Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.37 KB, 81 trang )

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA LUẬT

BÀO CHỮA CHO BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC
TIỄN TẠI TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành, chuyên ngành: Luật hình sự - Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

Học viên: NGUYỄN THÀNH HẢI
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội từ
thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai” là một cơng trình nghiên cứu độc lập dưới sự hướng
dẫn của Giáo sư - Tiến sĩ Võ Khánh Vinh. Ngồi ra khơng có bất cứ sự sao chép
của người khác.
Luận văn là sản phẩm mà tơi đã nỗ lực nghiên cứu trong q trình học tập
tại trường kết hợp với thực tế tại địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 - 2019.
Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hồn tồn trung thực. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm, kỷ luật của Bộ mơn và Nhà trường đề ra nếu như
có vấn đề xảy ra.
Đồng Nai, ngày 25 tháng 11 năm 2020
Tác giả đề tài

Nguyễn Thành Hải



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................. 1
MỤC LỤC..............................................................................................................3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................... 5
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
CHƯƠNG 1........................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CHO BỊ
CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI........................................................................ 8
1.1.

Khái niệm, ý nghĩa của quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội
8

1.2.

Nội dung bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội...............12

1.3.

Các yếu tố tác động đến bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội......17

1.4. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về bào chữa cho bị can là

người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................. 23
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BÀO CHỮA CHO BỊ CAN

DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỂN BÀO CHỮA CHO BỊ CAN
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI.........................................29


2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội............................................................................................................ 29
2.2. Thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Đồng Nai...32

CHƯƠNG 3......................................................................................................... 51
CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO BÀO CHỮA CHO BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI.......................................................................................................... 51
3.1. Hoàn thiện pháp luật về bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội......51
3 2. Nâng cao năng lực của người bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội58
3.3.

Các giải pháp khác..................................................................................62

KẾT LUẬN..........................................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ Luật Tố tụng Hình sự


CCTP

: Cải cách tư pháp

CQCSĐT

: Cơ quan Cảnh sát Điều tra

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

: Điều tra viên

HĐND

: Hội đồng nhân dân

TAND

: Tòa án Nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

VKS


: Viện Kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê số liệu vụ án hình sự được thụ lý và đã xét xử do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019
Bảng 2.2. Thống kê mức án do Tòa án tuyên đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội đã bị xét xử tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019.
Bảng 2.3. Thống kê đặc điểm nhân thân đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội đã bị xét xử tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019.
Bảng 2.4. Thống kê các vụ án hình sự chỉ định có bị can là người dưới
18 tuổi phạm tội từ giai đoạn 2015-2019 của Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của nhân loại trong
nhiều thập kỷ qua. Giá trị của quyền con người luôn được tôn trọng và bảo vệ
và được xem là một trong những quyền cơ bản của Nhà nước pháp quyền Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những quyền cơ bản của con người ta
khơng thể khơng nói đến đó là quyền bào chữa. Tại khoản 4 Điều 31 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa”[34]. Như vậy, so với quyền bào chữa trong các bản Hiến Pháp trước
đây thì quyền bào chữa trong Hiến pháp năm 2013 đã được mở rộng hơn so.
Khi bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội thì họ sẽ bị chế tài hình sự

theo quy định của pháp luật Hình sự, pháp luật hình sự Việt Nam có quy định
riêng nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp đối với họ. Khi quy
định rõ ràng về đảm bảo quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi thì có thể
hiểu pháp luật đặt nặng nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng đối với chủ thể đặc biệt này.
Pháp luật hình sự nước ta từng bước hoàn thiện và đảm bảo quyền
bào chữa cho tất cả công dân theo xu hướng hội nhập Quốc tế, do vậy nhiều
Hội thảo quan trọng về cải cách tư pháp đã được thực hiện ở cấp Quốc gia và
gặt hái nhiều ý kiến đóng góp rất quan trọng, một trong những căn cứ góp ý
quan trọng đó là “Dựa trên các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp,
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, chính sách pháp luật về tư pháp từng
bước được xây dựng, làm nền tảng, cơ sở cho việc hoàn thiện về tư pháp
nước ta. Chính sách pháp luật hình sự, chính sách pháp luật tố tụng hình sự,
… và các chính sách pháp luật khác đã được xác lập ngày càng rõ hơn, định
hướng hoạt động xây dựng pháp luật liên quan đến tư pháp, thúc đẩy cải
1


cách tư pháp” [55, tr. 13]. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về CCTP
đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cơ quan tư pháp. Qua
đó, hệ thống các cơ quan tư pháp được củng cố và nâng cao, chất lượng điều
tra, truy tố, xét xử cũng được chú trọng hơn. Việc bắt người, tạm giam, tạm
giữ đã được xem xét cẩn thận, kiểm tra thường xuyên các quy định nhằm đảm
bảo bắt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tất cả những quy định đó thể
hiện chính sách nhân đạo, giá trị nhân văn cao cả trong quá trình lập pháp.
Bên cạnh những thành quả ghi nhận ban đầu về quyền bào chữa thì hiện nay,
thì vẫn cịn tồn tại một số vấn đề tồn đọng trong thực thi những quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và chất lượng cơng tác tư pháp chưa tương xứng với
yêu cầu phát triển của đất nước và yêu cầu thực tiễn của xã hội. Nhất là vẫn
cịn tình trạng oan, sai trong q trình khởi tố, điều tra, truy tố bị can là người

dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên nhân một phần do cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để
các quy định của pháp luật liên quan đến bị can là người dưới 18 tuổi phạm
tội và một phần do nhận thức của một bộ phận người tiến hành tố tụng xem
nhẹ vai trị của CCTP, khơng chấp hành nghiêm ngặt các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự, xem nhẹ quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của bị can, trong đó có bị
can dưới 18 tuổi. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, quy định về
quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền con
người của đối tượng này.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc đảm bảo quyền bào
chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phải được các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng quan tâm. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay,
việc đảm bảo quyền này của bị can dưới 18 tuổi trong giải quyết vụ án hình


sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn gặp phải nhiều hạn chế, tồn tại nhất định,
điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, việc nghiên cứu
làm rõ các quy định về nội dung này, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
đảm bảo quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi trongn giải quyết vụ án hình
sự có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiện nay.
Do vậy, việc tác giả đã chọn đề tài “Bào chữa cho bị can dưới 18
tuổi phạm tội từ thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai” để có cái nhìn tổng thể và tồn
diện nhất về cơng cuộc cải cách tư pháp ở nước ta nói chung và địa bàn tỉnh
Đồng Nai nói riêng.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:


Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến bị can
là người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những nội dung quan trọng trong
quá trình thực thi pháp luật. Bởi đây là chủ thể chưa phát triển toàn diện về
mặt thể chất và tinh thần. Hiện nay, bên cạnh các sách chuyên khảo, các đề tài
khoa học của các nhà nghiên cứu nước ngồi, cịn có các cơng trình nghiên
cứu của các học giả trong nước, trong đó nổi bật là các cơng trình nghiên cứu
đề cập đến người chưa thành niên phạm tội, cụ thể:
- Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong

tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của PGS.TS Trần Văn Độ.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa
học và Xã hội, năm 2014.
- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

trong tố tụng hình sự Việt Nam của Tiến sĩ Lại Văn Trình, Đại học Luật
TP.HCM năm 2011.


- Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo - Một trong những

nguyên tắc quan trọng góp phần bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình
sự của Tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng.
Dưới góc độ nghiên cứu chuyên ngành cũng có nhiều cơng trình liên
quan đến vấn đề quyền bào chữa của bị can. Cụ thể:
- Bài viết của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc “Sự tham gia bắt buộc của

người bào chữa trong tố tụng hình sự” được đăng trên tạp chí khoa học pháp
lý số 4 năm 2007;

- Bài viết của TS. Nguyễn Văn Tuân “ Bảo đảm quyền có người bào

chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, “Bàn về sự tham gia của Luật
sư trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên” đăng trên tạp
chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề 1995;
- Báo cáo của PGS.TS Phạm Hồng Hải về “Quyền tự bào chữa trong

tố tụng hình sự ở Việt Nam và việc thực hiện trong thực tiễn” tại Hội thảo
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam;
Qua nghiên cứu tơi nhận thấy những cơng trình nghiên cứu của các
tác giả đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, các bài viết chỉ
nói chung về quyền bào chữa của bị can, bị cáo mà chưa có cơng trình nghiên
cứu nào viết riêng về quyền bào chữa của bị can là người chưa thành niên
phạm tội. Mặc khác, những đề tài trên được viết khi Bộ luật Hình sự 2015 sửa
đổi bổ sung 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chưa có hiệu lực pháp luật.
Điều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn
diện hơn về vấn đề bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định
của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 hiện hành, cụ thể là tại địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm
2019.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thực thi cơ
chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đạt được mục đích nêu trên, khi làm đề tài tơi tập trung vào
những nhiệm vụ chính sau đây:
Thứ nhất, nêu được những vấn đề lý luận và lịch sử về bào chữa cho
bị can dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ hai, nêu được quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho
bị can dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi
phạm tội tại tỉnh Đồng Nai
Thứ ba, từ thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội tại
tỉnh Đồng Nai, đưa ra các giải pháp bảo đảm bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi
phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là vấn đề liên quan đến bào chữa cho bị can
dưới 18 tuổi phạm tội tại giai đoạn điều tra, truy tố theo quy định của pháp
luật Việt Nam nói chung và bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội từ thực
tiễn tỉnh Đồng Nai nói riêng từ năm 2015 đến 2019.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian:
- Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về quyền bào chữa của là

người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự từ
BLTTHS đầu tiên của Việt Nam đến BLTTHS hiện hành.


- Đề tài sẽ tiến hành thủ tục khảo sát, phân tích số liệu thực tế liên

quan đến là bị can người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ

năm 2015 đến năm 2019.
Về lĩnh vực nghiên cứu: Trọng tâm nghiên cứu đề tài là các vấn đề lý
luận và thực tiễn về quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội
từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai tại giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự. Trên cơ
sở lý luận và thực tiễn, đề tài sẽ đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện hệ thống
pháp luật của Việt Nam liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về Nhà nước pháp quyền,
CCTP về quyền con người, quyền công dân.
Khi nghiên cứu đề tài sẽ áp dụng phương pháp phân tích, thống kê để
tìm ra bất cập và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền bào chữa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Bài viết sử dụng phương pháp phân tích, so sánh luật, bình luận án,
…Bên cạnh đó, bài viết cũng có sử dụng các phương pháp quy nạp, diễn
dịch,... để làm sáng tỏ đề tài.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện, chun sâu về
quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội và các biện pháp để

bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can.


Luận văn tập trung nghiên cứu kỹ lý luận về quyền bào chữa của bị
can dưới 18 tuổi phạm tội, thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội để
từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền bào chữa.
Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm đề tài tham khảo, có giá trị
trong hoạt động lập pháp, thực tiễn điều tra, truy tố cũng như trong nghiên
cứu, giảng dạy về Tố tụng Hình sự trên cả nước nói chung và tại địa bàn tỉnh
Đồng Nai nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề liên quan đến quyền bào
chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó đưa ra kiến nghị, giải
pháp hồn thiện và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa trong hoạt
động tố tụng, góp phần thực thi nhiệm vụ bảo đảm quyền con người trong
công cuộc CCTP của nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được thiết kế gồm 3 Chương (không bao gồm phần mở
đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo), cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử về bào chữa cho bị can
dưới 18 tuổi phạm tội.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho bị can
dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội
tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi
phạm tội.



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ QUYỀN BÀO CHỮA
CHO BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1.

Khái niệm, ý nghĩa của quyền bào chữa cho bị can dưới 18

tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm

tội
Việt Nam cũng như các nước phát triển trên thế giới rất đề cao quyền
công dân, một trong các quyền của công dân được Nhà nước bảo đảm thực
hiện, đó chính là quyền được bảo vệ đối với người dưới 18 tuổi khi họ phạm
tội.
Bộ luật hình sự nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
của chủ thể của tội phạm là cá nhân (thể nhân) tại Điều 12, theo đó: “Người
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi trở
lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự tội rất nghiệm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng” [38, tr. 85].
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, người chưa thành niên là người
chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017 thì độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14
tuổi trở lên. Để thuộc khái niệm người chưa thành niên phạm tội, những
người này vừa phải thõa mãn điều kiện về chủ thể của tội phạm theo quy định
tại Điều 12 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì vừa phải thỏa
mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự [54, tr.466].



Từ trình bày trên, người dưới 18 tuổi phạm tội là người phải có độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì bị can là người dưới 18
tuổi phạm tội là người mà tại thời điểm họ bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố
khi có hành vi phạm tội phải từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Trong BLTTHS hiện hành quy định về quyền bào chữa là một trong
những quy định rất quan trọng. Bất kỳ người nào bị phạm tội khi tham gia tố
tụng đều có quyền bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Quyền
này cũng được quy định tại Điều 31 của Hiến pháp năm 2013. Như vậy,
quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi phạm tội phát sinh từ lúc người đó bị
bắt, tạm giam, tạm giữ. Quyền này xuất phát từ nguyên lý có buộc tội thì phải
có gỡ tội.
Pháp luật hình sự được xây dựng trên nền tảng của Hiến pháp Nước
Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Theo đó, người bị buộc tội cụ thể là
bị can dưới 18 tuổi có quyền tự bảo vệ mình và nhờ người khác bảo vệ theo
quy định để chứng minh rằng mình khơng có tội trước cơ quan tiến hành tố
tụng, đó gọi là quyền bào chữa.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa
và công cuộc CCTP ở Việt Nam hiện nay, vấn đề đảm bảo quyền con người
trong đó có quyền bào chữa là một trong những nội dung quan trọng, đặt lên
hàng đầu. Hiện nay, trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam chưa đưa ra khái
niệm thế nào là quyền bào chữa, chính vì khơng đề cập đến khái niệm quyền
bào chữa cho nên nội dung bào chữa, phạm vi bào chữa, chủ thể bào chữa và
cơ chế đảm bảo quyền bào chữa chưa được xác định rõ ràng và thiếu thống
nhất. Do đó đã trực tiếp làm giảm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
và quyền của bị can là người dưới 18 tuổi chưa được bảo đảm.



Có rất nhiều quan điểm về quyền bào chữa, tác giả xin nêu ra như
sau. Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Bào chữa là dùng lời lẽ, chứng cứ để bênh
vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước toà án hoặc
cho một việc làm đang bị lên án” [42, tr. 38].
PGS.TS Phạm Hồng Hải định nghĩa: “Quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật
nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố
tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án
hình sự”[41]. Như vây, theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì chủ thể của quyền
bào chữa gồm có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Theo PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn: “Quyền bào chữa bị can, bị cáo
là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng
nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
cho họ”[41]. Quan điểm khác cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hòa các
hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can khơng có
lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can” [40].
Về cơ bản, những nội dung quy định quyền bào chữa cho người dưới
18 tuổi phạm tội và người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội khá giống nhau. Từ
đó, có thể khái quát quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi phạm tội là
tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can là người dưới 18 tuổi phạm
tội có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm cho họ.
1.1.2. Ý nghĩa của bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội

Quyền bào chữa đảm bảo cho người bị buộc tội nói chung và cho bị
can dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng thực hiện đầy đủ quyền bào chữa. Đồng


thời đảm bảo cho các cơ quan tố tụng phải đảm bảo để người bị buộc tội thực

hiện quyền này của họ, có thể thơng qua chính bản thân họ và thông qua
người khác bào chữa theo quy định. Nghiêm cấm các hành vi gây cản trở, khó
khăn, xâm phạm đến quyền bào chữa.
Các nhà lập pháp của nước ta đã nhận thức được ý nghĩa to lớn về
quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nên ngay từ khi BLTTHS đầu
tiên ra đời năm 1988 và đến nay thì BLTTHS năm 2015 đã đề cập đến quyền
này.
Đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi, do những hạn chế nhất định
về sự phát triển thể chất cũng như tinh thần, cho nên họ sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ nếu khơng có người
bào chữa trong q trình điều tra. Chính vì vậy rất cần có sự tham gia của
người bào chữa trong những vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội.
Trên cơ sở cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại Điều 31 Hiến pháp
năm 2013, tại Điều 16 của BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền
bào chữa của người dưới 18 tuổi như sau: “Người dưới 18 tuổi có quyền tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho
người dưới 18 tuổi, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền
và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này” [29].
Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, cơng bằng,
tránh bỏ sót tội phạm, khơng xuất hiện tình trạng oan sai thì việc bào chữa là
rất cần , giúp cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật của vụ án. Mặt khác, để
một vụ án hình sự được giải quyết tốt thì trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự ln ln phải tồn tại song song hai cơ chế: Cơ chế buộc tội thuộc về Nhà


nước và cơ chế gỡ tội thuộc về bên yếu thế (có thể nói cách khác là quyền bào
chữa).
Tóm tại, quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội khơng chỉ

có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà
cịn là điều kiện để đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng hình sự như
hoạt động điều tra, truy tố … hay nói cụ thể hơn là thể hiện bản chất tốt đẹp,
nhân văn của Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa.
1.2.

Nội dung bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm

tội
1.2.1. Nội dung quyền bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi

phạm tội
Tại Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày
02/9/1990 quy định: “Trong phạm vi của Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy
định độ tuổi thành niên sớm hơn”. Bên cạnh đó, do đặc thù (Khí hậu, dinh
dưỡng, văn hóa, tơn giáo,…) của mỗi quốc gia khác nhau nên sự phát triển
của trẻ em cũng không đồng đều như nhau nên khái niệm người chưa thành
niên không thống nhất nên Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em vẫn còn nhiều
điều khoản để tùy theo từng quốc gia quy định về độ tuổi.
Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm trẻ em ở nước Việt
Nam chúng ta đều thống nhất ở giới hạn là dưới 18 tuổi, từ đó pháp luật đưa
ra quy định về độ tuổi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa truyền
thống của quốc gia đó, đặc thù của người người dưới 18 tuổi là có sự hạn chế
về nhận thức, tâm sinh lý phát triển chưa hoàn thiện. Do đó, việc xét xử
người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu mang tính giáo dục, răn đe, phịng ngừa
chung.


Người dưới 18 tuổi được quy định trong hệ thống pháp luật của nước

ta tương đối thống nhất ở các đạo luật: Hiến pháp năm 2013; BLHS năm 1999
sửa đổi, bổ sung năm 2009; BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015; Bộ luật lao động; Bộ luật Dân sự;
Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Các văn bản pháp luật trong từng lĩnh vực đều quy định về độ tuổi để có quy
định riêng như trong BLHS năm 1988, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2005
đều quy định một chương riêng về người dưới 18 tuổi phạm tội.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì người
phạm tội chưa hẳn đã có tội do đó họ được hưởng các quyền trong quá trình
tố tụng. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định:
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Quy định này đặt ra yêu cầu cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
những người tiến hành tố tụng phải thận trọng, khách quan, có trách nhiệm
làm rõ các chứng cứ để buộc tội cũng như gỡ tội, để làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội được quy
định tại Điều 10 BLTTHS năm 1988, Điều 9 BLTTHS 2003 và Điều 15
BLTTHS năm 2015.
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ln song hành với sự suy
đốn vơ tội, khơng phải chống lại sự buộc tội mà khẳng định quyền bào chữa
là quyền nhằm hạn chế, phòng ngừa các chủ thể tiến hành tố tụng có hành vi
vi phạm pháp luật. Nếu các chủ thể tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp
luật thì người dưới 18 tuổi phạm tội có quyền khiếu nại, kháng cáo đối với


hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với họ. Do đó,
cần phải nâng cao hoạt động tố tụng cho các chủ thể tiến hành tố tụng vì đây
là chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng buộc tội.
Theo quy định tại Điều 16 BLTTHS 2015 nêu rõ về việc đảm bảo
quyền bào chữa của người bị buộc tội: “Người bị buộc có quyền tự bào chữa,

nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị
buộc, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Theo Điều này quyền bào chữa
hoặc nhờ người bào chữa của người dưới 18 tuổi phạm tội tuy chưa rõ ràng
nhưng với quy định thì người dưới 18 tuổi là bị can đương nhiên sẽ có đầy đủ
quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa, đồng thời cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi
cho người phạm tội đặc biệt là bị can dưới 18 tuổi thực hiện quyền bào chữa
của mình.
1.2.2. Những quy định liên quan khi bào chữa cho người dưới 18

tuổi phạm tội
Thứ nhất, về nguyên tắc xử lý chung, tại khoản 1 Điều 91 của BLHS
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bổ sung nguyên tắc: “Việc xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18
tuổi”[29] và tại khoản 6 Điều 91 của Bộ luật đã bổ sung nguyên tắc: “Tòa án
chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi
xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn đe,
phòng ngừa”[29].


Với việc sửa đổi bổ sung các nguyên tắc trên, BLHS năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017 được thiết kế đã đảm bảo tính nhân đạo và tạo cơ hội
cho những người chưa thành niên được giáo dục, cảm hóa, sửa chữa lỗi lầm.
Thứ hai, về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi,
kế thừa các quy định trước đây của BLHS thì người từ đủ 14 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự. Người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS chia làm hai
nhóm, thứ nhất là nhóm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và nhóm từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Việc phân loại ra như vậy giúp cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng chính sách hình sự phù hợp để xử lý với
mức độ hành vi.
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã thay đổi cụ thể hơn
về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi. Cụ thể, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong 28
điều, đó là các điều: 123, 134, 141, 142. 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của BLHS.
Ngoài ra, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng sửa đổi
phạm vi chịu trách nhiệm của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị
phạm tội theo hướng thu hẹp hơn, cụ thể họ chỉ phải chịu TNHS nếu chuẩn bị
phạm tội thuộc một trong 2 tội danh đó là: Giết người (Điều 123) và Cướp tài
sản (Điều 168).
Thứ ba, về quyết định hình phạt, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017 đã quy định rõ ràng, chi tiết hơn các trường hợp tổng hợp hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội tại Điều 103; đồng thời có sự phân hóa
giữa người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dước 18


tuổi. Để giúp đỡ người phạm tội được sửa chữa sai lầm mà mình đã thực hiện,
sớm hịa nhập cộng đồng thì việc phân hóa phù hợp với độ tuổi, nhận thức của
người phạm tội thể hiện rõ nét tính nhân đạo trong việc xây dựng pháp luật.
Ngoài ra, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 còn bổ sung
quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt (Điều 102) và tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 106) để cụ
thể hóa cũng như tách biệt với trường hợp người thanh niên phạm tội, thống
nhất các nguyên tắc trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ tư, về các biện pháp giáo dục, giám sát, … thì BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bổ sung một số biện pháp giám sát, giáo dục

đối với người chưa thành niên được miễn TNHS là: Biện pháp khiển trách
(Điều 93), hòa giải tại cộng đồng (Điều 94) và giáo dục tại xã, phường, thị
trấn (Điều 95). Đây là những quy định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng
cao nhận thức đối với người phạm tội, biện pháp áp dụng pháp luật đi vào
thực tế và có hiệu quả.
Ngoài ra, từ Điều 426 đến Điều 429 của thì BLTTHS năm 2015 cũng
có bổ sung các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện
pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn theo quy định của BLHS năm 1999 (do đã có các biện pháp giám sát,
giáo dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại một biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng (Điều 96).
Thứ năm, về việc xóa án tích, nói chung những quy định liên quan
đến xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án trong thì tại Khoản 2
Điều 107 của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 được quy định


theo hướng có lợi hơn, thể hiện được đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước ta là khuyến khích, giúp người phạm tội tích cực cải tạo tốt, chấp hành
tốt pháp luật, sớm tái hòa nhập cộng đồng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình.
Thứ sáu, một số thay đổi trong hoạt động tố tụng, mở rộng chủ thể
tiến hành tố tụng với tư cách là Hội thẩm, theo đó: Thành phần HĐXX sơ
thẩm vụ án hình sự có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội phải có
một Hội thẩm là Giáo viên hoặc cán bộ Đồn Thanh niên hoặc người có kinh
nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
Thứ bảy, về “Quyền im lặng”, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy
định chi tiết cụ thể về quyền của bị can, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn
cấp tại các điều: điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 58; điểm c, điểm 2 khoản 2

Điều 59; điểm d, điểm e, khoản 2 Điều 60. Theo đó, các điều khoản này quy
định, các bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội.
Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền chủ động về việc khai báo. Những gì bị can, bị cáo thấy bất lợi cho
mình, họ có thể khơng buộc phải khai báo cũng như khơng buộc phải nhận
mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
1.3.

Các yếu tố tác động đến bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội
1.3.1. Ý chí của bị can dưới 18 tuổi phạm tội

So với người thành niên nói chung, bị can dưới 18 tuổi phạm tội nói
riêng có những hạn chế về đặc điểm tâm sinh lý, xã hội, do vậy về chủ quan
của các nhà xây dựng pháp luật tính đến trách nhiệm hình sự của họ. Ở độ


tuổi này, người dưới 18 tuổi thường chưa tích lũy đủ kiến thức và kinh
nghiệm sống cần thiết để có thể giải quyết tốt mọi việc theo yêu cầu của xã
hội. Cũng trong khoảng thời gian này, người chưa thành niên thường chưa rời
khỏi ghế nhà trường, chưa hòa nhập nhiều vào đời sống xã hội thông qua lao
động nên điều kiện để tích lũy kinh nghiệm sống cho họ cũng khá hạn chế. Sự
thiếu hụt kiến thức và kinh nghiệm sống là yếu tố tác động đáng kể đối với
khả năng lựa chọn xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội trong hoàn cảnh cụ
thể [54, tr 467].
Từ những phân tích trên cho thấy, trong một số trường hợp thì việc
thiếu kiến thức, kỹ năng sống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền bào chữa của bị

can dưới 18 tuổi phạm tội.
Trên thực tế, thơng thường có sự tham gia của Luật sư hoặc Người
bào chữa trong những vụ án có bị can dưới 18 tuổi thực hiện phạm tội thì sự
tham gia bào chữa đó phụ thuộc vào ý chí của bị can hoặc đại diện của bị can
dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh đó, trường hợp này pháp luật quy định họ
được chỉ định người bào chữa, người bào chữa tham gia vào vụ án khơng phụ
thuộc vào ý chí của họ. Sự tham gia của người bào chữa trong trường hợp
được chỉ định có những nét đặc trưng riêng như sau:
Thứ nhất, điều kiện để người bào chữa được tham gia vào vụ án để
bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội là phải được cơ quan tiến
hành tố tụng (cơ quan Cảnh sát Điều tra) yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan có
chức năng (Đồn Luật sư nói chung) cử người bào chữa.
Thứ hai, sau khi nhận được yêu cầu hoặc đề nghị cử người bào chữa
từ cơ quan tiến hành tố tụng thì cơ quan có thẩm quyền, cụ thể là Đoàn luật
sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phải có quyết định
phân công người bào chữa cho bị can trong vụ án hình sự. Việc người bào


chữa tham gia vào vụ án được phân công chỉ định thì khơng phải là sự thỏa
thuận giữa bị can với người bào chữa.
Thứ ba, bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội khơng có quyền u
cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đã được cử cho họ theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm 2015: “Người bị buộc tội có nhược
điểm về thể chất mà khơng thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần
hoặc là người dưới 18 tuổi”[29]. Xuất phát từ chính lợi ích cho các bị can,
quy định chỉ định người bào chữa là một quy định rất đúng đắn và phù hợp.
Trong các trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm
2015 thì quyền quyết định của các chủ thể này khơng cịn tính tuyệt đối mà bị
phụ thuộc vào sự xem xét chấp nhận hay khơng chấp nhận của Tịa án. Do
đó,việc bị can là người dưới 18 tuổi được chỉ định người bào chữa trong

trường hợp này sẽ dẫn đến thái độ bất hợp tác trong quá trình làm việc với
người bào chữa. Do đó, sẽ dẫn đến những kết quả khơng như mong đợi.
1.3.2. Nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng
Khi bị can dưới 18 tuổi phạm tội bị bắt, họ rất mong muốn được mời
người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nhưng để liên
lạc với người bào chữa đã rất khó, thậm chí khi người thân của bị can đến yêu
cầu người tham gia bào chữa (Luật sư hoặc Bào chữa viên) và khi người bào
chữa thực hiện các thủ tục để tiếp xúc và làm việc với bị can thì lại bị cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ chối. Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 đã mở rộng quyền của người bị can để đảm bảo quyền bào chữa cho
chính họ, tuy nhiên, chưa có cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện này, vì vậy
trên thực tế cịn gặp rất những áp dụng tùy nghi, cảm tính.


×