Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC KIỂM TOÁN ĐỂ PHÁT HIỆN GIAN LẬN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.38 KB, 49 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC KIỂM TOÁN ĐỂ PHÁT HIỆN GIAN
LẬN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Thủ tục kiểm toán trong hệ thống kiểm toán
1.1.1. Hệ thống kiểm toán
1.1.1.1. Định nghĩa kiểm toán
Ở Việt nam, thuật ngữ kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng
mới xuất hiện từ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Trên thế giới, thuật
ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ
tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực trạng tài sản của
một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Trải qua quá trình phát triển của kiểm toán,
có nhiều định nghĩa kiểm toán đã được đưa ra đứng trên 3 quan điểm khác nhau.
Đó có thể là quan điểm rằng kiểm toán đồng nghĩa với kiểm tra kế toán; hoặc
kiểm toán là hoạt động đáp ứng nhu cầu của cơ chế thị trường, xác minh và bày
tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính; hoặc kiểm toán có phạm vi rất rộng không
chỉ đánh giá tính tuân thủ các quy định, độ tin cậy của thông tin mà còn cả tính
hiệu quả và hiệu năng của hoạt động quản lý. Các quan điểm khác nhau này
không hoàn toàn đối lập với nhau mà phản ánh quá trình phát triển của cả thực
tiễn và lý luận kiểm toán.
Có thể dẫn ra sau đây một số định nghĩa về kiểm toán thường được sử
dụng. Trong Lời mở đầu “ Giải thích các chuẩn mực kiểm toán “ của Vương
quốc Anh, định nghĩa “kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến
những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ
nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩ vụ pháp định
có liên quan.”
Theo các nhà kiểm toán của Cộng Hoà Pháp:” kiểm toán là việc nghiên
cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ
danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những
khoản mục đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế, không che dấu sự
gian lận và chứng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”.
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên


độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”
Các định nghĩa này tuy cách diễn đạt và từ ngữ khác nhau song chúng đều
thống nhất ở những nội dung cơ bản: Chức năng của kiểm toán là xác minh và
bày tỏ ý kiến. Chủ thể kiểm toán là các kiểm toán viên độc lập, có nghiệp vụ.
Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định, hay chuẩn mực chung. Mục tiêu
kiểm toán có thể hướng vào những mục tiêu cụ thể khác nhau như tính trung
thực của thông tin ( information audit), tính quy tắc trong việc thực hiện các
nghiệp vụ ( regularity autdit), tính hiệu quả (efficiency audit) hay tính hiệu năng
( effectiveness audit) của hoạt động. Với chức năng và mục tiêu trên, đối tượng
kiểm toán chủ yếu là thực trạng hoạt động tài chính mà trực tiếp là các bảng
khai tài chính của khách thể kiểm toán - một tổ chức hay một thực thể kinh tế.
Như vậy trong mọi trường hợp cần tận dụng những tài liệu kế toán như những
bằng chứng đã có làm đối tượng trực tiếp của kiểm toán ( kiểm tra chứng từ).
Trong những trường hợp thiếu bằng chứng trực tiếp này, kiểm toán cần sử dụng
những phương pháp kĩ thuật để tạo lập các bằng chứng kiểm toán ( kiểm tra
ngoài chứng từ).
Ngoài ra có một điều phải khẳng định ở đây, đó là kiểm toán là một hoạt
động độc lập, không đồng nhất với kiểm tra kế toán, thuộc tính vốn có của kế
toán. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm phát triển của phép biện chứng
duy vật. “Nếu một hình thái vận động là do một hình thái khác phát triển lên thì
những phát triển của nó tức là những nghành khoa học khác nhau cũng từ một
nghành này phát triển ra một nghành khác tất yếu” (F. Anghen :”Phương pháp
biện chứng tự nhiên”. Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1963). Kiểm toán lẽ đương
nhiên là tách ra khỏi kế toán thành một nghành khoa học độc lập với đối tượng,
phương pháp riêng có của nó tất nhiên vẫn có mối quan hệ tương đối mật thiết
với khoa học kế toán.
Từ những trình bày trên có thể sử dụng định nghĩa mang tính khái quát về
kiểm toán sau đây : “ Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt
động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kĩ thuật của kiểm toán
chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp

vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”. (trích từ Lý
thuyết kiểm toán của GS.TS Nguyễn Quang Quynh, Đại học Kinh tế quốc dân,
nhà xuất bản tài chính-2006).
Trong phạm vi đề tài này, chỉ xét đến kiểm toán Báo cáo tài chính, do đó
có thể sử dụng khái niệm trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin
A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các
chuyên gia độc lập và có nghiệp vụ thu thập và đánh giá các bằng chứng về các
thông tin có thể lượng hoá được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận
và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã
được thiết lập”.
1.1.1.2.Các yếu tố cấu thành hệ thống phương pháp kiểm toán
Như mọi nghành khoa học khác, hệ thống phương pháp kiểm toán cũng
xuất phát từ cơ sở phương pháp luận chung ( duy vật biện chứng), phương pháp
kĩ thuật chung và từ đặc điểm đối tượng nghiên cứu của mình để hình thành
những phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của mình phù hợp với đối tượng
kiểm toán.
Đối tượng của kiểm toán phân chia làm hai phần. Một là thực trạng hoạt động
tài chính được phản ánh trong tài liệu kế toán và hai là phần chưa được phản ánh kể
cả là phản ánh chưa trung thực ( kể cả gian lận và sai sót) trong tài liệu này. Đối với
phần thứ nhất, việc xác minh và bày tỏ ý kiến đã có cơ sở chứng minh là các tài liệu
kế toán ( kể cả các tài liệu lưu giữ tại khách hàng). Do vậy, kiểm toán có thể kế thừa
cơ sở phương pháp kế toán, phân tích để xây dựng phương pháp riêng của mình
như: Kiểm toán cân đối kế toán, đối chiếu các chỉ tiêu theo quan hệ trực tiếp hoặc
lôgic. Đối với phần thứ hai ( ngoài chứng từ), kiểm toán chưa có cơ sở dữ liệu và do
đó cần có phương pháp thích hợp để có bằng chứng kiểm toán: Điều tra, kiểm kê,
hay thực nghiệm. Như vậy hệ thống phương pháp kiểm toán bao gồm 2 phân hệ rõ
rệt. Loại phương pháp thứ nhất gọi là các phương pháp kiểm toán chứng từ. Loại thứ
hai là các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ.
*Phương pháp kiểm toán chứng từ bao gồm :
• Kiểm toán các cân đối kế toán: Là phương pháp dựa trên các cân đối kế toán và các

cân đối khác để kiểm toán các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành các quan hệ
đó.
• Đối chiếu trực tiếp : là đối chiếu một chỉ tiêu trên các nguồn tài liệu khác nhau.
• Đối chiếu lôgic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có quan hệ với
nhau.
*Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ bao gồm:
• Kiểm kê: là việc kiểm tra tại chỗ các đối tượng kiểm toán.
• Điều tra : là dùng các cách khác nhau để tiếp cận và đánh giá đối tượng kiểm toán.
• Thực nghiệm: Là việc tái diễn các hoạt động, nghiệp vụ để xác minh lại kết quả của
một quá trình, một sự việc đã qua
Thực chất việc thực hiện kiểm toán là kiểm toán viên vận dụng các phương
pháp kỹ thuật kiểm toán này theo hướng chi tiết hoặc kết hợp để thu thập các bằng
chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ và tiến hành đánh giá chúng. Trong kiểm toán
tài chính, thường vận dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán nói trên dưới dạng
các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán như: kiểm kê, lấy xác nhân, xác
minh tài liệu, quan sát, phỏng vấn, tính toán, phân tích.
1.1.1.3.Quan hệ giữa phương pháp kiểm toán với phương pháp điều tra hình sự
Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm khoa học xã hội nhân văn quốc gia,
khái niệm hình sự được hiểu là việc trừng trị những tội xâm phạm nghiêm trọng đến
an ninh quốc gia, trật tự xã hội.
Còn điều tra hình sự, theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, là
hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm của người có hành
vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và
ngăn ngừa. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội hoặc vô tội,
những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can. Mọi hoạt
động điều tra phải tuân theo pháp luật, chấp hành các nguyên tắc và thủ tục do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ

quan và cá nhân có thẩm quyền tiến hành các biện pháp điều tra hình sự được
quy định cụ thể tại Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự ngày 17.4.1989 ( hiện đã
được thay thế bằng Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự ngày 20.08.2004)
Theo Sổ tay điều tra các tội phạm về trật tự xã hội - GS.TS Nguyễn Huy
Thuật- Nhà xuất bản Công An nhân dân-2006, khái niệm điều tra vụ án hình sự
được hiểu là hoạt động điều tra của những cơ quan điều tra và những cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành
theo trình tự tố tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu cầu của
pháp luật. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình
sự, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng hình sự đó là “
Phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”.( Điều 1- Bộ Luật Tố tụng hình
sự ). Như vậy, có thể thấy mục đích của điều tra vụ án hình sự là chứng minh sự thật
của vụ án theo yêu cầu của pháp luật. Chỉ sau khi chứng minh sự thật của vụ án thì
mới có đủ căn cứ để khẳng định một người nào đó có tội hay không có tội đối với vụ
án đã xẩy ra và áp dụng hình phạt công bằng hay xoá tội cho người đó. Điều này
hoàn toàn tương đồng với việc xác minh và bày tỏ ý kiến trong hoạt động kiểm toán.
Cho nên có thể nói, phương pháp kiểm toán và phương pháp điều tra hình sự
có sự giống nhau về nhất định về nội dung bên cạnh những điểm khác do đối tượng
mà mỗi phương pháp hướng tới quy định. Lý do của sự giống nhau này là vì về
phương diện nhận thức, cũng như kiểm toán, điều tra vụ án hình sự là một dạng hoạt
động nhận thức. Cơ sở phương pháp luận của kiểm toán và điều tra hình sự đều là
phép biện chứng duy vật . Quan điểm biện chứng không những chỉ ra tính lôgic của
quá trình nhận thức mà còn vạch ra các mối quan hệ và quy luật vận động của mọi
sự vật, hiện tượng. Trong quan hệ với quá trình nhận thức, tính biện chứng thể hiện
ở quan hệ lôgic từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ cảm tính đến lý tính
với những bước cụ thể từ quan sát, sao chụp đến phán đoán, suy lý… Mỗi bước
nhận thức này được cụ thể hoá thành những phương pháp với những hình thức vật
chất xác định để nhận thức đúng và rõ ràng trong quá trình xác minh và bày tỏ ý
kiến của hoạt động kiểm toán cũng như quá trình chứng minh sự thật trong điều tra

hình sự.
Trong quan hệ với phương pháp kiểm toán và phương pháp điều tra hình sự,
các phạm trù và các quy luật của mối quan hệ và sự vận động cần quan tâm, quán
triệt đầy đủ các mối quan hệ và quy luật khách quan
Mọi sự vật và hiện tượng cũng như giữa các mặt của sự vật hiện tượng đó có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn xác minh, phán định về một mặt hay một sự
vật, hiện tượng nào đó phải xem xét nó trong mối quan hệ biện chứng với các mặt,
các sự vật các hiện tượng khác có liên quan.
Mọi sự vật và hiện tượng đều vận động, vận động là tuyệt đối, đứng im là
tương đối. Nghiên cứu và phán xét mọi sự vật, hiện tượng tại thời điểm kiểm toán
cũng như điều tra hình sự đều phải có phương pháp nghiên cứu chúng trong trạng
thái động.
Nội tại mỗi sự vật hiện tượng đều có tính thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập. Thống nhất là tương đối, mâu thuẫn là tuyệt đối, và đấu tranh giữa các mặt
đối lập sẽ phá vỡ sự thống nhất tạm thời để tạo nên sự thống nhất mới. Ví dụ trong
kiểm toán, mối quan hệ này không chỉ là cơ sở cho phương pháp kiểm tra cân đối về
lượng giữa tài sản với nguồn hình thành, giữa doanh số với thu nhập và chi phí, giữa
số phát sinh Nợ và số phát sinh Có… mà còn phải xem xét về chất của các mối liên
hệ.
Mỗi sự vật hiện tượng đều có bản chất riêng và được biểu hiện dưới những
hình thức cụ thể. Việc nghiên cứu và kết luận về bản chất sự vật, hiện tượng phải
xem xét trên những hình thức biểu hiện khác nhau, ở tính phổ biến của chúng. Do
đó, các phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của kiểm toán và các phương pháp
điều tra hình sự không thể tách rời những quy luật và mối quan hệ giữa cái chung và
cái riêng, giữa cái đơn nhất và cái phổ biến, giữa sự vận động và tính “không mất đi”
của vật chất trong quá trình vận động.
Tuy nhiên, đối tượng của điều tra hình sự là các tội xâm phạm đến an ninh
quốc gia, trật tự xã hội nên nó liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống từ chính
trị, xã hội, kinh tế, văn hoá… Trong khi đó, hoạt động kiểm toán đối tượng chủ yếu
là thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Do đó có thể nói, đối tượng của

hoạt động kiểm toán chỉ là một phần nội dung mà hoạt động điều tra hình sự hướng
tới. Điều này ảnh hưởng tới phương pháp được sử dụng của hai lĩnh vực.
Cụ thể, phương pháp trong điều tra hình sự rộng hơn, liên quan tới nhiều lĩnh
vực, nhiều khoa học hơn so với kiểm toán. Do đối tượng kiểm toán có quan hệ
chặt chẽ với đối tượng của kế toán, của phân tích kinh doanh nên kỹ thuật kiểm
toán không thể tách rời các phương pháp kĩ thuật của các khoa học này. Ngoài
ra kiểm toán còn có quan hệ với các phương pháp của các khoa học khác, như
với phương pháp toán học, trực tiếp là các phương pháp chọn mẫu, ước lượng
khả năng sai sót cùng các mối quan hệ tương quan trong việc xem xét, dự báo
các mối liên hệ cụ thể. Còn điều tra hình sự, do liên quan tới nhiều lĩnh vực của
đời sống con người, từ các lĩnh vực tự nhiên đến xã hội, cho nên các phương
pháp được sử dụng hết sức đa dạng, đó là sự kết hợp giữa các biện pháp kĩ thuật
hình sự với toán học, xã hội học, lôgic học, tâm lý học…
Theo sách Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự - TS. Đỗ Văn
Đương – Nhà xuất bản tư pháp 2006, có các nhóm phương pháp kĩ thuật điều
tra hình sự được sử dụng trong thu thập chứng cứ sau đây:
• Phương pháp quan sát và môt tả là phương pháp chủ yếu để phát hiện ghi nhận
các dấu hiệu bề ngoài của đối tượng nhận thức
• Phương pháp khoa học kĩ thuật để phát hiện và ghi nhận các dấu vết vật chất và
trạng thái bên ngoài của hành vi phạm tội gắn liền với sử dụng các phương tiện
kĩ thuật như chụp ảnh, quay phim.
• Phương pháp toán học dùng để đo đạc và tính toán được áp dụng để thu nhận
đặc tính về số lượng của đối tượng nghiên cứu
• Phương pháp mô hình hoá, phục hồi và tái tạo lại được thực hiện dưới sự
giúp đỡ của các phương tiện y- pháp; đồ họa và các phương tiện kĩ thuật
khác.
• Phương pháp truy nguyên hình sự để giải quyết các vấn đề đồng nhất của các
đối tượng vật chất thông qua những phản ánh của quần chúng nhằm xác lập
chứng cứ.
• Phương pháp tác động tâm lý để hỗ trợ việc thu thập chứng cứ trong quá trình

hỏi cung bị can.
Các phương pháp này rõ ràng cũng bao hàm bản chất của các phương
pháp kĩ thuật kiểm toán: đối chiếu, điều tra, thực nghiệm… Nhưng do đối tượng
hướng tới của phương pháp điều tra hình sự rộng hơn, bao trùm cả lĩnh vực tài
chính, kinh tế nên sự vận dụng cụ thể của phương pháp điều tra hình sự cũng phong
phú hơn. Trong những trường hợp cần thiết, nhất là với các vụ án liên quan đến lĩnh
vực tài chính, sự vận dụng các phương pháp này trong điều tra hình sự có thể chính
là các phương pháp cụ thể mà kiểm toán sử dụng khi thu thập bằng chứng như kiểm
kê, lấy xác nhân, xác minh tài liệu, quan sát, phỏng vấn, tính toán, phân tích. Ngược
lại, trong quá trình kiểm toán, nếu thấy cần thiết kiểm toán viên có thể vận dụng các
phương pháp điều tra hình sự một cách hợp lý để xác minh các vấn đề trong hoạt
động tài chính của doanh nghiệp tất nhiên là trong điều kiện cho phép của pháp luật.
Một điểm khác biệt nữa về mặt phương pháp liên quan đến chủ thể tiến hành,
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra được áp dụng những
biện pháp, những phương tiện kĩ thuật theo quy định của pháp luật, phù hợp với
pháp luật, không chống lại pháp luật và không trái pháp luật. Kết quả điều tra vụ án
hình sự được phản ánh trong các văn bản tố tụng và có giá trị pháp lý. Đặc biệt, các
Cơ quan điều tra có thẩm quyền phán quyết, đưa ra các quyết định điều chỉnh, xử lý.
Do đó, nếu như kiểm toán chưa có thẩm quyền phán quyết, ra ngay các quyết định
điều chỉnh, xử lý gắn với kết quả kiểm toán thì có thể nói, thẩm quyền chủ thể điều
tra cao hơn so với kiểm toán. Tại Việt Nam, chủ thể tiến hành hoạt động điều tra có
thể là những cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra và những cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 1, Pháp lệnh
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự ban hành tháng 8 năm 2004, và trong đó
không có lực lượng kiểm toán. Sự khác biệt về thẩm quyền sẽ là một trong những
yếu tố ảnh hưởng đến sự khác biệt giữa phương pháp kiểm toán và phương pháp
điều tra hình sự. Nhất là trong những trường hợp, vai trò của các phán quyết, các
quyết định bắt buộc là cần thiết như: buộc cung cấp thông tin, tạm giữ…
1.1.2. Thủ tục kiểm toán trong hệ thống kiểm toán
Từ điển Oxford Wordfinder, có hai định nghĩa về thủ tục: (1) là cách thức hay

trật tự chính thức để thực hiện làm các công việc, (2) một loạt các hành động cần
được hoàn thành để đạt điều gì đó.
Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia 1991,
định nghĩa thủ tục là những việc phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành
một công việc có tính chất chính thức.
Quá trình diễn ra một cuộc kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kĩ
thuật kiểm toán thích hợp với đối tượng kiểm toán cụ thể nhằm thu thập bằng chứng
kiểm toán.Từ đó có thể hiểu thủ tục kiểm toán bản chất là những cách thức, những
bước công việc cụ thể trong việc vận dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và
kiểm toán ngoài chứng từ vào việc xác minh các nghiệp vụ, các số dư tài khoản hoặc
các khoản mục cấu thành bảng khai tài chính.
Để tiếp cận với các thủ tục kiểm toán trước hết phải làm rõ các trắc nghiệm cấu
thành nên chúng.
1.1.2.1.Trắc nghiệm kiểm toán
Trắc nghiệm kiểm toán bản chất cũng là sự kết hợp giữa các phương pháp
kiểm toán nhưng ở mức hẹp hơn, dễ nhận thấy rõ hơn so với thủ tục kiểm toán. Tuỳ
yêu cầu và đối tượng cụ thể, các phép kết hợp giữa các phương pháp kiểm toán cơ
bản cũng khác nhau cả về số lượng và trình tự kết hợp, và từ đó hình thành 3 loại
trắc nghiệp cơ bản: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số dư, trắc nghiệm
phân tích.
Trắc nghiệm công việc chính là việc phối kết hợp các phương pháp kiểm toán
để đánh giá công việc đã được thực hiện tại khách thể kiểm toán trên hai phương
diện: mức đạt yêu cầu công việc và độ tin cậy của thông tin. Từ đó, trắc nghiệm
công việc lại được phân định ra làm 2 mảng phải thực hiện đó là: trắc nghiệm mức
đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ tin cậy.
Trắc nghiệm mức đạt yêu cầu chính là việc kiểm tra tính tuân thủ các quy trình,
thủ tục đã được đặt ra trong quá trình thực hiện công việc. Các công việc thường là
đã xẩy ra trong quá khứ, cho nên khi thực hiện trắc nghiệm mức đạt yêu cầu cần
thiết phải dựa vào các dấu vết để lại trong công việc nếu có ( như chữ ký). Trường
hợp không có dấu vết, có thể thay thế bằng việc phỏng vấn hay quan sát trực tiếp

trong hiện tại. Kết quả thu được từ trắc nghiệm mức đạt yêu cầu sẽ đánh giá việc
thực hiện mục tiêu “ bảo đảm sự tuân thủ “ của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn
vị.
Trắc nghiệm độ tin cậy của thông tin là việc kiểm tra tính tin cậy của các thông
tin. Thông tin chính là kết quả của quá trình thực hiện các công việc. Do đó, cách
kiểm tra tốt nhất là kiểm toán viên phải tính toán, thực hiện lại các công việc đó, rồi
sau đó đối chiếu so sánh kết quả của mình với khách thể kiểm toán. Đây là công việc
đòi hỏi nhiều thời gian công sức. Nếu công việc của khách thể kiểm toán đã được
đánh giá là tuân thủ tốt các thủ tục đặt ra cũng có nghĩa là thông tin đã có độ tin cậy
ở mức nhất định. Vì vậy, kết quả trắc nghiệm mức đạt yêu cầu sẽ quyết định khối
lượng công việc thực hiện trong trắc nghiệm độ tin cậy. Nếu kiểm toán viên nhận
định ngay từ đầu việc thực hiện quy trình, thủ tục tại đơn vị là yếu kém thì có thể bỏ
qua trắc nghiệm mức đạt yêu cầu để thực hiện ngay trắc nghiệm độ tin cậy ở quy mô
lớn. Còn nếu không thể kết luận được từ đầu về tính tuân thủ quy trình, thủ tục trong
công việc của khách thể là yếu kém thì kiểm toán viên nhất thiết phải thực hiện trắc
nghiệm công việc. Nếu kết quả cho thấy tính tuân thủ được bảo đảm, việc thực hiện
trắc nghiệm độ tin cậy vẫn phải thực hiện nhưng với quy mô giảm xuống.
Trắc nghiệm trực tiếp số dư là việc vận dụng các phương pháp kiểm toán để
kiểm tra tính tin cậy của các số dư.
Trắc nghiệm phân tích lấy đối tượng xem xét là các mối quan hệ kinh tế được
biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế và xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế.
Thực chất, thông tin với tư cách là kết quả công việc cũng bao gồm cả các số
dư và các chỉ tiêu kinh tế có những mối quan hệ lôgic chặt chẽ. Do đó có thể nói trắc
nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích về bản chất đều thuộc về trắc
nghiệm độ tin cậy. Trong mọi trường hợp, kiểm toán luôn phải thực hiện trắc
nghiệm độ tin cậy như: trắc nghiệm trực tiếp số dư, trắc nghiệm phân tích hay trắc
nghiệm độ tin cậy trong trắc nghiệm công việc. Tuy nhiên trong thực tế, trắc nghiệm
trực tiếp số dư thường gắn với viẹc xác minh cả các nghiệp vụ đã phát sinh trong kỳ
để dẫn đến việc hình thành tổng số phát sinh mà từ đó hình thành số dư cuối kỳ. Do
vậy, trong thực hành kiểm toán, trắc nghiệm trực tiếp trực tiếp số dư thường kết hợp

với trắc nghiệm độ vững chãi trong công việc.
1.1.2.2.Thủ tục kiểm toán
Việc vận dụng các trắc nghiệm trên một cách cụ thể vào quá trình thực hiện
kiểm toán đã hình thành nên các thủ tục kiểm toán: thủ tục kiểm soát, thủ tục phân
tích và thủ tục kiểm tra chi tiết.
Thủ tục kiểm soát, theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500, là việc kiểm
tra để thu thập bằng chứng kiểm toán về sự thiết kế phù hợp và vận hành hữu hiệu
của hệ thống kế toán và hệ thống KSNB. Việc thực hiện thủ tục kiểm soát diễn ra
sau khi tìm hiểu hệ thống KSNB với đánh giá ban đầu là khách thể kiểm toán có hệ
thống KSNB hoạt động có hiệu lực. Bản chất, thủ tục phân tích là việc thực hiện trắc
nghiệm mức đạt yêu cầu trong trắc nghiệm công việc. Khi thực hiện thủ tục kiểm
soát các phương pháp cụ thể thường được vận dụng như: điều tra, phỏng vấn, thực
hiện lại, kiểm tra từ đầu đến cuối, kiểm tra ngược lại…
Thủ tục phân tích cũng được hiểu là việc thực hiện các trắc nghiệm phân tích.
Thông thường việc thực hiện thủ tục phân tích phải trải qua những giai đoạn sau:
Xây dựng một mô hình trên cơ sở kết hợp các biến tài chính và hoạt động; Sau đó,
phải xem xét tính độc lập và tin cậy của các dữ liệu tài chính và nghiệp vụ; Từ đó
xác định chênh lệch giữa kết quả ước tính được từ mô hình và giá trị khách thể cung
cấp, tìm hiểu nguyên nhân, đánh giá những phát hiện được.
Thủ tục kiểm tra chi tiết chính là sự kết hợp các biện pháp kỹ thuật cụ thể của
trắc nghiệm độ tin cậy trong trắc nghiệm công việc với trắc nghiệm trực tiếp số dư.
Quy trình thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết thông thường gồm các bước: Lập kế
hoạch kiểm tra chi tiết nhằm xác định biện pháp kỹ thuật sử dụng, và xác định được
quy mô mẫu chọn; Lựa chọn các khoản mục của mẫu; Thực hiện kiểm tra chi tiết
bằng các biện pháp kỹ thuật như xác nhận, kiểm tra thực tế…; Đánh giá kết quả
kiểm tra và xử lý các chênh lệch.
Quy mô công việc của thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra chi tiết phụ thuộc
vào kết quả của thủ tục kiểm soát. Thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra chi tiết đều
nhằm đánh giá độ tin cậy của thông tin, còn thủ tục kiểm soát hướng tới đánh giá
mức đạt yêu cầu của công việc. Chính vì vậy, thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra

chi tiết thường được gọi chung là thủ tục cơ bản để phân biệt vớí thủ tục kiểm soát.
1.2. Gian lận và các vấn đề về gian lận
1.2.1.Khái niệm gian lận và các yếu tố cơ bản của gian lận
Có nhiều khái niệm tổng quát cũng như chuyên ngành về gian lận. Theo
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế 240 (ISA 240), thuật ngữ “gian lận” ( fraud) được
dùng để chỉ các hành vi cố ý của một hay nhiều cá nhân, đó có thể là các thành
viên trong BGĐ, HĐQT, các nhân viên hay các bên thứ ba, liên quan đến sự
gian dối nhằm thu được những lợi ích không xứng đáng hay bất hợp pháp. Mặc
dầu gian lận là một khái niệm pháp lý rất rộng, nhưng trong phạm vi của chuẩn
mực này, KTV chỉ quan tâm tới những gian lận mà gây nên sai phạm trọng yếu
trên BCTC. Các KTV không đưa ra các quyết định pháp lý nào về việc các gian
lận liệu có thực sự xẩy ra hay không. Gian lận liên quan đến một hay nhiều
thành viên trong BGĐ hay HĐQT được gọi là gian lận của BGĐ ( management
fraud), gian lận chỉ liên quan đến các nhân viên của doanh nghiệp được gọi là
gian lận của nhân viên ( employee fraud). Trong mỗi trường hợp, có thể có sự
cấu kết trong doanh nghiệp hay với bên thứ ba bên ngoài doanh nghiệp.
Theo Hướng dẫn tìm hiểu về gian lận của Hiệp hội các cơ quan kiểm toán
tối cao Nam Thái Bình Dương (South Pacific Association of Supreme Audit
Institutions - SPASAI), gian lận là thuật ngữ chung, bao gồm tất cả các cách mà
trí thông minh con người có thể nghĩ ra nhằm giành lợi thế hơn người khác bằng
việc trình bày gian dối.
Theo Hiệp hội kiểm tra gian lận của Mĩ (Association of Certified Fraud
Examiners -ACFE), gian lận là việc sử dụng nghề nghiệp của một người để làm
lợi cá nhân bằng cách cố ý lạm dụng hay biển thủ các tài nguyên hay tài sản của
doanh nghiệp. Khái niệm này bao quát ở phạm vi rộng các hành vi sai phạm của
các nhà điều hành, các nhà quản lý và các nhân viên tại các tổ chức, từ những
hoạt động lừa đảo một cách tinh vi trong đầu tư cho đến những hành vi ăn trộm
vặt.
Theo Kiểm toán Vương quốc Anh, gian lận có liên quan đến việc sử dụng
thủ đoạn lừa gạt để giành được các lợi ích không công bằng và bất hợp pháp,

cũng như là các sai sót cố ý hay việc cố tình bỏ sót một khoản tiền hay các
khoản phải công khai trên BCTC hay trên từng khoản mục. Gian lận cũng bao
gồm cả sự biển thủ tài sản cho dù có hay không có các sai sót trên chứng từ kế
toán hay BCTC.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (VSA 240), gian lận là những
hành vi cố ý làm sai lệch thông tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều người
trong Hội đồng quản trị, BGĐ, các nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, làm
ảnh hưởng tới BCTC.
Như vậy, dù định nghĩa theo cách nào thì về bản chất, gian lận là hành vi
cố ý lừa dỗi, giấu diếm, xuyên tạc sự thật với mục đích tư lợi. Theo đó ta có thể
thấy được các yếu tố cơ bản của gian lận như sau:
 Phải có sự chủ định của người thực hiện hành vi gian lận
 Phải có ít nhất hai bên: bên thực hiện hành vi gian lận và bên đã hoặc có thể đã
phải chịu hậu quả của gian lận
 Gây nên sai phạm trọng yếu do công khai không đúng sự thật
 Bên đã hoặc có thể đã phải chịu hậu quả của gian lận phải có quyền hợp pháp
để khiếu kiện hành vi đó
 Nhìn chung có sự cố gắng che dấu, lấp liếm các hành vi đã thực hiện
 Gian lận nhất thiết là có sự vi phạm sự trung thực
1.2.2.Phân biệt gian lận và sai sót
Việc phân loại gian lận có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp kiểm toán
viên xác định một sai phạm đã là gian lận hay chưa.
Theo ISA 240, sai phạm trên BCTC có thể là do các hành vi gian lận hoặc
do sai sót. Sự cố ý hay không cố ý trong việc tạo ra sai phạm là điểm mấu chốt
để phân biệt giữa gian lận và sai sót. Thuật ngữ “ sai sót” (error) đề cập tới các
sai phạm không cố ý trên BCTC, bao gồm sự bỏ sót một khoản tiền hay một
khoản phải khai báo trình bày. Tuy nhiên thực tế không phải khi nào cũng phân
biệt rõ ràng giữa chúng. Việc phân biệt hành vi sai sót và gian lận có ý nghĩa
quan trọng tới cuộc kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 240 (VSA 240), sai sót là lỗi không

cố ý, có ảnh hưởng tới BCTC.
Sai sót thường biểu hiện dưới nhiều hình thức, cụ thể như:
- Một sai phạm trong quá trình thu thập và xử lý dữ liệu để chuẩn bị lập
BCTC
- Một ước tính kế toán không đúng phát sinh do sự bỏ sót hay hiểu sai thực
tế.
- Áp dụng sai các nguyên tắc kế toán liên quan tới sự đo lường, ghi nhận,
phân loại, trình bày hay khai báo.
Sai sót có thể là do BGĐ, Hội đồng quản trị hay nhân viên gây nên. Sai sót
nảy sinh do nhiều nguyên nhân. Đó có thể là do trình độ năng lực bị hạn chế.
Khi doanh nghiệp không xây dựng một tiêu chuẩn tuyển dụng lao động hợp lý
thì dễ xảy ra việc có những người ở vào vị trí mà họ chưa đủ năng lực thực hiện.
Đồng thời trong thời đại thông tin hiện nay , việc nắm bắt chậm các thông tin,
đặc biệt là các thông tin về qui định của Nhà nước, khiến cho tư duy của nhà
quản lý và các nhân viên dần dần trở thành lạc hậu, khi đó khả năng dẫn tới các
hành vi sai phạm càng trở nên cao hơn.
Yếu tố thứ hai dẫn tới các sai sót là lề lối làm việc. Lề lối, tác phong làm
việc của nhà quản lý cũng như các nhân viên ảnh hưởng đáng kể tới hiệu quả
công việc. Trong những đơn vị có lề lối làm việc quan liêu, thiếu trách nhiệm và
vô tổ chức, các cá nhân không có ý thức xem xét, giải quyết các công việc một
cách cẩn thận, nghiêm túc. Sự cẩu thả và thiếu trách nhiệm tất yếu sẽ dẫn đến
sai sót
Một yếu tố khác cũng dẫn tới các sai sót là áp lực công việc. Yếu tố tâm lý
của các cá nhân ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả làm việc Khi nhân viên làm
việc với tâm trạng không thoải mái vì bất kỳ lý do gì, họ sẽ không thể tập trung
hoàn toàn vào công việc, điều đó cũng dễ dàng gây ra các sai sót. Hoặc khi nhân
viên được giao quá nhiều việc cùng một lúc, họ sẽ không thể giải quyết được
hết, áp lực phải hoàn thành công việc khiến họ làm việc không cẩn thận, do đó
dẫn tới khả năng sai sót.
Ranh giới giữa gian lận và sai sót đôi khi không rõ ràng, đó chính là cái cớ

để người thực hiện hành vi gian lận bác bỏ những phát hiện của kiểm toán. Kinh
nghiệm và sự phán xét nghề nghiệp là cơ sở để kiểm toán viên giải quyết những
tình huống như vậy.
1.2.3.Phân loại gian lận
Qua nghiên cứu bản chất của gian lận, chúng ta có thể phân loại gian lận
theo nhiều tiêu chí khác nhau
• Theo quy mô có thể phân gian lận thành: gian lận nhỏ, gian lận lớn hay gian lận
nghiêm trọng.
• Theo đối tượng thực hiện có thể phân gian lận thành: gian lận của nhân viên,
gian lận của BGĐ, gian lận của bên thứ ba.
• Theo cách thức nội dung thực hiện hành vi gian lận có thể phân gian lận thành :
BCTC gian lận, biển thủ tài sản, tham ô
• Theo tính chất hệ thống có thể phân gian lận thành: gian lận đơn lẻ, gian lận
mang tính chất hệ thống
• Theo mức độ tinh vi có thể phân gian lận thành: gian lận tinh vi và gian lận đơn
giản
• Theo quan hệ với kì kiểm toán có thể phân gian lận thành: gian lận trong kì
kiểm toán và gian lận không thuộc kì kiểm toán
• Theo tính chất pháp lý có thể phân gian lận thành: gian lận chưa đến mức phạm
tội, và gian lận cần phải khởi tố.
• Theo sự phát hiện của kiểm toán viên: gian lận được phát hiện và gian lận
không được phát hiện
Nhằm nghiên cứu các thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm
toán BCTC, ở đây chỉ làm rõ các gian lận được phân chia theo cách thức thực
hiện: BCTC gian lận, biển thủ tài sản, tham ô.
ISA 240 đã phân gian lận theo cách thức thực hiện thành hai loại sai phạm
cố ý đòi hỏi KTV phải quan tâm là sai phạm do BCTC gian lận ( fraudulent
financial reporting ) và sai phạm do biển thủ tài sản ( misappropriation of
assets). Còn ACFE lại phân chia gian lận thành 3 loại. Ngoài 2 loại trên còn có
thêm loại gian lận do tham ô ( corruption)

1.2.3.1.Gian lận liên quan tới BCTC
Mục đích của BCTC là cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp để giúp nhà quản lý và những người sử dụng
thông tin trên BCTC ra các quyết định. Vì vậy, yêu cầu của các thông tin được
trình bày trên BCTC là phải trung thực, hợp lý và khách quan. Tuy nhiên, trên
thực tế, không phải lúc nào các thông tin đó cũng đáp ứng được các yêu cầu kể
trên, mà nhiều trường hợp xảy ra gian lận.
Theo ACFE, BCTC gian lận liên quan đến việc xuyên tạc, bóp méo thông
tin trên BCTC của doanh nghiệp ( phổ biến là việc ghi tăng doanh thu và làm
giảm các khoản nợ hoặc các chi phí)
Theo ISA 240, BCTC gian lận thường liên quan tới việc BGĐ phớt lờ hệ
thống kiểm soát nội bộ mặc dù nó vẫn hoạt động hiệu quả. Do sức ép trong việc
đạt được mục tiêu lợi nhuận, nên BGĐ có thể thực hiện gian lận trên BCTC để
lừa dối người dùng BCTC bằng cách tác động tới nhận thức của họ về tình hình
hoạt động và khả năng lợi nhuận của doanh nghiệp. BGĐ có thể thay đổi lợi
nhuận bằng những thủ thuật tinh vi hay các ước tính thiên lệch. Áp lực và các
động cơ có thể dẫn đến việc tăng lên về quy mô của các hành vi mà trái với các
quy định trong chế độ, chuẩn mực kế toán và dẫn tới BCTC gian lận. Chẳng hạn
một tình huống có thể xẩy ra khi vì áp lực phải thực hiện đạt được kì vọng thị
phần hay mong muốn các khoản bù đắp tối đa, BGĐ cố tình chỉ đạo lập BCTC
gian lận. Do đó việc KTV nhận thức rõ các tình huống mà có dấu hiệu thay đổi
lợi nhuận và các vị trí, các ước tính có thể có gian lận trọng yếu trên BCTC là
hết sức quan trọng.
Báo cáo tài chính gian lận liên quan đến các sai phạm cố ý hay sự che dấu
các khoản tiền và các khoản cần khai báo trên BCTC để lừa gạt người sử dụng
BCTC. Báo cáo tài chính gian lận có thể được thực hiện bằng những cách sau:
- Sửa đổi thủ công, làm giả tài liệu ( kể cả là giả mạo chữ ký), sửa đổi các
ghi chép kế toán, các tài liệu để hỗ trợ việc lập BCTC
- Xuyên tạc hay cố tình bỏ sót các sự kiện, các nghiệp vụ hay các thông tin
quan trọng khác trên BCTC

- Cố tình áp dụng sai các nguyên tắc kế toán liên quan tới các khoản tiền,
việc phân loại , cách thức trình bày và khai báo.
- Cố ý tính toán sai về số học
Gian lận liên quan tới lập BCTC có thể gắn liền với nhiều hoạt động của
doanh nghiệp nhưng thường xẩy ra ở việc ghi nhận doanh thu, hàng tồn kho,
khai báo giảm các khoản công nợ hay đánh giá tài sản của doanh nghiệp.
Hiện nay, có rất nhiều gian lận quy mô lớn được thực hiện đối với việc ghi
nhận doanh thu theo nhiều cách thức. Một trong những cách thức gian lận đối
với doanh thu là doanh nghiệp ghi khống những doanh thu, tuy nhiên cách thức
này rất dễ phát hiện. Một cách khác tinh vi hơn là doanh nghiệp thay đổi thời
điểm ghi nhận doanh thu theo mục đích riêng. Cụ thể là sổ sách kế toán luôn
được giữ ở trạng thái “mở” cho tới cuối kỳ kế toán. Khi đó, nhìn bề ngoài,
nguyên tắc đúng kỳ vẫn được đảm bảo cho dù các nghiệp vụ về doanh thu phát
sinh vào kỳ sau hay kỳ trước. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể thay đổi doanh
thu theo mong muốn. Điều chỉnh thời gian ghii nhận doanh thu không phải là
cách thức duy nhất để phản ánh sai doanh thu, doanh nghiệp còn có thể ghi nhận
doanh thu đối với hàng gửi bán. Mặc dù về nguyên tắc, hàng gửi bán không được
ghi nhận là doanh thu, mà vẫn được coi là hàng tồn kho của doanh nghiệp.. Một
cách nữa cũng có thể được áp dụng là doanh nghiệp ghi nhận doanh thu trước đối
với hàng hoá đã được lập hoá đơn nhưng vẫn lưu tại doanh nghiệp cho tới khi
khách hàng yêu cầu. Ngoài ra, một cách thức khác dẫn tới gian lận là ghi nhận
các khoản trả trước cho hàng hoá, dịch vụ như là. doanh thu phát sinh trong kỳ,
hoặc ghi nhận các khoản doanh thu chưa thực hiện thành các khoản doanh thu
trong kỳ. Hành vi này mang lại lợi ích trong ngắn hạn cho doanh nghiệp, tuy
nhiên nó đã xâm phạm nguyên tắc thận trọng và các chuẩn mực và chế độ kế
toán. Các nghiệp vụ này không đáp ứng đủ các điều kiện ghi nhận doanh thu theo
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14.
Bên cạnh đó, gian lận về hàng tồn kho, giá vốn hàng bán là loại gian lận
cũng khá phổ biến. Hàng tồn kho thường là khoản mục trọng yếu trên Bảng Cân
đối kế toán của nhiều doanh nghiệp, nhất là với những doanh nghiệp thương mại

và doanh nghiệp sản xuất. Đồng thời, khi nhìn vào công thức tính lợi nhuận ròng
của doanh nghiệp, ta có thể thấy rằng những thay đổi trong giá vốn hàng bán ảnh
hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp và thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp. Trong khi đó, giá vốn hàng bán lại có quan hệ mật thiết đối với khoản
mục hàng tồn kho, và kế toán hàng tồn kho cũng như việc tính giá vốn hàng bán
khá phức tạp, vì vậy dễ chứa đựng gian lận. Tuỳ theo mục đích của người quản
lý, họ có thể điều chỉnh cho giá vốn hàng bán tăng lên hoặc giảm đi bằng nhiều
cách. Chẳng hạn, ghi nhận sai giá trị của hàng hoá mua vào, không ghi nhận
các khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại và giá trị hàng trả lại, bỏ
qua việc ghi nhận giá vốn của hàng bán đã ghi nhận doanh thu hoặc ghi nhận giá
vốn hàng bán của hàng gửi bán ; phản ánh hàng nhận ký gửi, giữ hộ là hàng tồn
kho của doanh nghiệp; đánh giá sai giá trị hàng tồn kho khi tiến hành đánh giá
lại hàng tồn kho.
Ở khía cạnh khác, cách thức mà các doanh nghiệp làm cho BCTC của mình
“sáng sủa” hơn là họ phản ánh giảm các công nợ của doanh nghiệp. Việc không
phản ánh hoặc phản ánh thấp phần công nợ thực tế làm thay đổi nhiều tỉ suất tài
chính được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn tới
quyết định của người sử dụng BCTC. Thông thường, một số loại nghiệp vụ tạo ra

×