Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.16 KB, 27 trang )

MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế Việt Nam, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất quan
trọng, đóng góp đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải quyết công ăn việc làm
cho hàng triệu lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… Các DNVVN là một bộ
phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp từ Hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm
hữu hạn, Công ty cổ phần… kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác
nhau. Chiếm tỷ trọng tương đối cao, trên 90% tổng doanh nghiệp hiện có trên cả
nước, các DNVVN đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn
thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô. Mặc dù chiếm tỷ trọng lớn như thế nhưng hầu
hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả về vốn và lao động.
Tuỳ theo đặc điểm và quy định của mỗi nước mà DNVVN được định
nghĩa theo các cách khác nhau. Tuy nhiên DNVVN được định nghĩa một cách
chung nhất: DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân;
kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận; có quy mô doanh nghiệp trong những giới
hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng
thu được trong từng thời kỳ quy định của từng quốc gia (Nguồn: Giải pháp phát
triển DNVVN ở Việt Nam của Nguyễn Đình Hương - Nhà xuất bản thống kê
2002).
Ở Việt Nam, DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp
nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô vốn và lao động tuỳ theo
quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ
phát triển của nền kinh tế.
Theo quy định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001 thì
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người.


1.1.2 Đặc điểm
- DNVVN có cơ cấu tổ chức đơn giản, linh hoạt.
Các DNVVN thường có cơ cấu tổ chức đơn giản, số lượng lao động ít vì
thế các doanh nghiệp này rất năng động linh hoạt, dễ chuyển hướng sản xuất
kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc thâm nhập
được vào thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều thành công. Lợi nhuận
của doanh nghiệp chỉ thu được tối đa khi sản phẩm hàng hoá đang trong giai
đoạn tăng trưởng, và khi sản phẩm hàng hoá đến giai đoạn suy thoái, bị thị
trường từ chối thì các DNVVN với quy mô vừa hoặc nhỏ sẽ dễ dàng chuyển
hướng sản xuất, lựa chọn mặt hàng kinh doanh có lợi nhất, phù hợp nhất với
khả năng của mình. Hơn nữa, những người điều hành quản lý doanh nghiệp
phần lớn là chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc là người góp vốn lớn nhất nên họ
được toàn quyền ra tất cả các quyết định có liên quan đến doanh nghiệp. Cũng
do hoạt động hẹp, chủ sở hữu vừa là người đầu tư vừa là người quản lí nên các
doanh nghiệp này được tự do hành động. Sự gắn bó sát sao của chủ doanh
nghiệp với quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ phải tập trung hết trí lực cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì họ có khả năng tự quyết nên họ có
thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi, tạo điều kiện cho khả năng
thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường và sự thay đổi của khoa học kĩ
thuật. Còn đối với các doanh nghiệp lớn, do quy mô lớn cả về lao động và vốn
nên thiếu sự linh động, khó phản ứng kịp thời với những biến động của thị
trường, mà hầu hết các doanh nghiệp này thường có chủ sở hữu là Nhà nước
nên bị động trong sản xuất kinh doanh, chiến lược kinh doanh phụ thuộc vào
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, vì thế có lúc mục tiêu lợi
nhuận phải nhường chỗ cho mục tiêu phát triển.
- Mặc dù là nơi tạo việc làm chủ yếu trong mọi lĩnh vực. Mỗi năm thu hút
hàng triệu lao động nhưng hầu hết chất lượng lao động trong các DNVVN rất
thấp vì các doanh nghiệp này thường tận dụng nguồn lao động rẽ tại địa
phương, họ ít được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ do đó hiệu quả lao động
chưa cao. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có vốn ít nên hiếm có các chương

trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề cho lao động của doanh nghiệp.
- Nói đến DNVVN ở Việt Nam chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và
phát triển các thành phần kinh tế nên hầu hết các DNVVN ở nước ta đều thuộc
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh
nghiệp thuộc khu vực này mang tính đại diện cho DNVVN .
- Các DNVVN phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp như hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần và kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau nên
các DNVVN cung cấp một khối lượng sản phẩm đa dạng cho xã hội. Đặc biệt
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay thì sự phát triển của
các DNVVN là cách thức tốt nhất để sản xuất hàng hoá thay thế hàng nhập
khẩu. Nhờ quy mô nhỏ, chi phí sản xuất kinh doanh thấp vì tận dụng được
nguồn lao động, nguyên vật liệu rẻ tại địa phương, nên các DNVVN có khả
năng chuyên môn hoá sâu, có thể sản xuất một mặt hàng thay thế nhập khẩu có
chất lượng tốt, giá thành phù hợp với sức mua của nhân dân từ đó góp phần ổn
định đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công.
Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-
20 năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất
xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị, công
nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử
dụng nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường…
Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ thuật
tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện đại là
rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả năng
huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công
nghệ.
- Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi đó

lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng tài
chính có hạn, DNVVN thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị
trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến cũng như ít có khả
năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác, phần lớn các DNVVN được
thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả năng quản lý của họ có hạn
nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn trên thị trường. Các nhà quản lý
doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự hiểu biết đầy đủ về quản lý doanh
nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Hơn nữa do quy mô sản xuất
nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, các DNVVN khó có thể trả lương cao cho
người lao động nên khó có khả năng thu hút những người lao động có trình độ
cao trong sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành doanh nghiệp.
- Các DNVVN có năng lực tài chính thấp.
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Khi
mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các nhà
đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp này
bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập được
khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữư thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo
được năng lực bằng uy tín kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp
rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Vì thế
DNVVN rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
Muốn vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại thì các
DNVVN phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả thi nhưng do trình độ, khả
năng quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp thấp, khả năng dự báo trước
những sự biến động của ngành, của nền kinh tế kém nên việc xây dựng các kế
hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh của không ít DNVVN còn yếu
trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp lại chưa phát triển. Mặt khác,
không ít các DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do
yếu kém về quản trị doanh nghiệp nên các báo cáo tài chính không đáp ứng
được yêu cầu. Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp lập báo cáo chỉ để đối
phó với cơ quan Thuế nên đã cố tình làm giảm khấu hao tài sản, tăng nợ… Một

số doanh nghiệp còn làm trái chức năng, trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để
lừa cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên
doanh, liên kết… Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn
thấp, khả năng xây dựng các dự án khả thi yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt
động kinh doanh theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể nên mức
độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa
chấp hành tốt công tác kế toán, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy
đủ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp
cận vốn tín dụng từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như
vậy với quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận các nguồn tài chính lại khó khăn
nên tiềm lực tài chính của các DNVVN đã thấp lại càng thấp hơn, do đó khả
năng cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường không cao lắm.
Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng
với môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển
DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền
kinh tế.
1.1.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNVVN có thể giữ những
vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng
như: giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, giữ vai trò ổn định nền kinh tế,
làm cho nền kinh tế năng động, tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ
quan trọng, là trụ cột của kinh tế địa phương… Trong bối cảnh cạnh tranh gay
gắt như hiện nay để góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thì yêu cầu các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN. Có như vậy mới huy
động được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Điều đó được thể hiện cụ thể
như sau:
Thứ nhất, Về số lượng: Các DNVVN là bộ phận kinh tế chiếm ưu thế
tuyệt đối, có mặt ở hầu hết mọi thành phần kinh tế với đủ các loại hình kinh

doanh đa dạng. Ở nước ta các DNVVN chiếm tỷ trọng trên 90% tổng số các
doanh nghiệp trong nền kinh tế, con số này còn ở mức cao hơn ở một số nước
phát triển như Đức, Nhật. Đối với một số nước Châu Á như Singapo, Malaixia,
Hàn Quốc… các DNVVN chiếm từ 81- 98% tổng số doanh nghiệp (Nguồn:
Thông tin DNVVN - www.smenet.com.vn). Như vậy, mới chỉ nhìn vào những
con số này chúng ta đã thấy được vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế quan
trọng như thế nào. Với số lượng như vậy, hàng năm các DNVVN đóng góp rất
đáng kể vào GDP của cả nước (khoảng 25% GDP), giải quyết việc làm cho hàng
vạn lao động. Nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì có thể thấy rằng
tiềm năng phát triển để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra trong
giai đoạn tới phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các DNVVN chứ không chỉ
phụ thuộc vào các chương trình dự án lớn.
Thứ hai, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động,
tạo công ăn việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp góp phần ổn định
và phát triển xã hội.
Ở nước ta theo ước tính hàng năm các DNVVN thu hút khoảng 7,8 triệu
lao động tương đương với 26% lao động của cả nước; trong đó số lao động
được thu hút vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (35,7%), sau
đó đến các ngành thương mại - dịch vụ (19,5%), xây dựng (15,6%)… Con số
này cho thấy vai trò của DNVVN lớn hơn rất nhiều so với DNNN trong việc thu
hút lao động, tạo công ăn việc làm góp phần giải quyết tốt sức ép thất nghiệp
đang ngày càng gia tăng.
Thứ ba, Nhờ việc thu hút hàng triệu lao động mỗi năm các DNVVN đã
tạo ra nguồn thu nhập ổn định thường xuyên cho dân cư, góp phần quan trọng
trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
vùng, lãnh thổ.
Phần lớn các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế lớn thường chỉ tập trung
đáp ứng nhu cầu của một nhóm khách hàng nhất định có mức thu nhập cao ở các
vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, dân cư đông đúc, thị trường tiêu thụ
rộng. Vì thế họ đã bỏ qua đoạn thị trường rất quan trọng đó là bộ phận khách

hàng có mức thu nhập thấp hơn nhưng lại chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh
tế. Đây là đoạn thị trường có tiềm năng rất lớn để cho các DNVVN xâm nhập, tạo
chỗ đứng cho riêng mình nhưng đồng thời nó cũng giúp cân đối được khả năng
cung cầu trong xã hội, đáp ứng được cho nhu cầu phần lớn cho bộ phận dân cư có
mức thu nhập thấp, nâng cao mức sống cho họ. Hơn nữa các doanh nghiệp lớn
không đáp ứng được tất cả các yêu cầu của nền kinh tế như lưu thông hàng hoá,
phát triển ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp… Trong khi đó các
DNVVN với quy mô nhỏ; cấu tổ chức đơn giản, linh hoạt; mặt khác vốn của hầu
hết các doanh nghiệp này là do những chủ thể kinh doanh tự nguyện bỏ ra, hoặc
do các cổ đông đóng góp hoặc do liên doanh liên kết… vì thế họ có quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, có quyền quyết định ngành nghề kinh doanh phù hợp
với khả năng, trình độ cũng như nhu cầu thị trường. Đây là những điều kiện quan
trọng giúp các DNVVN từng bước khai thác những tiềm năng của các vùng miền
mà các doanh nghiệp lớn không thể tiếp cận được; góp phần làm giảm bớt chênh
lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều
giữa các vùng của đất nước, cải thiện mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực khác
nhau.
Thứ tư, DNVVN có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài
chính của dân cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa
phương. Để thành lập doanh nghiệp thuộc loại này thì chỉ cần một số vốn nhỏ do
đó đã tạo điều kiện cho dân cư tham gia đầu tư góp vốn. Như vậy thông qua
DNVVN những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh lời.
Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng của DNVVN rất hạn chế,
nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ những nguồn thân quen. Vì thế
DNVVN được tiếp xúc với người cho vay, người cho vay có khi là chủ sở hữu
doanh nghiệp, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên việc sử dụng
vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các DNVVN có thể tận dụng được nguồn lao
động và nguyên liệu với giá rẻ, do đó làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy, sự phát triển của các DNVVN đã tận dụng được tối đa các nguồn lực

của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có trình độ tay nghề thấp,
góp phần làm ổn định và phát triển xã hội.
Thứ năm, DNVVN có mặt trong rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác
nhau và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Nó có tác
dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. DNVVN là một
bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, là cơ sở để hình
thành nên các tập đoàn kinh tế lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường. Ngoài ra, các DNVVN cũng là đầu mối cung cấp đầu vào hay tham gia
vào một khâu nào đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
lớn. Chính điều này đã làm tăng khả năng hoạt động cho các doanh nghiệp trên
thị trường, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Thứ sáu, DNVVN góp phần hình thành và phát triển đội ngũ các nhà
kinh doanh năng động, sáng tạo. Cùng với việc phát triển các DNVVN là sự
xuất hiện của nhiều nhà kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, đây là lực lượng rất cần
thiết góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở nước ta phát triển. Đội ngũ các
nhà kinh doanh hiện nay ở Việt Nam còn rất khiêm tốn cả về số lượng và chất
lượng do chế độ cũ để lại. Trong nhiều năm đổi mới đã xuất hiện nhiều gương
mặt trẻ điển hình, năng động và sáng tạo trong quá trình điều hành, quản lý
DNVVN. Với chính sách hỗ trợ các DNVVN sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đội
ngũ các nhà kinh doanh trẻ phát huy năng lực của mình đóng góp vào sự phát
triển chung của xã hội.
Thứ bảy, Sự phát triển của các DNVVN tạo ra môi trường cạnh tranh
thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất
nhiều các DNVVN vào quá trình sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và
chủng loại sản phẩm tăng lên rất nhanh. Kết quả làm tăng tính cạnh tranh trên
thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp thường xuyên đổi mới mặt
hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường cạnh tranh.
Những yếu tố đó tác động lớn làm cho nền kinh tế phát triển năng động và hiệu
quả hơn.

Với vai trò to lớn của các DNVVN trong nền kinh tế quốc dân thì việc
khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp này là một giải pháp quan trọng để thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, đặc biệt là thực hiện
chương trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đây cũng
là một trong các giải pháp đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế
nước ta. Vì vậy, Chính phủ cần đưa ra các chính sách phát triển hợp lý tạo điều
kiện tốt nhất để các DNVVN phát huy được tối đa vai trò của mình trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước.
1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2 Vai trò của NHTM trong hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động mang tính chất sống còn đối với hầu hết các ngân
hàng thương mại. Đây không chỉ là khoản sử dụng vốn lớn nhất của ngân hàng,
mà còn là nguồn tạo ra thu nhập lớn nhất trong tất cả các tài sản có sinh lợi. Hơn
thế nữa, chính chức năng cho vay này có thể dẫn đến những rủi ro lớn nhất mà
các ngân hàng nói chung phải chấp nhận. Sự sụp đổ của một ngân hàng thương
mại thường có liên hệ với những vấn đề tồn tại trong danh mục các khoản cho
vay hơn là từ sự thua lỗ ở các loại tài sản có khác. Phần lớn quỹ của ngân hàng
đều được dùng để cho vay; mức doanh lợi chủ yếu được sản sinh từ các khoản
cho vay, và gánh nặng rủi ro kinh doanh cũng tập trung ở đây.
Cho vay có ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như đối với
nền kinh tế đất nước và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
chức năng xã hội của ngân hàng trong nền kinh tế. Cho vay là lý do tồn tại cơ
bản đối với ngân hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng là nhu cầu cần thiết của
tất cả các chủ thể và thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Việc đáp ứng nhu
cầu tín dụng này có thể được xem như là một cam kết hay nghĩa vụ xã hội của
ngân hàng trong khuôn khổ của khả năng sinh lợi và rủi ro. Hệ thống ngân hàng

cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho việc mua hàng hóa và dịch vụ và để hỗ trợ cho
đầu tư (như xây dựng nhà cửa, xa lộ, cầu cống và những công trình kiến trúc
khác, cũng như để mua máy móc và thiết bị). Đầu tư làm gia tăng năng suất các
nguồn của cải xã hội và tạo ra mức sống cao hơn cho cá nhân và gia đình. Khi
tín dụng ngân hàng khan hiếm và chi phí cao thì chi tiêu trong nền kinh tế chậm
lại và nạn thất nghiệp thường gia tăng. Các biến động về tín dụng ngân hàng
cũng có tác động lên lạm phát. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì
tiền gửi ngân hàng là một trong những thành phần lớn nhất của cung tiền tệ
được sử dụng bởi công chúng và những thay đổi về cung tiền tệ có quan hệ chặt
chẽ với những thay đổi về giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Còn
tiền gửi vào ngân hàng lại có mối liên hệ với các khoản cho vay của ngân hàng.
Các khoản cho vay gần như luôn luôn được thực hiện bằng cách nâng số dư tài
khoản của khách hàng nếu như khách hàng đó có sẵn tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng, hoặc bằng cách mở một tài khoản tiền gửi cho số tiền vay nếu người vay
là một khách hàng mới. Như vậy, khi một ngân hàng cho một cá nhân hoặc
doanh nghiệp vay, thì nó tạo ra trên sổ sách của nó một tài khoản tiền gửi dành

×