Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

anh tap the lop 4c chồi nguyễn thị thủy thư viện tư liệu giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.1 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chương V</b>



<b>QUYỀN TRẺ EM</b>



<i>I. Công ước quốc tế về quyền trẻ em </i>


Trẻ em có đầy đủ các quyền của con người, nhưng do còn non nớt về thể chất, trí tuệ và tinh thần, nên tự
mình chưa thể bảo vệ được các quyền của mình. Vì thế pháp luật quy định bảo vệ các quyền của trẻ em
là trách nhiệm của gia đình, nhà nước, nhà trường, xã hội và của mọi công dân. Công ước về quyền trẻ
em được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 02/9/1990.


Cơng ước là thoả thuận ràng buộc về mặt pháp lý theo luật pháp quốc tế, có thể được các quốc gia tăng
cường thêm nếu công ước được đưa vào luật pháp của quốc gia. Phê chuẩn Cơng ước có nghĩa là Quốc
gia thành viên cam kết sẽ thực thi Cơng ước đó. Ngồi cơng ước cịn có các Tun ngơn. Tun ngơn là
một lời tuyên bộ bao gồm những nguyên tắc chủ đạo, nhưng khơng có tính pháp lý theo luật quốc tế.
Việt Nam tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ngay từ năm
1989, trở thành quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới ký kết Công ước này. Để
thực hiện Công ước, Nhà nước đã thông qua và sửa đổi hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật, bảo
đảm sự hài hoà giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.


<b>1. Khái niệm trẻ em </b>


Công ước quốc tế về Quyền trẻ em quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Còn theo Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, thì trẻ em Việt Nam là cơng dân dưới 16 tuổi. Quy định này của Việt
Nam khơng có gì trái với Cơng ước quốc tế vì việc xác định độ tuổi của trẻ em được căn cứ vào các yếu
tố nhân chủng học, các chỉ số phát triển tâm sinh lí, thể lực, trí lực của con người nói chung, cũng như
các điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Vì thế, ngay tại Điều 1 của Công ước quốc tế quyền trẻ
em quy định: “trừ trường hợp pháp luật quốc gia áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn”.



Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ, mà chúng vận động, phát triển theo quy luật khác với người
lớn, có cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng; và đặc biệt trẻ em là những người phát triển chưa
đầy đủ về thể chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức và xã hội. Hay nói cách khác, trẻ em là những người cịn
non nớt về thể chất, trí tuệ, đạo đức và xã hội. Chính vì vậy, trẻ em chưa có khả năng tự chăm sóc và bảo
vệ mình nên địi hỏi phải có sự chăm sóc và bảo vệ đặc biệt của người lớn.


<b>2. Khái niệm người chưa thành niên</b>


- Trong pháp luật quốc tế, người chưa thành niên và trẻ em đồng nhất với nhau về độ tuổi. Theo Quy tắc
tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng
LHQ thông qua ngày 29/11/1985 quy định: “Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi mà tuỳ
theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý vì phạm một tội, theo một phương thức khác với người
lớn1<sub>”. Và sau này Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, được</sub>
Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 14/12/19902<sub> quy định cụ thể hơn rằng: “Người chưa thành niên là</sub>
người dưới 18 tuổi”.


- Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật khác nhau, như Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động, Bộ Luật dân sự... Điều 18 Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên”.


Như vậy, trong pháp luật Việt Nam tồn tại cả hai khái niệm. Đó là khái niệm trẻ em và người chưa thành
niên. Khái niệm người chưa thành niên rộng hơn, bao gồm cả những người chưa đủ 16 tuổi (trẻ em); còn
những người độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là chỉ những người chưa thành niên, mà khơng cịn là trẻ
em nữa.


Trước đây trong một số văn bản pháp luật của Việt Nam có sử dụng khái niệm vị thành niên để chỉ các
giai đoạn phát triển tâm sinh lý của con người. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật hiện hành không
sử dụng khái niệm này nữa, mà sử dụng thống nhất khái niệm người chưa thành niên.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>3. Khái niệm quyền trẻ em</b>


Quyền trẻ em là những đặc quyền tự nhiên mà trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực
hiện nhằm bảo đảm sự sống còn, tham gia và phát triển tồn diện.


Quyền trẻ em chính là biện pháp nhằm bảo đảm cho trẻ em không những là những người tiếp thu thụ
động tình thương hay lòng tốt của bất cứ ai, mà trở thành chủ thể của quyền.


<b>4. Định nghĩa Công ước quốc tế về quyền trẻ em</b>


Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn kiện quốc tế đa phương có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối
với các quốc gia thành viên. Một mặt, Công ước thừa nhận sự đặc biệt dễ bị tổn thương của trẻ em và
đặt ra những ngun tắc có tính tồn diện nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Mặt khác, Cơng
ước cịn đưa ra sự chú ý đặc biệt đối với trẻ em tị nạn, trẻ em tàn tật, trẻ em thuộc dân tộc thiểu số, trẻ
em bị xâm hại tình dục hay bị bóc lột sức lao động...


Không giống như những tuyên ngôn, tuyên bố, quy tắc, hướng dẫn hay chương trình hành động, chỉ
mang tính chất khuyến nghị, là những điều luật “mềm”, Cơng ước là luật “cứng” vì nó ràng buộc về
nghĩa vụ pháp lý quốc tế đối với các quốc gia đã phê chuẩn hay gia nhập. Công ước quy định thành lập
Uỷ ban về quyền trẻ em với 18 chuyên gia được đề cử từ các quốc gia thành viên, nhưng hoạt động độc
lập nhằm giám sát các quốc gia thành viên thực hiện các điều khoản của Công ước.


<b>5. Nội dung cơ bản của Công ước quốc tế về quyền trẻ em </b>


<i><b>5.1. Q trình soạn thảo Cơng ước</b></i>


Trong khi chuẩn bị cho Năm quốc tế về thiếu nhi năm 1979, ý tưởng một Công ước về quyền trẻ em
nhằm tăng cường hiệu quả của Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em năm 1924 và Tuyên ngôn về
quyền trẻ em năm 1959 đã giành được sự ủng hộ của nhiều nước. Phái đoàn Ba Lan đặt vấn đề với Uỷ
ban quyền con người về khả năng có thể cho ra đời một công ước. Uỷ ban quyền con người đã lập ra


một nhóm cơng tác đứng đầu là luật sư người Ba lan Adam Lopatka để thảo ra một văn bản của Công
ước. Các tổ chức cứu trợ trẻ em và các tổ chức phi Chính phủ khác đưa ra một số các đề nghị có tác
động lớn đến văn bản dự thảo thực tế của công ước.


Năm 1983, 3 tổ chức phi Chính phủ, đó là: Tổ chức Bảo vệ trẻ em quốc tế, Văn phòng trẻ em Thiên
chúa giáo quốc tế và Tổ chức Rada Barnen quốc tế có sáng kiến kêu gọi một cuộc họp tư vấn gồm các tổ
chức phi Chính phủ để xem xét dự thảo Công ước và gửi kiến nghị lên để nhóm cơng tác cân nhắc.
Nhóm cơng tác họp hàng năm và đã đệ trình các dự thảo lên Ủy ban quyền con người. Năm 1988, văn
bản dự thảo đã được Ủy ban quyền con người phê duyệt. Sau đó được Hội đồng Kinh tế - Xã hội LHQ
và cuối cùng là Đại hội đồng LHQ thơng qua ngày 20/11/1989.


Tính đến ngày 4/5/2009 Cơng ước đã có 193 quốc gia thành viên. Ngày 26/01/1990, Việt Nam là nước
thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên ở Châu Á ký. Ngày 20/02/1990, Hội đồng Nhà nước đã phê
chuẩn Công ước mà khơng có bảo lưu bất cứ điều khoản nào. Đến nay, chỉ cịn duy nhất có Mỹ và
Somali là thành viên Liên hợp quốc đã ký, nhưng chưa phê chuẩn Công ước 3<sub>. </sub>


<i><b>5.2. Những nguyên tắc cơ bản của Công ước</b></i>


<i>Nguyên tắc Không phân biệt đối xử </i>


Nguyên lý cơ bản và cũng là nền tảng của Công ước là quyền bình đẳng của trẻ em. Là con người, các
em có cùng những giá trị tự thân như những người đã trưởng thành; các em cần được hưởng quyền của
các em một cách bình đẳng. Khoản <i>khơng phân biệt</i> của Điều 2 nhấn mạnh trách nhiệm phải đảm bảo để
mọi trẻ em được hưởng các quyền và cơ hội ngang nhau.


Thuật ngữ <i>phân biệt đối xử </i>được hiểu là ngụ ý bất cứ sự đối xử khác biệt, loại trừ, cấm đoán hoặc ưu
tiên nào dựa trên bất cứ cơ sở nào như chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, quan điểm chính
trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, hồn cảnh ra đời và tình trạng khác,


3<sub> Lý do Mỹ chưa phê chuẩn Công ước vì có quan điểm khác nhau về các nhóm quyền con người. Trên thực tế, Mỹ chỉ coi</sub>



trọng và nhấn mạnh các quyền dân sự, chính trị mà khơng thừa nhận quyền kinh tế, xã hội và văn hoá là quyền con người. Vì
thế đến nay, Mỹ vẫn chưa tham gia Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hố năm 1966. Trong khi Cơng ước
quốc tế về quyền trẻ em đề cập các quyền của trẻ em trên cả hai phương diện: quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, xã hội
và văn hố. Hơn nữa, Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em cấm các quốc gia thành viên áp dụng hình phạt tử hình đối với
người chưa thành niên; trong khi hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên vẫn được duy trì tại một số bang ở Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nhằm hoặc có ảnh hưởng tới việc vô hiệu hoặc làm tổn hại tới địa vị, cộng việc hay các hoạt động khác
của tất cả mọi người, đối với bất kỳ quyền và tự do nào.


<i>Nguyên tắc Lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em </i>


Trong tất cả những hành động liên quan đến trẻ em, dù cho các cơ quan phúc lợi xã hội cơng cộng hay
tư nhân, tồ án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ
em phải là mối quan tâm hàng đầu. Nguyên tắc <i>Lợi ích tốt nhất cho trẻ em</i> phải tác động được tới quá
trình soạn thảo luật, các quyết định chính quyền và tất cả các hành động khác có liên quan tới trẻ.


<i>Nguyên tắc Sống cịn và phát triển </i>


Các em có quyền được sống và phát triển. Từ <i>sống còn</i> đề cập tới một khía cạnh mạnh của quyền được
sống, trong đó có nhu cầu được phịng ngừa như vệ sinh mơi trường, hỗ trợ ni con bằng sữa mẹ, tiêm
chủng và phịng ngừa tai nạn. Thuật ngữ <i>phát triển</i> nhấn mạnh về khía cạnh chất lượng, đề cập tới sự lớn
mạnh về thể chất và sức khoẻ, sự phát triển về văn hoá, tinh thần, đạo đức, xã hội và tâm hồn. Lời mở
đầu của Công ước nêu trẻ em phải được <i>ni dưỡng theo tinh thần hồ bình, phẩm giá, khoan dung, tự</i>


<i>do, bình đẳng và đồn kết.</i> Cơng ước cũng qui định mục đích của giáo dục là <i>phát triển tối đa nhân</i>


<i>cách, tài năng, các khả năng về trí tuệ và thể chất của trẻ em</i>. <i>Giáo dục còn có nhiệm vụ chuẩn bị cho</i>


<i>đứa trẻ để em sống một cuộc sống có trách nhiệm trong một xã hội tự do, theo tinh thần hiểu biết, hồ</i>


<i>bình, khoan dung, bình đẳng nam nữ và hữu nghị giữa các dân tộc, các nhóm chũng tộc, dân tộc, tơn</i>
<i>giáo và những người bản địa. </i>


<i>Nguyên tắc Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của trẻ em </i>


Trẻ em có quyền nói lên ý kiến của mình; ý kiến của các em phải được coi trọng, tuỳ theo độ tuổi và sự
trưởng thành của các em. Trong bất cứ đánh giá nào về lợi ích tốt nhất cho trẻ em, điểm thiết yếu là bản
thân mỗi đứa trẻ (không phải là trẻ em theo một hướng nhất thể hoá) phải được quyền nêu ý kiến riêng
của mình và ý kiến đó phải được coi trọng. Nguyên tắc này không chỉ ảnh hưởng tới mọi mặt của đời
sống trẻ em mà cịn khích lệ việc lắng nghe ý kiếm trẻ em trên chính trường. Trong tinh thần chung của
Công ước, bất cứ một xã hội dân chủ nào cũng cần phải lắng nghe ý kiến của những cơng dân trẻ của
mình, nếu muốn công nhận quyền lợi của các em.


<i><b>5.3. Nội dung các quyền của trẻ em</b></i>


Điều Nội dung Phân tích/Bình luận


Điều


1 Trẻ em là những người
dưới 18 tuổi


Quy định mở, độ tuổi được coi là trẻ em có thể khác nhau giữa các
quốc gia.


Độ tuổi bắt đầu được coi là trẻ em không quy định cụ thể, nhưng về
nguyên tắc, “...trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể
cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý từ trước cũng như sau khi ra
đời” (Lời nói đầu).



Điều
2


Khơng phân
biệt đối xử


Tất cả trẻ em trên thế giới đều được hưởng các quyền trẻ em trong
Công ước, không phụ thuộc vào các yếu tố dân tộc, chủng tộc, giới
tính, tơn giáo, dịng dõi gia đình, tài sản...và bất kỳ yếu tố nào.
Điều


3


Lợi ích tốt
nhất dành cho
trẻ em


Trong mọi hoạt động có liên quan đến trẻ em, nhà nước, các bậc cha
mẹ và các chủ thể khác phải lấy lợi ích của trẻ em là ưu tiêu hàng
đầu.


Điều


4 Trách nhiệm của các quốc
gia thành
viên


Các quốc gia thành viên phải tiến hành mọi biện pháp pháp lý và
các biện pháp thích hợp khác để thực hiện các quyền trẻ em trong
Công ước.



Điều
5


Quyền, trách
nhiệm của
các bậc cha
mẹ trong việc


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

chỉ bảo,
hướng dẫn
con cái.


Quyền và nghĩa vụ kể trên có thể áp dụng với những người giám hộ
hoặc những thành viên trong gia đình mở rộng hoặc cộng đồng.
Điều


6


Quyền được
sống và phát
triển


Mỗi trẻ em đều có quyền được sống, khơng ai được xâm hại tính
mạng của trẻ.


Các quốc gia phải bảo đảm đến mức tối đa có thể được sự sống cịn
và phát triển của trẻ em.


Điều


7


Quyền có họ
tên và quốc
tịch


Trẻ em phải được đăng ký họ tên, quốc tịch ngay sau khi sinh.
Trong chừng mực có thể, trẻ em có quyền được biết cha mẹ mình là
ai và được cha mẹ chăm sóc sau khi ra đời.


Điều


8 Quyền được giữ gìn bản
sắc


Trẻ em có quyền giữ gìn bản sắc của mình, kể cả họ tên, quốc tịch
và quan hệ gia đình.


Trường hợp trẻ em bị tước đoạt các yếu tố thuộc về bản sắc, phải
được các quốc gia thành viên giúp đỡ khôi phục


Điều
9


Quyền được
sống chung
với cha mẹ


Không được cách ly trẻ em khỏi cha mẹ trừ khi điều đó vì lợi ích
tốt nhất của trẻ (như khi trẻ em bị cha mẹ lạm dụng, sao nhãng hoặc


khi cha mẹ sống cách ly nhau và cần có một quyết định về nơi cư trú
của trẻ em). Sự cách ly như vậy chỉ có thể được thực hiện bằng một
quyết định theo pháp luật của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong các trường hợp bị cách ly, trẻ em có quyền được duy trì quan
hệ và tiếp xúc trực tiếp với cha, mẹ thường xuyên, trừ trường hợp
điều đó khơng có lợi cho trẻ.


Nếu cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ bị giam giữ, đi đày, bị tử hình hay
chết trong tù thì nhà nước cung cấp thơng tin về việc đó cho trẻ em,
trừ khi việc cung cấp thơng tin đó khơng có lợi cho trẻ.


Điều
10


Quyền được
đồn tụ gia
đình


Áp dụng trong trường hợp, vì những lý do nhất định, trẻ em và bố
mẹ phải sống ở những quốc gia khác nhau.


Trẻ em và cha mẹ của các em có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào
cũng như có quyền trở về nước mình với mục đích đồn tụ gia đình.
Các quốc gia thành viên phải bảo đảm quyền này bằng cách xem xét
thủ tục xuất, nhập cảnh cho trẻ em và cha mẹ một cách thuận lợi,
nhanh chóng.Trong trường hợp trẻ em và cha mẹ sống ở những
nước khác nhau, trẻ em có quyền được duy trì quan hệ và tiếp xúc
với cha mẹ đều đặn.


Điều


11


Bảo vệ trẻ em
khỏi việc
đưa ra nước
ngồi bất hợp
pháp và
khơng đưa
trở về


Các quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp phòng chống
việc mang trẻ em ra nước ngoài hay giữ trẻ em ở nước ngoài một
cách bất hợp pháp bởi cha, mẹ hay một bên thứ ba nào đó, thơng
qua việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về vấn đề này.


Điều
12


Tôn trọng và
lắng nghe ý
kiến của trẻ
em


Trẻ em phải có cơ hội hình thành và bày tỏ quan điểm riêng của
mình về các vấn đề liên quan đến trẻ, trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt
trong tố tụng hình sự, hành chính.


Những quan điểm, ý kiến của trẻ phải được tôn trọng, tuỳ theo độ
tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ.



Điều
13


Quyền tự do
biểu đạt và


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tiếp nhận


thơng tin Quyền này bao gồm việc tìm kiếm, tiếp nhận, phổ biến tất cả các loại thông tin, tư tưởng, bằng bất kỳ hình thức truyền thơng nào,
không chịu bất kỳ giới hạn nào về lãnh thổ.


Quyền này có thể phải chịu những giới hạn do pháp luật quy định
để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng, y tế, đạo đức và để
tôn trọng quyền, tự do của người khác.


Điều
14


Quyền tự do
tư tưởng, tự
do tín
ngưỡng và
tơn giáo


Trẻ em có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo.


Nhà nước phải tôn trọng các quyền này của trẻ em, đồng thời phải
tôn trọng quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và khi thích hợp, của người
giám hộ pháp lý, trong việc hướng dẫn trẻ em thực hiện các quyền
này.



Điều


15 Quyền được tự do kết
giao, hội họp
hồ bình


Trẻ em có quyền được tự do gặp gỡ với những trẻ em khác một
cách hồ bình, gia nhập, thành lập các tổ chức của trẻ em.


Quyền này có thể phải chịu những giới hạn do pháp luật quy định
để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng, y tế, đạo đức và để
tôn trọng quyền, tự do của người khác.


Điều
16


Quyền được
bảo vệ sự
riêng tư


Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp tuỳ
tiện vào những việc riêng tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín hay sự
nói xấu, vu cáo.


Điều
17


Quyền được
tiếp xúc với


những thơng
tin thích hợp
từ nhiều
nguồn


Trẻ em có quyền được tiếp xúc, thu nhận những thơng tin, tài liệu
từ nhiều nguồn khác nhau.


Nhà nước phải có biện pháp khuyến khích các phương tiện thơng
tin đại chúng truyền bá những thông tin lành mạnh, tiến bộ, có ích
cho sự phát triển thể chất, tinh thần, đạo đức của trẻ em; đồng thời
phải có những biện pháp bảo vệ trẻ em khỏi những thông tin, tài liệu
độc hại.


Điều
18


Quyền, trách
nhiệm của
cha mẹ trong
việc nuôi dạy
con cái


Cha mẹ hoặc người giám hộ pháp lý có trách nhiệm hàng đầu trong
việc ni dưỡng trẻ em.


Ni dưỡng, chăm sóc con cái là trách nhiệm chung của các bậc
cha mẹ.


Các quốc gia thành viên có trách nhiệm dành cho các bậc cha mẹ


và người giám hộ pháp lý sự giúp đỡ thích hợp trong việc ni
dưỡng, chăm sóc trẻ em.


Điều
19


Quyền được
bảo vệ khỏi
các hình thức
bạo lực, lạm
dụng, bóc lột,
sao nhãng.


Trẻ em có quyền được Nhà nước bảo vệ khỏi các hình thức bạo lực
về thể chất, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, bị lạm dụng (gồm cả
lạm dụng tình dục), bị bỏ mặc hoặc sao nhãng sự chăm sóc, bị
ngược đãi hoặc bóc lột trong khi trẻ em đang sống với cha mẹ, hoặc
một người trong cha, mẹ; của người giám hộ pháp lý hoặc của bất
kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em.


Sự bảo vệ của các quốc gia bao gồm cả việc quy định các biện pháp
xử lý vi phạm, các chương trình xã hội hỗ trợ trẻ em bị xâm hại...
Điều


20


Quyền được
chăm sóc,
ni dưỡng
khi bị mất


mơi trường
gia đình


Trẻ em bị mất mơi trường gia đình tạm thời hay vĩnh viễn có quyền
được nhà nước bảo đảm sự chăm sóc thay thế, phù hợp với quy định
của pháp luật quốc gia.


Các hình thức chăm sóc thay thế có thể là gửi ni, nhận làm con
nuôi hoặc đưa trẻ vào các cơ sở chăm sóc thích hợp...


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

ngơn ngữ...của trẻ em. Việc đưa trẻ em và các trung tâm nuôi dưỡng
là biện pháp cuối cùng.


Điều


21 Quyền được nhận làm con
ni


Trẻ em có quyền được nhận làm con ni. Việc nhận trẻ em làm
con nuôi phải được tiến hành theo quy định của pháp luật, với mục
đích nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ.


Việc cho trẻ em làm con ni người nước ngồi chỉ được tiến hành
khi khơng thể tìm được mơi trường chăm sóc thay thế cho trẻ ở
trong nước và phải bảo đảm trẻ phải được bảo vệ, chăm sóc với
những tiêu chuẩn tương đương với các tiêu chuẩn ở trong nước.
Điều


22



Quyền được
bảo vệ và
giúp đỡ nhân
đạo (với trẻ
em tỵ nạn)


Trẻ em xin quy chế tỵ nạn hoặc được coi là tỵ nạn có quyền được
bảo vệ và giúp đỡ nhân đạo thích đáng, kể cả khi khơng có cha mẹ
hay người nào khác đi cùng. Sự bảo vệ và giúp đỡ đó bao gồm cả
việc tìm kiếm thơng tin về cha mẹ và các thành viên khác trong gia
đình để giúp trẻ em đồn tụ gia đình.


Điều
23


Quyền được
điều trị, giáo
dục và chăm
sóc đặc biệt.


Trẻ em tàn tật về thể chất, tinh thần có quyền được chăm sóc, giáo
dục và điều trị đặc biệt để giúp các em có cuộc sống trọn vẹn, đầy
đủ, được bảo đảm phẩm giá, đạt được mức độ tự lập và hoà nhập
với xã hội ở mức độ cao nhất có thể được.


Điều


24 Quyền được chăm sóc y
tế.



Trẻ em có quyền được chăm sóc y tế và được hưởng trạng thái sức
khoẻ ở mức độ cao nhất có thể được.


Các quốc gia thành viên phải chú trọng đặc biệt tới việc phịng
bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ em, chăm sóc sức khỏe
thích hợp cho bà mẹ trước và sau khi sinh, chống suy dinh dưỡng,
xố bỏ những tập tục có hại cho sức khỏe trẻ em, giáo dục sức khỏe,
y tế và giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.


Điều


25 Xem xét địnhkỳ nơi nuôi
dưỡng


Không được lãng quên, bỏ rơi những trẻ em đang được ni dưỡng,
chăm sóc thay thế tại các gia đình và các tổ chức xã hội.


Những trẻ em này có quyền được nhà nước bố trí chăm sóc, bảo vệ,
điều trị y tế và định kỳ xem xét việc thực hiện các quy định về việc
đó của các cơ sở ni dưỡng.


Điều


26 Quyền được hưởng an
sinh xã hội.


Trẻ em có quyền được hưởng các lợi ích từ an sinh xã hội, kể cả
bảo hiểm xã hội.


Quyền này được bảo đảm tuỳ theo hoàn cảnh của trẻ em của những


người ni dưỡng trẻ em và nguồn lực hiện có của quốc gia.


Điều


27 Quyền có mức sống đầy
đủ


Trẻ em có quyền có mức sống đủ để phát triển về thể chất, trí tuệ,
tinh thần, đạo đức và xã hội.


Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu trong việc bảo đảm quyền này cho
trẻ em. Nhà nước phải thi hành các biện pháp thích hợp để giúp đỡ
các bậc cha mẹ thực hiện nghĩa vụ này.


Nhà nước phải có trách nhiệm thi hành những biện pháp thích hợp
nhằm thu hồi chi phi ni nấng trẻ em từ cha mẹ hay những người
có trách nhiệm khác ở trong nước hoặc nước ngoài.


Điều
28


Quyền được
học tập


Các quốc gia thành viên phải bảo đảm giáo dục tiểu học là miễn phí
và bắt buộc, khuyến khích phát triển các hình thức giáo dục trung
học để mọi trẻ em đều có thể tiếp cận, thúc đẩy, khuyến khích hợp
tác quốc tế trong giáo dục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

29 giáo dục của trẻ em, phát triển sự tôn trọng với cha mẹ, với bản sắc văn hoá,


các giá trị của bản thân và của đất nước mình hoặc đất nước mà trẻ
em đang sinh sống, chuẩn bị cho trẻ em có một cuộc sống tích cực ở
độ tuổi người lớn trong một xã hội dân chủ, theo tinh thần hiểu biết,
hồ bình, khoan dung, bình đẳng và hữu nghị giữa các dân tộc.
Điều


30 Quyền của trẻem các cộng
đồng thiểu số
và bản địa


Trẻ em thuộc các cộng đồng thiểu số hoặc bản địa có quyền hưởng
nền văn hố, theo tơn giáo, sử dụng ngơn ngữ riêng của cộng đồng
mình.


Điều
31


Quyền được
nghỉ ngơi, vui
chơi, giải trí,
sinh hoạt văn
hố


Trẻ em có quyền được nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí và có cơ hội
tham gia vào các hoạt động văn hoá, nghệ thuật một cách bình đẳng.


Điều


32 Quyền được bảo vệ khỏi
sự bóc lột về


kinh tế


Trẻ em có quyền được bảo vệ không phải làm những công việc
nguy hiểm, có hại cho sức khoẻ, sự phát triển về thể chất, trí tuệ,
tinh thần, đạo đức hay xã hội hoặc ảnh hưởng đến việc học tập của
trẻ.


Nhà nước phải áp dụng các biện pháp để bảo vệ quyền này của trẻ
em, đặc biệt là ấn định tuổi tối thiểu cho việc tuyển dụng lao động,
thời gian làm việc và điều kiện lao động cũng như các hình thức xử
lý việc sử dụng lao động trẻ em.


Điều
33


Quyền được
bảo vệ khỏi
tác động của
chất ma tuý


Các quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp thích hợp để
bảo vệ trẻ em khỏi việc sử dụng bất hợp pháp chất ma tuý và bị lôi
kéo vào việc sản xuất, buôn bán trái phép chất ma tuý.


Các chất ma tuý được hiểu là các chất kích thích đã bị cấm trong
các hiệp ước quốc tế (không bao gồm rượu và thuốc lá)


Điều
34



Quyền được
bảo vệ khỏi
bị bóc lột,
lạm dụng tình
dục.


Các quốc gia thành viên phải bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bóc
lột, lạm dụng tình dục, bao gồm việc lôi kéo, ép buộc trẻ em tham
gia vào các hoạt động tình dục, bóc lột trẻ em trong mại dâm, sử
dụng trẻ em trong biểu diễn hay tài liệu khiêu dâm.


Lạm dụng tình dục được hiểu là việc quan hệ tình dục với trẻ em
khi cịn quá trẻ và ngược lại với ý muốn của trẻ.


Khai thác tình dục được hiểu là việc sử dụng trẻ em trong hoạt
động mại dâm, trong những buổi trình diễn hoặc trong các văn hố
phẩm khiêu dâm.


Điều
35


Quyền được
bảo vệ chống
bắt cóc và
bn bán.


Trẻ em có quyền được nhà nước bảo vệ chống bắt cóc, bn bán vì
bất kỳ mục đích gì, dưới bất kỳ hình thức nào như để làm con ni,
để khai thác tình dục, khiêu dâm hay khai thác các bộ phận cơ thể.
Buôn bán trẻ em được hiểu là hình thức mua bán có tổ chức mà trẻ


em là đối tượng bị đem trao đổi.


Bắt cóc trẻ em được hiểu là việc bắt và đưa trẻ em đi một cách bất
hợp pháp nhằm các mục đích tống tiền, làm con ni, khai thác tình
dục, khiêu dâm...


Điều


36 Bảo vệ trẻ emkhỏi các hình
thức bóc lột
khác


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Điều


37 Quyền khơngbị tra tấn, đối
xử, trừng
phạt tàn bạo,
vô nhân đạo
và tước đoạt
tự do


Các quốc gia thành viên phải bảo đảm trẻ em không bị tra tấn, đối
xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay nhục hình trong suốt
các giai đoạn của tố tụng hình sự.


Trẻ em khơng bị xử tử hình và chung thân, không bị giam chung
với người lớn trừ trường hợp vì lợi ích tốt nhất của trẻ.


Trẻ em phải được hưởng sự trợ giúp pháp lý và những trợ giúp
thích hợp khác trong q trình tố tụng; được duy trì sự tiếp xúc với


gia đình trong quá trình bị giam giữ.


Việc bắt, giam giữ, bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo đúng
pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng, với thời gian thích
hợp ngắn nhất.


Điều
38


Quyền của trẻ
em trong
xung đột vũ
trang


Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng, trẻ em dưới 15 tuổi
không phải trực tiếp tham gia chiến sự.


Khi tuyển mộ những trẻ em từ 15 đến dưới 18 tuổi vào lực lượng
vũ trang, phải thực hiện theo thứ tự ưu tiên từ cao tuổi xuống thấp.
Những trẻ em bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang được bảo vệ,
chăm sóc.


Điều
39


Quyền được
phục hồi về
thể chất, tâm
lý và tái hoà
nhập xã hội.



Trẻ em trong xung đột vũ trang, trẻ em bị bóc lột, bỏ mặc, lạm
dụng, tra tấn hay bất kỳ hình thức đối xử, xử phạt độc ác, vơ nhân
đạo và nhục hình nào có quyền được nhà nước bảo đảm sự điều trị,
chăm sóc, giúp các em phục hồi giúp và tái hoà nhập vào xã hội.
Điều


40 Quyền được xét xử công
bằng


Trẻ em làm trái pháp luật phải được đối xử theo cách thức nhằm
nâng cao ý thức của các em về nhân phẩm, giá trị cá nhân, có xem
xét đến độ tuổi và nhằm mục đích hội nhập các em vào xã hội.
Không một trẻ em nào bị truy tố về những hành động hoặc không
hành động mà tại thời điểm đó, khơng cấu thành tội phạm theo pháp
luật quốc gia và quốc tế.


Không một trẻ em nào bị coi là có tội trước khi hành vi phạm tội
được chứng minh bằng pháp luật.


Trẻ em bị cáo buộc phạm tội phải được thông báo về lý do buộc tội,
được bào chữa và hưởng sự trợ giúp pháp lý, được xét xử nhanh
chóng bởi một tồ án có thẩm quyền, độc lập, khơng thiên vị; được
giúp đỡ phiên dịch không mất tiền; được tơn trọng sự riêng tư trong
q trình tố tụng; được thẩm vấn những người làm chứng chống lại
mình và khơng bị buộc phải làm chứng chống lại chính mình; có
quyền kháng cáo.


Đối với trẻ em làm trái pháp luật, khuyến khích các quốc gia áp
dụng các biện pháp xử lý khác, mà chưa cần thiết phải áp dụng các


biện pháp hình sự .


Các quốc gia thành viên cần có những quy định riêng trong xử lý
trẻ em làm trái pháp luật và quy định độ tuổi tối thiểu phải chịu
trách nhiệm hình sự trong pháp luật.


<b>6. Các nhóm quyền trẻ em được thể hiện trong Công ước</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i><b>6.1. Nhóm quyền được sống cịn</b></i>


Đó là bảo đảm quyền được sống và đáp ứng các nhu cầu cơ bản để tồn tại.


Do trẻ em là những cá thể còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần, không thể tự nuôi sống được bản thân
nên trong Công ước bổ sung một khía cạnh mới vào khái niệm quyền được sống nhằm ngăn chặn các
quốc gia có các hoạt động tuỳ tiện dẫn đến tước đoạt quyền sống của trẻ em. Điều 6 của Công ước yêu
cầu các quốc gia đảm bảo ở mức cao nhất có thể sự sống còn và phát triển của trẻ. Khái niệm “bảo đảm
sự sống cịn” của trẻ em được mở rộng khơng chỉ bao gồm việc bảo đảm không bị tước đoạt về tính
mạng, mà cịn bao gồm việc đảm bảo cho trẻ em được cung cấp chất dinh dưỡng và sự chăm sóc y tế ở
mức độ cao nhất. Điều này được hiểu là giảm tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh và trẻ em, cung cấp chăm sóc sức
khỏe ban đầu; giảm tình trạng suy dinh dưỡng; cung cấp nước sạch, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em;
đảm bảo mọi người đều có thơng tin về sức khoẻ và xúc tiến các chiến lược y tế dự phòng và kế hoạch
hố gia đình.


Nhóm quyền sống cịn bao gồm các điều sau đây:


Điều 6: Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng mỗi trẻ em đều có quyền được sống.
Các quốc gia cần đảm bảo cho sự sống còn và phát triển của trẻ em ở mức cao nhất.
Điều 24: Quyền có sức khoẻ và được chăm sóc sức khoẻ


<i><b>6.2. Nhóm quyền được bảo vệ</b></i>



Nhằm bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bị bỏ rơi và bị lạm dụng.


Công ước thừa nhận sự cần thiết phải bảo vệ trẻ em khỏi các tình huống có thể làm giảm cơ hội sống
còn và phát triển của trẻ em. Tuy nhiên, khái niệm “bảo vệ trẻ em” cũng không dừng lại ở việc ngăn
ngừa những sự xâm hại về thể chất, tinh thần với trẻ mà còn bao gồm cả việc ngăn ngừa và khắc phục
những điều kiện bất lợi đối với cuộc sống của trẻ em.


Toàn bộ Công ước về Quyền trẻ em quan tâm đến việc bảo vệ trẻ em khỏi:


- <i>Mọi hình thức bị bỏ rơi:</i> Bao gồm sự bỏ rơi của bố mẹ hoặc xã hội, tước đi sự chăm sóc sức


khoẻ và giáo dục đối với trẻ.


- <i>Các tình huống nguy hiểm và chiến tranh</i>: Bao gồm những yếu tố có thể đe doạ khẩn cấp đối với


sự sống còn và phát triển của trẻ em, như thảm hoạ do thiên nhiên hoặc con người gây ra. Trẻ
em tị nạn, trẻ em sống trong bối cảnh xung đột vũ trang và trẻ em làm trái pháp luật được quy
định có những biện pháp bảo vệ đặc biệt.


- <i>Sự lạm dụng và bóc lột</i>: Công ước cũng quy định việc phục hồi và tái hoà nhập cho trẻ em là nạn


nhân của sự lạm dụng, bóc lột về kinh tế, tình dục và các hình thức khác. Cơng ước cũng nhấn
mạnh các biện pháp bảo vệ trẻ em khỏi nạn bắt cóc, bn bán.


- <i>Mọi hình thức phân biệt đối xử</i>: Cơng ước bảo vệ trẻ em gái, trẻ em tàn tật, trẻ em tị nạn, trẻ em


dân tộc thiểu số, trẻ em bản địa khỏi bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào. Đối với trẻ em
khuyết tật, có quyền được giáo dục hồ nhập có chất lượng ở các cấp học cơ sở trên cơ sở bình
đẳng như những trẻ em khác trong cộng đồng mà các em đang sinh sống.



<i><b>Đối với nhà trường, các thầy cơ giáo có trách nhiệm bảo đảm quyền được bảo vệ của trẻ em, tránh</b></i>
<i><b>tất cả những tác động xấu đến học sinh, thông qua biện pháp giáo dục, phát hiện và ngăn ngừa các</b></i>
<i><b>hành vi xâm hại; giáo dục cho học sinh khơng được phép xâm hại thân thể, nhân phẩm tính mạng</b></i>
<i><b>của bạn. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i><b>Thầy cô giáo phải là tấm gương trong việc tôn trọng quan điểm nhân cách của học sinh, không được</b></i>
<i><b>xúc phạm, lăng mạ, xâm hại thân thể học sinh vì bất kỳ lý do gì.</b></i>


<i><b>Thầy cô giáo phải là người chịu trách nhiệm bảo đảm quyền được đối xử cơng bằng, bình đẳng của</b></i>
<i><b>tất cả học sinh; đặc biệt quan tâm, chú ý đến các học sinh có hồn cảnh đặc biệt khó khăn như trẻ</b></i>
<i><b>em khuyết tật, trẻ em sống chung với HIV/AIDS</b><b>4</b><b><sub>, trẻ em mồ cơi, trẻ em vi phạm pháp luật…</sub></b></i>


Nhóm quyền này gồm các điều sau đây:
Điều 2: Không phân biệt đối xử;
Điều 7: Quyền có tên gọi và quốc tịch;
Điều 8: Quyền giữ gìn bản sắc;


Điều 10: Quyền được sum họp với gia đình;


Điều 11: Được bảo vệ khỏi sự chuyển giao trái phép và không trở lại;
Điều 16: Quyền có sự riêng tư;


Điều 19: Được bảo vệ khỏi sự bỏ rơi và lạm dụng;
Điều 20: Bảo vệ những trẻ em không có gia đình;
Điều 21: Quyền được nhận làm con nuôi;


Điều 22: Quyền của các trẻ em được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt;
Điều 23: Quyền được chăm sóc đặc biệt đối với trẻ em bị khuyết tật;
Điều 25: Quyền được định kỳ xét lại nơi trú ngụ;



Điều 30: Quyền của trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em bản xứ, được tham gia văn
hố, đi theo tơn giáo và nói tiếng nói của dân tộc mình;


Điều 32: Quyền được bảo vệ khỏi sự bóc lột về kinh tế;
Điều 33: Quyền được bảo vệ khỏi tệ nạn ma tuý;
Điều 34: Quyền được bảo vệ khỏi lạm dụng tình dục;


Điều 35: Quyền được bảo vệ khỏi sự mua bán, buôn lậu và bắt cóc;
Điều 36: Được bảo vệ khỏi các hình thức bóc lột khác;


Điều 37: Quyền khơng bị tra tấn và tước quyền tự do;
Điều 38: Được bảo vệ khỏi xung đột vũ trang;


Điều 39: Quyền được chăm sóc phục hồi;
Điều 40: Quyền được xét xử cơng bằng.


<i><b>6.3. Nhóm quyền được phát triển</b></i>


Là những nhu cầu cải thiện chất lượng cuộc sống, đảm bảo cho trẻ em phát triển toàn diện cả về thể chất
và tinh thần.


Công ước định nghĩa sự phát triển của trẻ em theo khái niệm rộng nhất. Đó là sự phát triển tồn diện
khơng chỉ sự phát triển về thể chất, trí tuệ mà cịn bao gồm cả các mặt về đạo đức, nhân cách. Cách tiếp
cận này, đòi hỏi sự quan tâm rộng lớn của gia đình, nhà nước, nhà trường và tồn xã hội, có trách nhiệm
chăm lo cho sự phát triển toàn diện của trẻ; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cần thiết cho sự phát
triển của trẻ từ tiêu chuẩn sống tối thiểu như dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, vui chơi, giải trí
đến an sinh xã hội…Chính vì vậy, tất cả những quyền của trẻ em có tác động đến quá trình phát triển
của trẻ được xếp vào nhóm quyền được phát triển.



4<sub> Một điểm chú ý: Công ước quốc tế về quyền trẻ em chưa đề cập tới nhóm đối tượng trẻ em nhiễm HIV/AIDS do thời điểm</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Đối với nhà trường, các thầy cô giáo bảo đảm quyền phát triển tồn diện của trẻ, có trách nhiệm giáo
dục hồn thiện nhân cách, phát triển về trí tuệ, đạo đức, tình cảm, bảo đảm cho học sinh được tham gia
đầy đủ các hoạt động vui chơi, giải trí, các hoạt động ngoại khố; thầy cơ giáo phải tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của học sinh; phối hợp cùng với gia đình thực hiện tốt quyền phát triển của trẻ em…


Nhóm quyền này bao gồm các điều sau đây:
Điều 5: Quyền được cha mẹ hướng dẫn, chỉ bảo;
Điều 6: Quyền sống và phát triển;


Điều 7: Quyền có tên gọi và quốc tịch;
Điều 9: Quyền được sống chung với cha mẹ;
Điều 10: Quyền được sum họp với gia đình;


Điều 11: Được bảo vệ khỏi bị chuyển giao trái phép và không trở lại;
Điều 12: Quyền được tôn trọng quan điểm;


Điều 13: Quyền tự do biểu đạt;


Điều 14: Quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo;
Điều 15: Tự do hội họp;


Điều 17: Quyền được tiếp cận với những thơng tin phù hợp;
Điều 24: Quyền có sức khoẻ và được chăm sóc sức khoẻ;
Điều 26: Quyền an sinh xã hội;


Điều 27: Quyền có mức sống ngày càng cao;
Điều 28&29: Quyền được giáo dục;



Điều 31: Quyền được nghỉ ngơi và giải trí;


Điều 32: Quyền được tham gia các hoạt động văn hố.


<i><b>6.4. Nhóm quyền được tham gia</b></i>


Đó là những quyền cho phép trẻ em tham dự vào những công việc ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng.
Cơng ước cơng nhận trẻ em có quyền được có quan điểm riêng, bày tỏ quan điểm, ý kiến riêng về các
vấn đề có liên quan đến chúng. Sự tham gia của trẻ em sẽ cho phép trẻ em hiểu được hồn cảnh của
mình và phát triển các kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, từ đó sẽ có trách nhiệm đối với xã hội, cộng đồng
và điều quan trọng là giúp các em tự khẳng định mình.


Một trong các lý do quan trọng bảo đảm quyền tham gia của trẻ em chính là xuất phát từ quan điểm:
Quyền tham gia của trẻ em là một quyền con người cơ bản. Đó vừa là nhu cầu để phát triển và hoàn
thiện nhân cách con người, vừa là điều kiện để xây dựng, tạo lập một xã hội lành mạnh, tự do, dân chủ
trong tương lai; đồng thời quyền tham gia của trẻ em cũng chính là một cách để cải tiến chất lượng các
dịch vụ cung cấp cho trẻ em.


Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, sự tham gia của trẻ em là một quá trình, từ thấp đến cao, từ phụ thuộc,
cần hướng dẫn, chỉ bảo, gợi ý của người lớn đến tự quyết định các vấn đề liên quan đến cuộc sống. Vì
thế vai trị của người lớn là rất quan trọng. Người lớn có thể gợi ý và giúp đỡ trẻ em thực hiện quyền
tham gia, phù hợp với từng lứa tuổi của các em; và điều quan trọng, người lớn cần phải lắng nghe tiếng
nói của trẻ em. Và để bảo đảm thực hiện tốt quyền tham gia của trẻ em, cần có các yếu tố như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Hai là, cần nâng cao năng lực cho trẻ thông qua việc trang bị kỹ năng tham gia, cung cấp thông tin cho
trẻ, thông báo để các em hiểu được về quyền và nghĩa vụ, thông qua bài giảng, học tập, sinh hoạt và
huấn luyện cho trẻ để giúp các em tự tin hơn và chủ động giải quyết những vấn đề có liên quan đến
chính cuộc sống của các em.


Nhóm quyền này bao gồm các điều sau đây:



Điều 12: Quyền của trẻ em có khả năng có quan điểm riêng, được tự do bày tỏ những
quan điểm đó về mọi vấn đề có liên quan đến cuộc sống của chúng. Những quan điểm
này được cân nhắc tuỳ thuộc vào lứa tuổi và sự chín chắn của chúng;


Điều 13: Tự do biểu đạt;
Điều 15: Tự do tín ngưỡng;


Điều 17: Quyền được tiếp cận thông tin phù hợp;


Điều 18: Cha mẹ chịu trách nhiệm chính trong việc ni dạy con cái. Chính phủ cần
giúp đỡ họ trong việc này. Lợi ích tốt nhất của trẻ em sẽ là những mối quan tâm chủ
yếu của họ.


<i>II. Pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em</i>


1. Khái quát hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em


Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Các quyền của trẻ em
được quy định trong cả bốn bản hiến pháp (HP 1946, HP 1959, HP 1980 và HP 1992). Năm 1979, Nhà
nước Việt Nam đã ban hành “Pháp lệnh bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Như vậy, sự nghiệp bảo
vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt nam khơng chỉ là đạo lí mà cịn mang tính pháp lý.


Ngay sau khi Nhà nước ta phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990, Quốc hội đã thơng
qua Luật Bảo vệ, Chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học; đồng thời sửa đổi, bổ
sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, hài hoà giữa pháp luật quốc gia
với pháp luật quốc tế về quyền trẻ em.


Năm 1992, Việt Nam tổ chức Hội nghị quốc gia về trẻ em và thông qua Chương trình hành động quốc
gia về trẻ em; tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động quốc gia về trẻ em (1997); Sửa


đổi Luật quốc tịch, Luật Hơn nhân và Gia đình, sửa đổi Bộ luật Hình sự trong đó có nhiều quy định về
bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên; thông qua Chương trình hành động quốc gia về bảo vệ trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt 1998-2002. Năm 2000, Việt Nam phê chuẩn Cơng ước của ILO về xố bỏ tất cả
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và sau đó, phê chuẩn 02 nghị định thư bổ sung Công ước quyền
trẻ em; Nhà nước Việt Nam đã tiến hành sửa đổi tồn diện Bộ luật tố tụng hình sự; thơng qua Chương
trình hành động quốc gia về trẻ em đến năm 2010; và thông qua Luật Bảo vệ, Chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004.


<b>2. Nội dung cơ bản Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004</b>


Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2005 và thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991. Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2004, gồm phần mở đầu, 5 chương và 60 điều.


<i><b>Chương I: Những quy định chung</b></i> gồm 10 điều quy định về độ tuổi được gọi là trẻ em; phạm vi điều
chỉnh, đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; khơng phân biệt đối xử với trẻ em; trách nhiệm bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em; thực hiện quyền của trẻ em; các hành vi bị nghiêm cấm; trách nhiệm quản
lý nhà nước, nguồn tài chính và hợp tác quốc tế về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.


Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định 10 nhóm hành vi bị nghiêm cấm, đây là 10 nhóm
hành vi mang tính đặc thù trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.


Nghiêm cấm các hành vi sau đây:


1. Cha mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em được mình giám hộ;
2. Dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi;


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

ma tuý; lôi kéo trẻ em đánh bạc; bán, cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích
thích khác có hại cho sức khoẻ;



4. Dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm; xâm hại tình
dục trẻ em;


5. Lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc trẻ em mua, bán, sử dụng văn hố phẩm kích động bạo lực,
đồi trụy; làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, tàng trữ văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ
em; sản xuất, kinh doanh đồ chơi, trị chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em;
6. Hành hạ, ngược đãi, làm nhục, chiếm đoạt, bắt cóc, mua bán, đánh tráo trẻ em; lợi
dụng trẻ em vì mục đích trục lợi; xúi giục trẻ em thù ghét cha mẹ, người giám hộ hoặc
xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác;


7. Lạm dụng lao động trẻ em, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc
tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về
lao động;


8. Cản trở việc học tập của trẻ em;


9. Áp dụng biện pháp có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc dùng
nhục hình đối với trẻ em vi phạm pháp luật;


10. Đặt cơ sở sản xuất, kho chứa thuốc trừ sâu, hoá chất độc hại, chất dễ gây cháy, nổ
gần cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hố, điểm vui chơi, giải trí của trẻ
em.


<i><b>Chương II: Các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em</b></i> gồm 12 điều, quy định về 10 quyền cơ bản của
trẻ em.


Trẻ em là công dân, nên trẻ em có các quyền, nghĩa vụ của cơng dân được Hiến pháp, pháp luật Việt
Nam và Công ước quốc tế về quyền trẻ em công nhận. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy
định 10 quyền cơ bản, đặc trưng nhất đối với trẻ em.



Quyền được khai sinh và có quốc tịch;
Quyền được chăm sóc, ni dưỡng;
Quyền được sống chung với cha mẹ;


Quyền được tơn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự;
Quyền được chăm sóc sức khoẻ;


Quyền được học tập;


Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hố, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch;
Quyền được phát triển năng khiếu,


Quyền có quyền có tài sản;


Quyền được tiếp cận thơng tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.


Quy định về các bổn phận của trẻ em nhằm giáo dục trẻ em ngay từ nhỏ phải có trách nhiệm thực hiện
các bổn phận phù hợp với từng lứa tuổi, phải rèn luyện tu dưỡng để hình thành nhân cách.


Trẻ em có các bổn phận sau đây:


1. u q, kính trọng, hiếu thảo với ơng bà, cha mẹ; kính trọng thầy giáo, cơ giáo; lễ
phép với người lớn, thương yêu em nhỏ, đoàn kết với bạn bè; giúp đỡ người già yếu,
người khuyết tật, tàn tật, người gặp hồn cảnh khó khăn theo khả năng của mình;
2. Chăm chỉ học tập, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể, thực hiện trật tự công cộng và
an tồn giao thơng, giữ gìn của cơng, tôn trọng tài sản của người khác, bảo vệ môi
trường;


3. Yêu lao động, giúp đỡ gia đình làm những việc vừa sức mình;



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

5. Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa và đoàn kết quốc tế.


Quy định những việc trẻ em không được làm


Trẻ em không được làm những việc sau đây:
1. Tự ý bỏ học, bỏ nhà sống lang thang;


2. Xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; gây rối
trật tự công cộng;


3. Đánh bạc, sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích thích khác có hại cho sức khoẻ;
4. Trao đổi, sử dụng văn hố phẩm có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy; sử dụng đồ
chơi hoặc chơi trị chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh.


<i><b>Chương III: Trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em</b></i> gồm 17 điều quy định cụ thể trách
nhiệm của từng chủ thể là gia đình, nhà nước, xã hội nhằm đảm bảo cho trẻ em được hưởng 10 quyền cơ
bản và trách nhiệm của từng chủ thể đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung.


<b>3. Về trách nhiệm của nhà trường</b>


- Bảo đảm quyền được học tập của trẻ em, Điều 28, Luật quy định:


+ Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức,
tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em; chủ động phối hợp chặt
chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.


+ Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thơng phải có điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo
viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để bảo đảm chất lượng giáo dục.



+ Người phụ trách Đội TNTPHCM trong nhà trường phải được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ, có sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, yêu trẻ, được tạo điều kiện để hoàn
thành nhiệm vụ.


- Bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch, Điều 29
Luật quy định:


+ Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em được vui chơi, giải trí,
hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi.


+ Không được sử dụng cơ sở vật chất dành cho việc học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí của trẻ em
vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ em.


- Bảo đảm quyền phát triển năng khiếu, Điều 30 Luật quy định:


+ Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm phát hiện, khuyến khích, bồi dưỡng, phát triển
năng khiếu của trẻ em.


- Bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội, Điều 32 Luật quy
định:


+ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhà trường có trách nhiệm tổ chức cho trẻ em tham gia
các hoạt động xã hội và sinh hoạt tập thể phù hợp với nhu cầu và lứa tuổi.


<b>Chương IV</b>: Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hồn cảnh đặc biệt gồm 19 điều quy định 3 nhóm


nội dung về chính sách đối với trẻ em có hồn cảnh đặc biệt; việc thành lập và hoạt động của cơ sở trợ
giúp trẻ em; các biện pháp trợ giúp đối với từng đối tượng trẻ em có hồn cảnh đặc biệt.



Trẻ em có hồn cảnh đặc biệt trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em bao gồm 11 đối tượng:


<i>Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa; trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ em bị ảnh hưởng</i>
<i>của chất độc hoá học; trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc</i>
<i>với các hoá chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình</i>


<i>dục; trẻ em bị nghiện ma tuý; trẻ em làm trái pháp luật</i>. Việc quy định từng đối tượng trẻ em có hồn


cảnh đặc biệt để làm cơ sở trong việc hoạch định chính sách và thực hiện các biện pháp giải quyết phù
hợp với từng đối tượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>4. Các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm quyền trẻ em </b>


Người có hành vi vi phạm các quyền của trẻ em, tuỳ tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, mà có thể
bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, hoặc xử lý hình sự. Đối với nhà giáo còn bị áp dụng các biện
pháp kỷ luật.


Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành quy định về
đạo đức nhà giáo. Theo đó, <i><b>một trong những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo là: phải</b></i>
<i><b>có lịng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ,</b></i>
<i><b>bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng; Nhà giáo</b></i>
<i><b>không được xâm phạm đến thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, của người học...</b></i>


<i><b>4.1. Các biện pháp xử lý hành chính đối với hành vi vi phạm quyền trẻ em</b></i>


Theo Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành
chính về dân số và trẻ em, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quyền của trẻ em có thể bị xử phạt
cảnh cáo, phạt tiền, hoặc áp dụng các biện pháp bổ sung như: a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề; b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; ngồi ra cịn có
thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả.



Một số hành vi vi phạm quyền trẻ em và các biện pháp chế tài được quy định như sau:


<i>- Hành vi kích động tình dục trẻ em (Điều 15)</i>


1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cho trẻ em tiếp xúc với văn hố phẩm, sản phẩm có nội dung khiêu dâm;
b) Tác động vào cơ thể trẻ em nhằm kích động tình dục trẻ em.


2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi đưa hình ảnh của trẻ em vào văn
hố phẩm có nội dung khiêu dâm, sản phẩm có nội dung khiêu dâm.


3. Hình thức xử phạt bổ sung: tịch thu văn hố phẩm, sản phẩm có nội dung khiêu dâm được sử dụng để
thực hiện hành vi quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều này.


<i>- Hành vi lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc trẻ em mua, bán, sử dụng văn hố phẩm có nội dung kích động bạo</i>
<i>lực, đồi trụy; sản xuất, kinh doanh đồ chơi, trị chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em</i>
<i>(Điều 16)</i>


1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi dùng quan hệ tình cảm, uy tín, sự phụ
thuộc của trẻ em, dùng tiền, vật chất, uy tín hoặc lợi ích khác, nói dối, gian lận để dụ dỗ, lôi kéo trẻ em
mua, bán, thuê, mượn, sử dụng văn hoá phẩm hoặc sản phẩm có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:


a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng uy quyền ép buộc trẻ em mua, bán, thuê, mượn,
sử dụng văn hoá phẩm hoặc sản phẩm có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy;


b) Sản xuất, vận chuyển, kinh doanh, tàng trữ trị chơi kích động bạo lực, đồi trụy, nguy hiểm, có
hại cho sự phát triển nhân cách, sức khoẻ của trẻ em.



3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi nhập khẩu đồ chơi, trị chơi kích
động bạo lực, đồi trụy, nguy hiểm, có hại cho sự phát triển nhân cách, sức khoẻ của trẻ em.


4. Hình thức xử phạt bổ sung:


a) Tước quyền sử dụng giấy phép không thời hạn đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi quy
định tại điểm b khoản 2 và khoản 3 Điều này;


b) Tịch thu tài liệu, văn hố phẩm, sản phẩm có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực, đồi trụy
được sử dụng để thực hiện hành vi quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này.


<i>- Hành vi hành hạ, ngược đãi, làm nhục trẻ em; lợi dụng trẻ em vì mục đích trục lợi (Điều 17)</i>


1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Lăng nhục, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, gây tổn thương về tinh thần của trẻ em;


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

c) Bắt trẻ em đi xin ăn; cho thuê, cho mượn trẻ em hoặc sử dụng trẻ em để xin ăn.


2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập hoặc có hành vi bạo lực
xâm phạm thân thể trẻ em làm cho trẻ em đau đớn về thể xác và tinh thần.


3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức cho trẻ em đi xin ăn.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả:


a) Buộc cá nhân, tổ chức chịu mọi chi phí để khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em do thực hiện
hành vi quy định tại điểm a và điểm b khoản 1, khoản 2 Điều này;


b) Buộc cá nhân, tổ chức chịu mọi chi phí để đưa trẻ em trở về với gia đình, gia đình thay thế
hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em do thực hiện hành vi quy định tại điểm b và điểm c khoản 1, khoản 3
Điều này.



<i>- Hành vi xúi giục trẻ em thù ghét cha, mẹ, người giám hộ hoặc xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân</i>
<i>phẩm, danh dự của người khác (Điều 18)</i>


1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi xúi giục, kích động trẻ em dưới mọi
hình thức làm cho trẻ em này thù ghét cha, mẹ, người giám hộ hoặc các thành viên khác trong gia đình.
2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi xúi giục, kích động trẻ em xâm phạm
tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác.


3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức cho trẻ em xâm phạm tính
mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác.


<i>- Hành vi cản trở việc học tập của trẻ em (Điều 20)</i>


1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau
đây:


a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng uy quyền để ép buộc trẻ em phải bỏ học, nghỉ
học;


b) Dụ dỗ, lôi kéo trẻ em bỏ học, nghỉ học;


c) Cố ý không thực hiện nghĩa vụ đóng góp theo quy định, khơng bảo đảm thời gian, điều kiện
học tập cho trẻ em.


2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Bắt trẻ em bỏ học, nghỉ học để gây áp lực, khiếu kiện, biểu tình trái pháp luật;
b) Phá hoại cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục.
3. Hình thức xử phạt bổ sung:



Tịch thu tang vật, phương tiện của cá nhân, tổ chức được sử dụng để thực hiện hành vi quy định tại điểm
b khoản 2 Điều này.


4. Biện pháp khắc phục hậu quả:


Buộc cá nhân, tổ chức khơi phục lại tình trạng ban đầu đó bị thay đổi hoặc bồi thường để khôi phục lại
cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập, giảng dạy đã bị phá hoại do thực hiện hành vi quy định tại điểm b
khoản 2 Điều này.


<i>- Hành vi áp dụng biện pháp có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc dùng nhục hình</i>
<i>đối với trẻ em vi phạm pháp luật (Điều 21)</i>


1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau
đây:


a) Lăng nhục, bắt làm những việc có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm đối với trẻ
em vi phạm pháp luật;


b) Xâm phạm thân thể, gây đau đớn về thể xác hoặc làm tổn thương về tinh thần đối với trẻ em
vi phạm pháp luật.


2. Biện pháp khắc phục hậu quả:


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>- Hành vi sử dụng cơ sở vật chất dành cho việc học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục</i>
<i>đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ em (Điều 23)</i>


1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng cơ sở vật chất dành cho việc
học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ em.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:



a) Buộc cá nhân, tổ chức nộp lại số tiền chênh lệch có được do thực hiện hành vi quy định tại
khoản 1 Điều này;


b) Buộc cá nhân, tổ chức khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi hoặc buộc tháo dỡ cơng
trình xây dựng, lắp đặt thiết bị trái phép do thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.
4.2. Các biện pháp xử lý hình sự


Hành vi vi phạm đối với trẻ em, tuỳ tính chất mức độ của hành vi có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý
hình sự. Theo Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt được áp dụng có thể là: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
khơng giam giữ, tù chung thân hoặc tử hình.


Bộ luật hình sự quy định các tội xâm phạm đối với trẻ em, gồm một số tội sau đây: Tội hiếp dâm trẻ em,
Điều112; Tội cưỡng dâm trẻ em, Điều 114; Tội giao cấu với trẻ em, Điều 115; Tội dâm ô với trẻ em,
Điều 116; Tội mua, bán đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, Điều 120; Tội dụ dỗ hoặc chứa chấp người
chưa thành niên phạm pháp, Điều 252; Tội mua dâm người chưa thành niên, Điều 256. Theo quy định
của Bộ luật hình sự, phạm tội với trẻ em là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Mặc dù Cơng ước đã được nhiều nước phê duyệt nhưng nạn bạo hành trẻ em vẫn diễn ra trên khắp thế
giới. Ở nước ta, theo số liệu của ngành y tế, số trẻ chết do nguyên nhân bạo hành chỉ đứng sau các vụ trẻ
tử vong do tai nạn giao thông và chết đuối. Theo số liệu thống kê của Bộ GDĐT thì trong năm 2008, cả
nước có 20 vụ bạo hành nghiêm trọng xảy ra ở các địa phương, số giáo viên vi phạm đạo đức nghề giáo
là 46 trường hợp, 9 giáo viên bị buộc phải thôi dạy.


Kết quả điều tra xã hội học với 198 học sinh, với câu hỏi “<i>Thầy có sử dụng các hình phạt như hù dọa,</i>


<i>cốc đầu, nhéo tai, phơi nắng…</i>” thì có 52 học sinh (26,3%) trả lời “Có”. Với câu hỏi “<i>Em có sợ thầy, cơ</i>


<i>giáo của mình khơng</i>?”, 95 em (48%) trả lời “Có”. Điều đó cho thấy một thực trạng hết sức đáng quan


ngại về vấn đề bạo lực của người lớn đối với trẻ em hiện nay (<i>Báo giáo dục thời đại số 67, năm 2009).</i>



Tất cả chúng ta phải suy nghĩ để có những giải pháp cụ thể ngăn chặn tình trạng trên. Vì hành vi bạo lực
đối với trẻ em không chỉ là vấn đề đạo đức đối với người lớn, của thầy cơ giáo hay phụ huynh mà cịn
liên quan đến việc trang bị và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ cũng như tăng cường sự hiểu biết về kỹ
năng này ở chính người lớn. Một số giải pháp cụ thể để ngăn ngừa hiện tượng trên có thể là tích cực xây
dựng mơ hình trường học thân thiện, nhanh chóng phổ biến các kiến thức về Công ước quyền trẻ em và
luật bảo vệ trẻ em của Việt Nam cho các giáo viên và các nhân viên khác trong trường học để họ nhận ra
dấu hiệu của hành vi bạo lực, chủ động ngăn ngừa và thực hiện các khung hình phạt thích đáng với hành
vi bạo hành, lạm dụng trẻ. Nhà trường phải tăng cường hơn nữa công tác truyền thông về pháp luật cho
học sinh, về quyền trẻ em, đặc biệt là trang bị kỹ năng ứng phó cho học sinh trước những biểu hiện của
hành động bạo hành.


</div>

<!--links-->

×