiến Thế giới lần thứ
hai được đánh dấu bằng sự ổn định của thị trường và sự kiểm soát chặt chẽ giá
trị đồng tiền, tỷ giá của hầu hết các đồng tiền được neo cố định và chỉ được dao
động trong một biên độ nhỏ.
Thoả thuận Bretton Woods vào năm 1944 đẫ mang lại sự ổn định như
mong muốn và một trật tự mới trên thị trường ngoại hối dần hình thành. Tỷ giá
các đồng tiền chính đều được neo cố định với USD và giá trị của USD được neo
cố định với vàng với tỷ lệ: 35 USD = 1 ounce.
Hệ thống tỷ giá cố định bị sụp đổ vào năm 1971, nguyên nhân chính là do
tồn tại mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thanh toán giữa các quốc gia và
càng ngày người nước ngoài nắm giữ USD càng nhiều. Sự nỗ lực nhằm hồi
phục hệ thống này vào năm 1973 không thành đã mở đầu cho thời kỳ chế độ thả
nổi và được duy trì cho đến nay.
Trong những năm 1970, 1980 và đầu những năm 1990 chúng ta đẫ chứng
kiến sự biến động không ngừng của thị trường ngoại hối và thị trường trở nên
không dự đoán được. Một trong những lý do chính khiến thị trường biến động
mạnh là do sự gia tăng đáng kể của các thành viên tham gia thị trường nhằm
mục đích kiếm các cơ hội sinh lời khi tỷ giá biến động, đồng thời các nguồn lực
về kỹ thuật và công nghệ sẵn có của các nhà kinh doanh, các nhà quản trị tài
chính và các công ty bảo hiểm đã được cải tiến một cách cơ bản.

1.1.4. Chức năng của thị trường ngoại hối.
Chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối là kết quả phát triển tự nhiên
của một trong những chức năng cơ bản của NHTM, đó là:
- Nhằm giúp khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế.
- Thị trường ngoại hối tạo ra công cụ phòng ngừa rủi ro, gắn liền với chức
năng hoạt động của NHTM. Vì vậy thị trường ngoại hối giúp thoả mãn nhu cầu
mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm bôi trơn cho các hoạt động xuất nhập khẩu và
các hoạt động dịch vụ có liên quan đến ngoại tệ như du lịch, bảo hiểm…
- Thị trưòng ngoại hối là phương tiên giúp luân chuyển các khoản đầu tư
quốc tế, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc tế khác cũng như sự giao
lưu kinh tế giữa các quốc gia.
- Thị trường ngoại hối là nơi thể hiện vai trò can thiệp của NHTW trong
việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định đồng tiền trong nước.
- Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối, mà sức mua đối với ngoại
tệ được xác định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường.
1.1.5. Các thành viên tham gia thị trường ngoại hối.
1.1.5.1.Nhóm khách hàng mua bán lẻ (Retail clients).
Đối tượng này bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc gia,
những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm
phục vụ cho hoạt động của chính mình.Ví dụ nhà nhập khẩu có nhu cầu mua
ngoại tệ để thanh toán vận đơn nhập khẩu ghi bằng ngoại tệ, nhà xuất khẩu có
nhu cầu bán ngoại tệ khi nhận được vận đơn xuất khẩu ghi bằng ngoại tệ, khách
du lịch bán ngoại tệ để lấy tiền chi tiêu…Như vậy nhóm khách hàng này có nhu
cầu mua bán ngoại tệ để phục vụ cho hoạt động của chính mình chứ không
nhằm mục đích kinh doanh ngoại hối (kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi). Thông
thường nhóm khách hàng mua bán lẻ không giao dịch trực tiếp với nhau mà họ
thường mua bán qua NHTM.
1.1.5.2. Các Ngân hàng thương mại (Commercial Banks)
Các NHTM giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động thị trường ngoại hối
với tư cách là trung gian cho khách hàng của mình, những người giao dịch trên

thị trường này hoặc một số giao dịch cho bản thân ngân hàng trong trường hợp
trạng thái ngoại hối không có lợi. Các NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối
nhằm:
- Cung cấp dịch vụ cho khách hàng mà chủ yếu là mua bán hộ cho nhóm
khách hàng mua bán lẻ.
- Giao dịch kinh doanh cho chính mình, tức mua bán ngoại hối nhằm kiếm
lãi khi tỷ giá thay đổi.
Trong trường hợp mua bán hộ khách hàng, NHTM chỉ là người mua hộ và
bán hộ cho nên không chịu rủi ro ngoại hối và những hoạt động mua bán hộ
không làm thay đổi cơ cấu bảng tổng kết tài sản của ngân hàng. Thông qua cung
cáp dịch vụ, NHTM thu một khoản phí. Trong trường hợp NHTM giao dich
ngoại hối cho chính mình nhằm kiếm lãi kkhi tỷ giá thay đổi, NHTM phải chịu
rủi ro khi tỷ giá thay đổi.
Bên cạnh các nghiệp vụ ngoại hối phục vụ hoạt động thanh toán của khách
hàng, hầu hết các NHTM còn thực hiện các hoạt động ngoại tệ liên hàng. Tức là
các Ngân hàng trực tiếp mua bán với nhau bằng chính tài khoản riêng của ngân
hàng
1.1.5.3. Những nhà môi giới ngoại hối.
Những năm đầu thập kỷ 60, hoạt động trung gian của những nhà môi giới
chỉ là những trường hợp ngoại lệ. Còn hiện nay, tại các nước đang phát triển,
hoạt động này được các thành viên tham dự đánh giá là chiếm tới 50% tổng
doanh số thương mại ngoại hối. Nguyên nhân của sự phát triển mạnh mẽ này là
do sự dao động tỷ giá lớn từ những năm đầu thập kỷ 70 và đặc biệt từ thời kỳ
chuyển sang cơ chế thả nổi về tỷ giá vào năm 1973 cũng như sự phát triển mạnh
mẽ của thị trường ngoại hối.
Các nhà môi giới tham gia vào thị trường ngoại hối với tư cách là những
người tạo cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ. Họ hoạt động với các Ngân hàng
trong và ngoài nước bằng phương tiện điện thoại và mạng vi tính. Phương thức
giao dịch qua môi giới có ưu điểm ở chỗ: nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh
đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các ngân hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung

cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho khách hàng của mình một cách
nhanh nhất với giá ưu việt nhất (gọi là giá tay trong- inside rate). Tuy nhiên giao
dịch qua môi giới cũng có nhược điểm là: các ngân hàng phải trả cho nhà môi
giới một khoản phí (gọi là brokerage fee). Những ai muốn hành nghề môi giới
ngoại hối phải có giấy phép. Điểm lưu ý là những nhà môi giới chỉ cung cấp
dịch vụ cho khách hàng chứ không mua bán ngoại hối cho chính mình.
1.1.5.4. Các Ngân hàng Trung ương.
NHTW tham gia trên thị trường ngoại hối với tư cách là người điều tiết thị
trường, ổn định giá cả trong nước thông qua tỷ giá và lãi suất. Trong chế độ tỷ
giá thả nổi có điều chỉnh thì NHTW cũng phải tham gia mua bán ngoại tệ để ổn
định tỷ giá.
Trên thị trường ngoại hối, NHTW đóng vai trò kép: NH mua và bán ngoại
tệ, một mặt để cân bằng cung và cầu thị trường, mặt khác nhằm tác động vào tỷ
giá hối đoái.
NHTW tiến hành giao dịch ngoại tệ như NHTM để thực hiện việc thâu tóm
ngoại tệ cũng như các nghiệp vụ ngoại hối khác: truy đòi hối phiếu nước ngoài,
các sec nước ngoài, các nghiệp vụ tín dụng…
NHTW còn là ngân hàng phục vụ Nhà nước trong việc thực hiện các hoạt
động thanh toán của Chính phủ (với các tổ chức quốc tế, phục vụ các hoạt động
tài trợ…), khác với NHTM, NHTW về nguyên tắc không tham dự vào kinh
doanh ngoại hốivới các doanh nghiệp kinh tế.
Nhìn chung, các NHTW không thờ ơ trước sự biến động của tỷ giá đối với
đồng tiền mà mình phát hành. Mặc dù hầu hết các đồng tiền của các nước phát
triển được thả nổi từ năm 1973 nhưng trên thực tế, các NHTW vẫn can thiệp
bằng cách mua vào hay bán ra nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng
lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho là có lợi nhất cho nền kinh tế.
1.2. Tỷ giá và các giao dịch ngoại hối.
1.2.1. Tỷ giá.
1.2.1.1. Khái niệm tỷ giá.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của mình.

Thương mại, đầu tư và các quan hệ tài chính quốc tế…đòi hỏi các quốc gia phải
thanh toán với nhau. Thanh toán giứa các quốc gia dẫn đến việc trao đổi các
đồng tiền khác nhau, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được
trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này được gọi là tỷ giá. Vậy tỷ
giá chính là tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền với nhau, hay nói cách khác tỷ giá
là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác.
VD: 1USD = 1,8125 DEM
Trong ví dụ này, giá của USD được biểu thị thông qua DEM, nghĩa là
1USD có giá là 1,8125 DEM.
Trong thực tế, do hầu hết các quốc gia đều sử dụng phương pháp yết tỷ giá
trực tiếp cho nên tỷ giá còn được định nghĩa: Tỷ giá lá số đơn vị nội tệ trên một
đơn vị ngoại tệ.
1.2.1.2. Các loại tỷ giá.
a/ Tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra.
Tỷ giá mua vào là tỷ giá tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào đồng
tiền yết giá. Tỷ giá bán ra là tỷ giá tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng bán ra đồng
tiền yết giá. Tỷ giá mua vào là tỷ giá đứng trước và luôn thấp hơn tỷ giá bán ra.
b/ Tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn.
Tỷ giá giao ngay (Sport Exchange Rate): Là tỷ giá được thoả thuận ngày
hôm nay để thực hiện thanh toán xảy ra chậm nhất là vào ngày thứ hai sau ngày
ký kết hợp đồng.
Tỷ giá kỳ hạn (Forward Exchang Rate): Là tỷ giá được thoả thuận ngày
hôm nay nhưng việc thanh toán xảy ra chậm nhất là sau đó từ ba ngày làm việc
trở lên.
c/ Tỷ giá chéo (Cross Rate).
Là tỷ giá của hai đồng tiền được xác định thông qua đồng tiền trung gian
thứ ba. Thông thường, đòng tiền trung gian thứ ba thường là đôla Mỹ, vì đại bộ
phận trên thị trường các nước đồng nội tệ của các nước này yết theo đồng đôla,
chính nó tạo ra tỷ giá cung cầu. Do đó rất dễ dàng khi xác định tỷ giá của hai
đồng tiền còn lại.

d/ Tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa.
Tỷ giá mở cửa là tỷ giá áp dụng cho hợp đồng đầu tiên giao dịch trong
ngày. Tỷ giá đóng cửa là tỷ giá áp dụng cho giao dịch cuối ngày làm việc. Tỷ
giá đóng cửa là một chỉ tiêu chủ yếu về tình hình biến động tỷ giá trong ngày.
Cần chú ý là tỷ giá đóng cửa ngày hôm nay không nhất thiết phải là tỷ giá mở
cửa ngày hôm sau.
e/ Tỷ giá chính thức (Official Exchang Rate).

×