Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Hình phạt tiền từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.75 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH TẤN

HÌNH PHẠT TIỀN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH TẤN

HÌNH PHẠT TIỀN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Hình sự và tố tụng hình
sự Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS-TS VÕ KHÁNH VINH


HÀ NỘI, NĂM 2020


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành khóa học và luận văn thạc sĩ Luật học của mình, trước hết
tơi xin chân thành cám ơn đến Ban Lãnh đạo, các khoa, phòng và quý Thầy, Cô
trong Học viện Khoa học xã hội, đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý
báu cho tơi suốt q trình học tập và hồn thành luận văn thạc sĩ Luật học.
Tôi xin chân thành cám ơn sâu sắc nhất đến GS-TS Võ Khánh Vinh đã trực
tiếp hướng dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất trong q trình thực hiện luận văn.
Tơi cũng gởi lời cám ơn của mình đến Ban Lãnh đạo cơ quan, đồng nghiệp
đã luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện, chia sẻ, động viên tôi suốt thời gian học
tập và thực hiện luận văn.
Tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến gia đình đã tạo mọi
điều kiện tốt nhất để tơi có thể hồn thành tốt mọi cơng việc trong q trình thực
hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài nhưng luận văn
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của q
Thầy, Cơ và bạn bè đồng nghiệp.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật.
Tôi xin cam đoan rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của GS.TS Võ Khánh Vinh và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực
trong học thuật.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn


Trần Minh Tấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ HÌNH PHẠT
TIỀN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hình phạt tiền...............................................9
1.2. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền...........15
1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt tiền..............................................25

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
HÌNH PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt tiền............................29
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại tỉnh Đồng Nai..........................................39

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT
TIỀN................................................................................................................... 58
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt tiền.................................59
3.2. Tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền 62
3.3. Nâng cao năng lực của những người áp dụng hình phạt tiền...........................63
3.4. Các giải pháp khác.........................................................................................65

KẾT LUẬN........................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS


: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

HPT

: HPT

HPC

: HPC

HPBS

: Hình phạt bổ sung

NXB

: Nhà xuất bản

TAND

: Tòa án nhân dân

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


XXST

: Xét xử sơ thẩm

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trước tình hình các hành vi vi phạm pháp luật hình sự thực sự rất phức tạp
và diễn biến ngày càng tinh vi trong các quan hệ xã hội, có sự rất khác nhau về
tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho các quan hệ xã hội của các hành vi vi
phạm đó, điều này đặt ra vấn đề đối với các nhà lập pháp làm sao phải phải quy
định nhiều loại chế tài khác nhau hoặc các hình phạt khác nhau để điều chỉnh và
xử lý cho phù hợp, vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời thể
hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước. Do vậy, BLHS Việt Nam cần quy định
nhiều phương thức hình phạt khác nhau phù hợp với từng loại tội phạm và tương
xứng với hành vi phạm tội.
Các loại hình phạt được quy định trong Bộ Luật hình sự Việt Nam gồm
nhiều hình phạt cụ thể, có mối quan hệ liên kết lẫn nhau, tồn tại và có giới hạn khi
được áp dụng, tuy nhiên vì lý do mục đích chung, các chức năng và nhiệm vụ của
hình phạt. Do đó, mỗi loại hình phạt lại khơng giống nhau về nhiều điểm như: nội
dung và tính chất của các hạn chế pháp lý, chế độ thi hành hình phạt, thời hạn và
điều kiện áp dụng….Sự khác biệt của các loại hình phạt cụ thể đã tạo ra tính đa
dạng của các hình phạt đồng thời bảo đảm khả năng phân hóa và cá thể hóa trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự của nước ta; và mục đích chính là đảm bảo

việc thực hiện có hiệu quả các chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta theo
từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Các quy định về HPT và áp dụng HPT được nêu cụ thể từ khá sớm trong
pháp luật hình sự Việt Nam, ngày càng được hồn thiện và được quy định trong
các quy định của BLHS hiện nay, đảm bảo sự cần thiết và phù hợp với sự phát
triển kinh tế của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Những quy định
về HPT trong các năm gần đây đã được sự quan tâm và được áp dụng thường
xuyên đã mang đến những kết quả tích cực nhất định trong thực tế xã hội. Các quy
định về HPT được quy định ngày càng nhiều hơn và có sự thay thế các loại hình
phạt khác được ghi nhận trong BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, Tịa án nhân dân các huyện, Tp
Biên Hịa, và Tp Long Khánh, tỉnh Đồng Nai nói riêng, và Tịa án trên tồn quốc
7


nói chung, HPT được áp dụng đối với người phạm tội, thể hiện được chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng được một phần nào trong cơng tác
phịng ngừa, đấu tranh chống lại một số tội phạm đảm bảo các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh Đồng Nai nói riêng và tồn quốc nói chung, đã
được nhân dân cả nước ủng hộ. Bên cạnh đó, từ khi các quy định về HPT tại
BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) được triển khai áp dụng cho đến
nay, vẫn chưa phát huy hết vai trò và hiệu quả như chúng ta kỳ vọng, do còn
nhiều hạn chế, tồn tại trong các quy định của pháp luật hình sự cũng như vận
dụng, áp dụng các quy định về HPT trong thực tiễn cịn có những điểm chưa
hợp lý, chưa đúng, chưa đủ, còn nhiều tồn tại bất cập, và hiệu quả áp dụng HPT
còn rất thấp, chưa tương xứng với vị trí và vai trị của HPT trong hệ thống hình
phạt theo quy định của BLHS.
Vấn đề cải cách về tư pháp là yêu cầu và nhiệm vụ được đặt ra và được quy
định rõ ràng trong các NQ số 8 Nghị Quyết của Trung Ương ban hành ngày
02/01/2002 quy định cụ thể về một số nhiệm vụ trọng tâm trong cơng tác tư pháp

trong thời gian tới. Ngồi ra cịn có NQ số 49 Nghị Quyết của Trung Ương ban
hành ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. NQ số 48 Nghị
quyết của Trung Ương ban hành ngày 24/05/2005 về “ Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020”. Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/03/2014 về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 01-KL/TW ngày
04/4/2016 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, khẳng định những giá
trị đúng đắn về nhiệm vụ cải cách tư pháp trong các Nghị quyết nêu trên, việc ra
đời của các Nghị quyết quan trọng nêu trên của Bộ Chính trị cùng với nhiệm vụ
triển khai thực hiện, tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm và đề xuất các nội dung
mới về cải cách tư pháp trong đó cũng thể hiện quan điểm của Đảng ta là giảm
hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền đối với một số loại tội phạm …
Hiện nay các nhà làm luật vẫn không ngừng nghiên cứu các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về HPT và thực tiễn khi áp dụng HPT; đặc biệt Bộ
luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) được ban hành, đã làm sáng tỏ
về mặt lý luận, thực tiễn áp dụng, có đề xuất và giải pháp tốt hơn nhằm nâng cao


hiệu quả áp dụng của HPT làm sao để HPT thực sự phát huy tốt nhất vai trò chức
năng của nó trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm mà vẫn đảm bảo
được ý nghĩa và mục đích của hình phạt. Tác giả lựa chọn đề tài “Hình phạt tiền
từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học, phần nào cũng sẽ góp
phần làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt Việt
Nam tại địa phương Đồng Nai.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

HPT có vị trí và vai trị quan trọng trong hệ thống hình phạt được quy
định tại BLHS Việt Nam, đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học ở
các cấp độ khác nhau, nghiên cứu những khía cạnh, phương diện, phạm vi khác
nhau về loại HPT này.

Hiện nay đã có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu điển hình của các
chun gia đầu ngành như:
Thứ nhất, Đào Trí Úc với “Chính sách hình sự và hình phạt”
Thứ hai, Trần Văn Độ với “Hiệu quả hình phạt, khái niệm và tiêu chí”
Thứ ba, Võ Khánh Vinh với “Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt”
Thứ tư, Nguyễn Đức Tuấn với “HPT, những vấn đề lý luận và thực tiễn”
Và rất nhiều cơng trình khoa học pháp lý của các tác giả khác.
Chúng ta có thể khẳng định đây là những cơng trình khoa học pháp lý đầu
tiên đặt nền móng về cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như các vấn đề về hiệu quả
và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của HPT nói riêng và của hình phạt nói
chung.
Một số cơng trình nghiên cứu luận án tiến sĩ luật học: Nguyễn Sơn (2003)
“Các Hình phạt chính trong BLHS Việt Nam” Trong nghiên cứu của mình tác
giả đã nghiên cứu về các hình phạt chính trong Bộ luật hình sự ở Việt Nam,
những vấn đề cần đổi mới sửa đổi; và cơng trình nghiên cứu của tác giả
Trịnh Quốc Toản (2010) “Các hình phạt bổ sung trong BLHS Việt Nam”, và của
các tác giả khác.
Một số đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ như: Vũ Lai Bằng (1997) “Hình
phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam”; Tác giả nghiên cứu về lịch sử HPT cũng
như các vấn đề liên quan đến HPT của Nhà nước ta giai đoạn


1985 trở về trước; Đào Anh Dũng (2002) “Hình phạt tiền trong Bộ luật
hình sự năm 1999 và việc áp dụng hình phạt này của Tịa án nhân dân Hà Nội”
Tác giả nghiên cứu về HPT trong BLHS năm 1999 cũng như thực trạng áp dụng
HPT của Tòa án nhân dân Hà Nội.
Một số bài báo khoa học đề cập đến HPT khác như:
Một là, tác giả Dương Tuyết Miên (2006) với đề tài “Sự mâu thuẫn giữa HPT
quy định tại khoản 1 Điều 30 BLHS với một số tội phạm cụ thể và những bất cập
của hình phạt này” được đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 15 năm 2006

Hai là, tác giả Trịnh Quốc Toản (2008) với đề tài “Hoàn thiện các quy định
của BLHS hiện hành về các HPC nhẹ hơn hình phạt tù” được đăng trên Tạp chí
Tịa án nhân dân số 19 năm 2008
Ba là, Trịnh Tiến Việt (2003) với đề tài “Về HPT trong luật hình sự một số
nước trên thế giới” được đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7 năm 2003
Bốn là, Đỗ Văn Chỉnh (2003) với đề tài “Một số vấn đề mới về HPT trong
BLHS năm 1999” đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 7 năm 2003
Năm là, Lý Văn Tầm (2009) với đề tài “HPT và thực tiễn áp dụng” và “Một
số vấn đề lý luận về HPT” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 03 và số 08 năm
2009
Sáu là, Hà Tuấn Phương với đề tài “Một số ý kiến về HPT theo quy định của
BLHS năm 1999” đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 04 năm 2013 và Ra quyết định
thi hành án như thế nào đối với phần tổng hợp HPT” đăng trên Tạp chí Dân chủ
và pháp luật. Bộ tư pháp, số 11 năm 2008
Và nhiều cơng trình nghiên cứu khác
Các nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra kết luận xác đáng và một số kiến nghị
hữu ích giúp nâng cao hiệu quả của HPT trong cuộc chiến đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Tác giả đã kế thừa những lý luận quan trọng để áp dụng trong cơng trình
nghiên cứu của mình. Hiện nay, mặc dù đã có cơng trình tiếp cận nghiên cứu HPT từ
thực tiễn tại các địa phương trên cả nước tại thời điểm của BLHS năm 1999 (2009)
có hiệu lực pháp luật. Chính vì vậy, có thể nói đây là luận văn nghiên cứu đầu tiên
tiếp cận áp dụng HPT từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai để làm rõ thêm những lý luận và
thực tiễn áp dụng HPT theo pháp luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi bổ


sung


năm 2017).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Thơng qua nghiên cứu những vấn đề lý luận khoa học về HPT, các quy định
của pháp luật hình sự hiện nay về HPT, cụ thể là BLHS năm 2015, bên cạnh đó đối
chiếu với thực tiễn áp dụng hình phạt tiền trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, mục đích đánh
giá hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tiền trong thực tế, từ đó luận văn hướng đến
việc đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình
sự và nâng cao hiệu quả HPT trong hệ thống hình phạt của BLHS Việt Nam, đặc biệt
phát huy hiệu quả cao nhất trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm hiện nay
đang diễn biến rất phức tạp trong bối cảnh nước ta tham gia và hội nhập kinh tế toàn
cầu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhằm cụ thể hóa tốt nhất các mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện
tốt các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ và cụ thể các vấn đề lý luận về quy định áp dụng HPT, các quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam về HPT.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về HPT từ thực tiễn

tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn từ năm 2015 - 2019, bên cạnh đó có phân tích làm
sáng tỏ những bất cập, còn hạn chế nhất định xung quanh cũng như nguyên nhân
trong việc áp dụng HPT;
- Đề xuất những phương hướng hoàn thiện áp dụng đúng

các quy

định về HPT trong BLHS 2015 và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt tiền
với tư cách là hình phạt chính và với tư cách là hình phạt bổ sung trong cơng tác
thực tiễn xét xử tại tịa án nhân dân các cấp tỉnh Đồng Nai nói riêng và của cả
nước nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng luận văn nghiên cứu là những lý luận và thực tiễn áp dụng HPT từ
thực tiễn tỉnh Đồng Nai theo quy định của pháp luật hình sự
4.2. Phạm vi nghiên cứu


Phạm vi nghiên cứu là giải quyết các vấn đề lý luận về HPT được quy
định trong Bộ luật hình sự Việt Nam với hai tư cách, thứ nhất là tư cách HPT là
HPC và thứ hai với tư cách HPT là HPBS, bên cạnh đó, luận văn cũng đánh
giá hoạt động áp dụng HPT trong thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân các cấp
tại tỉnh Đồng Nai, qua đó chỉ ra những tồn tại, bất cập, hạn chế và nguyên
nhân của nó, đồng thời có đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm hồn thiện pháp
luật hình sự và nâng cao hiệu quả cao nhất trong việc áp dụng HPT trong
thực tiễn xét xử.
Luận văn nghiên cứu HPT từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai trong khoảng thời gian
từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên các căn cứ như sau:
- Phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác và Lê Nin, Chủ

nghĩa duy vật lịch sử
- Pháp luật và NN theo tư tưởng của Chủ tich HCM
- NQ số 08 của Trung ương ngày 02/01/2002; NQ 49 của Trung Ương

ngày 02/06/205 và NQ số 48 của Trung Ương ngày 24/05/2005.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


Các phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng như: thống kê, tổng hợp, phân
tích, so sánh, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Cụ thể như sau:
- Áp dụng phương pháp thống kê, phân tích số liệu các vụ án được xét xử liên

quan đến áp dụng HPT với tư cách là HPC và với tư cách là HPBS tại tòa án nhân
dân cấp huyện - tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
- Áp dụng phương pháp pháp so sánh để nhận thấy cịn có các quan điểm

khác nhau về lý luận HPT; thấy được quá trình, lịch sử lập pháp về HPT ở nước ta
qua các thời kỳ.
- Áp dụng phương pháp tổng kết thực tiễn áp dụng HPT tại Tòa án nhân dân

các cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019.
- Nghiên cứu cụ thể một số bản án có áp dụng HPT là HPC hay HPBS, để từ


đó rút ra những tồn tại, hạn chế từ quy định của pháp luật hình sự và áp dụng pháp
luật hình sự về HPT; qua đó có đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm kiện toàn
các quy định của pháp luật hình sự về HPT và nâng cao hiệu quả áp dụng hình
phạt này trong thực tiễn xét xử
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận

Mặc dù phạm vi, không gian và thời gian của luận văn nghiên cứu chỉ tập
trung nghiên cứu việc áp dụng HPT từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai là một nội dung có
nhiều sự giới hạn nhất định bởi vì mức độ khái qt sẽ khơng cao. Tuy nhiên, trong
sự giới hạn điều kiện nhất định, tác giả đã nổ lực và tập trung nghiên cứu phát hiện
những vấn đề lý luận chung, những cốt lõi mang tính đặc trưng cơ bản nhất của

việc áp dụng HPT, bên cạnh đó có những tồn tại, hạn chế mang tính phổ biến chung
khơng chỉ xuất hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Từ đó, tác giả có nêu kiến nghị và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện pháp luật hình sự Việt Nam và phát huy hiệu quả cao nhất trong hoạt động xét
xử tại tòa án các cấp trên toàn quốc khi áp dụng HPT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần bổ sung thêm các lý luận về HPT trong pháp luật hình

sự ở nước ta.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham chiếu

trong công tác giảng dạy và học tập ở các cơ sở đào tạo về ngành Luật.
- Một số kiến nghị và giải pháp mà tác giả đề xuất trong luận văn nếu được

áp dụng sẽ mang lại hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng HPT trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án của các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn (không bao gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo),
gồm có ba chương :
Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử về hình phạt tiền
Chương 2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt tiền và
thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai


Chương 3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tiền


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ HÌNH PHẠT TIỀN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.1.1 Khái niệm của hình phạt tiền

Luật hình sự của VN trong lịch sử thì chế định tội phạm, chế định hình phạt là
một trong những chế định mang tính chất quan trọng trong LHS của VN.
Trong Bộ luật hình sự ban hành năm 1985 và các văn bản PL trước đó thì chưa
có nêu rõ khái niệm về “hình phạt”. Nhưng có nhiều các nghiên cứu của các nhà
khoa học, các trung tâm, cơ sở đào tạo đưa ra rất nhiều khái niệm và quan điểm về
hình phạt. Cụ thể như sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế NN nghiêm khắc nhất quy định trong LHS
được TA áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm nhằm trừng trị và cải tạo
họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự
XH cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” [18, tr. 271]. Theo nhận
định này thì khái niệm hình phạt đã ghép cả mục đích vào khái niệm. Nhưng chưa chỉ
rõ được bản chất, thuộc tính, nội dung cụ thể của các hình phạt. Với khái niệm này
thì việc áp dụng các hình phạt cho người phạm tội là không cần thiết. Mà chỉ cần nêu
ra áp dụng cho người bị kết án, người phạm tội kà đủ.
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Toà án QĐ trong bản án với người có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các
quyền và lợi ích do pháp luật QĐ đối với người bị kết án”. [58, tr.194]. Với khái
niệm này thì tương đối ngắn gọn, chỉ rõ được nội dung, thuộc tính của các hình phạt
là sẽ bị hạn chế quyền lợi, bị tước đoạt lợi ích, quyền lợi đối với người bị kết án tù,
người phạm tội. Tuy nhiên khái niệm này cịn mang tính khái qt.
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế NNdo Toà án áp dụng đối với người thực
hiện tội phạm theo QĐ của LHS, tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích nhất định của
người bị kết án nhằm mục đích giáo dục cải tạo người phạm tội nhằm ngăn ngừa họ
phạm tội mới”. [27, tr.23]. Ở khái niệm này cũng chỉ rõ được nội dung, thuộc tính
của các hình phạt là hạn chế, tước đoạt lợi ích và quyền của người phạm tội. Khái
niệm này cũng chỉ rõ đối tượng bị áp dụng các hình phạt và nêu rõ cơ quan có thẩm

quyền được áp dụng các hình phạt nêu trên.
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của NN nhằm tước đoạt


hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong
BLHS và do Tồ án QĐ”. Với quan điểm này thì đồng quan điểm với Bộ luật hình
sự ban hành năm 1999
Có nhiều quan điểm, nhiều khái niệm khác nhau đưa ra về hình phạt nhưng tất
cả đều mang những đặc điểm chung của hình phạt đó là:
Thứ nhất, Hình phạt chính là một biện cưỡng chế của NN có tính chất nghiêm
khắc nhất trong các biện pháp cưỡng chế của NN.
Thứ hai, Người phạm tội mới bị áp dụng hình thức hình phạt
Thứ ba, Hình phạt phải được quy định trong Bộ luật Hình Sự
Thứ tư, Tồ án QĐ áp dụng hình phạt theo trình tự quy định của pháp luật
Khái niệm về “hình phạt tiền” thì hiện nay chưa có một văn bản pháp lý, hay
định nghĩa nào cụ thể nào dưới góc độ luật thực định.
Một số khái niệm, quan điểm về phạt tiền được nhiều tác giả đưa ra gồm:
“Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình
phạt BS, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do TAQDS trong những
TH do luật định mà theo đó người bị kết án bị tước một số tiền tùy theo mức độ
nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời xem xét đến tình hình TS của người bị kết án
và sự biến động của giá cả” [47, tr.15]. Với khái niệm này thì khá chi tiết và dài.
Ghép cả nội dung khái niệm, vị trí và vai trị của hình phạt. Như vậy là không cần
thiết khi thể hiện định nghĩa về phạt tiền.
“Phạt tiền là hình phạt khơng tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo khơng
giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ NN một khoản tiền nhất
định” [21, tr.53]. Với định nghĩa này cũng như các định nghĩa trên. Lồng ghép giữa
vị trí, vai trị và nội dung vào trong khái niệm. Ngoài ra định nghĩa này cịn cho rằng
phạt tiền là hình phạt khơng tước tự do là khơng cần thiết
Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất định sung

cơng quỹ nhà nước” [12, tr. 75]
Mặc dù có nhiều khái niệm, quan điểm khác nhau về hình phạt tiền nhưng
chung quy lại hình phạt tiền chính là việc tước đi một khoản tiền nhất định.
Như vậy, hình phạt tiền chính là một hình thức tước đi của người phạm tội,
người bị kết án một khoản tiền nhất định nào đó để sung vào cơng quỹ của NN


Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành khơng có nêu khái niệm Hình phạt tiền
như một số nước trên thế giới. Các nhà nghiên cứu pháp luật hình sự hiện nay
cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hình phạt tiền.
Điều 35 BLHS 2015 quy định về HPT đối với cá nhân phạm tội như sau:
1. Hình thức phạt tiền được áp dụng là HPC đối với một số TH sau đây:

Thứ nhất, người phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng do BLHS này quy định;
Thứ hai, Người phạm tội rất nghiệm trọng xâm phạm tới trật tưm QLKT, trật tự
cơng cộng, mơi trường, an tồn cơng cộng và một số tội phạm khác do BLHS quy
định
2. HPT được áp dụng là HPBS đối với người phạm tội về tham nhũng, ma

túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
3. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm

của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến
động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng.
4. HPT đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77

của Bộ luật này”.
Bộ luật hình sự năm 2015 tại điều 77 của luật này “quy định về hình phạt
tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội”, như sau:
1. Phạt tiền được áp dụng là HPC hoặc HPBS đối với pháp nhân thương


mại phạm tội.
2. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm

của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm
tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng.
Theo các quy định như trên, chúng ta có thể khái niệm HPT như sau: “Hình
phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng với tư cách là HPC hoặc HPBS, do
Tòa án quyết định trong những trường hợp do BLHS quy định mà theo đó người
bị kết án bị tước một số tiền nhất định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm
của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của người phạm tội là cá nhân
hoặc là pháp nhân thương mại phạm tội và sự biến động của giá cả ”.
1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tiền

Những đặc điểm cơ bản của Hình phạt tiền:


- Hình phạt tiền một biện pháp mang tính chất cưỡng chế nghiêm khắc cao
so với hình thức phạt bằng tiền được quy định tronh HT các biện pháp cưỡng chế
khác của NN
Trong cơng tác đấu tranh phịng và chống tội phạm, Nhà nước ta đã xử
dụng nhiều biện pháp và chế tài về hành chính, kinh tế, hình sự ….Các biện pháp
này có mối quan hệ tương quan, hỗ trợ nhau trong nhiệm vụ đấu tranh phòng và
chống tội phạm cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác, thì phạt tiền được
quy định đa số trong tất cả các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Tuy nhiên,
phạt tiền với tư cách là một trong những hình phạt theo quy định của BLHS, thì
HPT có tính nghiêm khắc cao hơn so với phạt tiền được quy định trong hệ thống
các biện pháp cưỡng chế khác của Nhà nước ta.
Người phạm tội bị kết án sẽ bị tước đi một số tiền cụ thể, làm hạn chế về
mặt lợi ích vật chất của người phạm tội. Ngồi ra, người bị kết án phạt tiền sẽ phải

mang án tích trong một thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật.
- HPT phải được quy định trong BLHS [9]. Hình phạt tiền hiện nay được sử

dụng theo Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi và BS vào năm 2017
- Hình phạt tiền do TA áp dụng và thực hiện theo một trình tự nhất định.

Trình tự về thủ tục tố tụng HS được quy định trong bộ luật Hình sự năm 2015 bao
gồm một quá trình tham gia của nhiều cơ quan, đồn thể có thẩm quyền theo quy
định của NN. Bao gồm: VKS nhân dân thực hiện chức năng KS các hoạt động tư
pháp và thực hiện quyền công tố của NN, thực hiện truy tố tội phạm, buộc tội
người phạm tội trước toà, cơ quan công an điều tra tội phạm. Và TA là cơ quan
duy nhất có thẩm quyền QĐ hình phạt.
- Hình phạt tiền là hình phạt bắt buộc người phạm tội bị kế án phải nộp một

khoản tiền nhất định để sung vào công quỹ NN trong những TH nhất định do luật
quy định. Do đó, hình phạt đã tác động trực tiếp vào KT của người phạm tội bị kết
án. Với mục đích răn đe người khác và là một biện pháp loại trừ điều kiện thuận
lợi đối với những tội phạm cùng loại. HPT thể hiện sự nghiêm khắc và sự lên án
của Nhà nước về hành vi phạm tội.
- Tuỳ vào mức độ nghiêm trọng cũng như tính chất nghiêm trọng của tội
phạm mà có các mức phạt tiền khác nhau. Tài sản của người phạm tội, cũng như


sự biến động của giá cả thị trường cũng là yếu tố xem xét cân nhắc mức phạt tiền,
mức phạt tiền tối thiểu là 1 triệu đồng. Mức tiền phạt được xác định căn cứ vào
quy định tại Điều 50 và được Tịa án cân nhắc xem xét tình hình tài sản của người
phạm tội và sự biến động của giá cả thị trường. Để Toàn án đưa ra quyết định mức
phạt tiền hợp lý, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội.
- Hình phạt tiền khơng thể TH chung được với các hình phạt khác, các


khoản bị phạt tiền cần được cộng lại và tạo ra hình phạt chung theo Điểm đ khoản
1 của Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, hình phạt tiền khơng thể thay thế các
hình phạt khác theo quy định của PLHS của Việt Nam. Ngồi ra cũng khơng cho
chuyển đổi giữa hình phạt khác sang hình phạt tiền.
- Phạt tiền là loại hình phạt được áp dụng là HPC, hoặc được áp dụng là

HPBS khi HPC là loại hình phạt khác.Với những đối tượng phạm tội ít nghiêm
trọng thì HPT được áp dụng là HPC do BLHS quy định.
1.1.3. Ý nghĩa của hình phạt tiền

HPT với vai trị là một trong những hình phạt trong hệ thống hình phạt
được quy định trong BLHS, do vậy HPT cũng giống như các hình phạt khác,
nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội,
có tính răn đe và phịng, chống tội phạm. Phạt tiền là tước đi một quyền lợi vật
chất nhất định của người phạm tội, nó tác động trực tiếp đến tài sản vật chất của
người phạm tội, nó sẽ làm cho người phạm tội nhận thức được sự vi phạm
pháp luật hình sự của mình để kịp thời sửa chữa sai lầm và không tái phạm sau
khi chấp hành hình phạt. Bên cạnh đó, HPT cịn có ý nghĩa đối với các cá nhân
khác rằng: việc người phạm tội bị tòa án xét xử và ra bản án áp dụng HPT khơng
chỉ có ý nghĩa như một sự cảnh báo mà còn giúp cho họ những kiến thức pháp
luật hình sự nhất định.
HPT trong bộ luật hình sự nước ta đã thể hiện sự đa dạng hóa các biện pháp
xử lý hình sự trong nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm. Khi HPT được
quy định là HPC nó sẽ có những tác động mạnh mẽ đến kinh tế của người phạm
tội.
HPT được xem là hình phạt nặng hơn hình phạt cải tạo khơng giam giữ,


nhưng nhẹ hơn hình phạt cảnh cáo nhưng lại trong hệ thống hình phạt; HPT giữ vị

trí ở giữa hình phạt cảnh cáo (ít nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt) với
hình phạt cải tạo khơng giam giữ (nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn), nó tạo nên
tính liên tục theo hướng tăng dần của hình phạt.
Phạt tiền là hình phạt được cụ thể hóa đối với các trường hợp phạm tội
khác nhau về tính chất cũng như mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm pháp luật hình sự, tạo ra một chính sách nghiêm trị người phạm tội kết hợp
với chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Khi Tịa án xét xử tuyên bản án áp dụng HPT đối với người phạm tội/pháp
nhân phạm tội thương mại, điều này được hiểu là tiết kiệm được những chi phí
xã hội cho việc giáo dục, cải tạo, đặc biệt là hạn chế tiêu cực có thể phát sinh
khi áp dụng hình phạt tù, bên cạnh đó vẫn đạt được mục đích của hình phạt
là cải tạo, giáo dục và phịng, chống tội phạm. Người phạm tội khi bị áp dụng
HPT thì khơng bị cách ly khỏi xã hội, được sinh sống, làm ăn, và hịa nhập với xã
hội, cơng đồng mà khơng bị mặc cảm ….thể hiện nguyên tắc nhân đạo của pháp
luật hình sự của nhà nước ta.
Theo quy định của BLHS hiện hành thì HPT chỉ được áp dụng là HPC
hoặc được áp dụng là HPBS đối với một trường hợp phạm tội cụ thể với một
loại tội cụ thể. HPT không được áp dụng song song là HPC và là HPBS đối với
một trường hợp phạm tội cụ thể với một loại tội cụ thể. Tính chất “lưỡng tính”
của HPT làm tăng sự linh hoạt trong việc áp dụng HPT đối với các loại tội
trong những vụ án cụ thể khác nhau theo qua định của BLHS quy định. Như vậy,
HPT với vai trị là HPBS, thì HPT cùng với các hình phạt bổ sung khác làm đa
dạng các biện pháp hình sự, được áp dụng để hồn thành chức năng xã hội
của hình phạt, tạo cơ sở pháp lý thực hiện đầy đủ và hiệu quả các biện pháp này
trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm của nước ta qua từng thời kỳ giai
đoạn khác nhau.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của của pháp luật

hình sự Việt Nam về hình phạt tiền.
1.2.1. Quy định về hình phạt tiền giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm


1945


Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là bộ Quốc Triều hình luật) được coi là bộ
luật nổi bậc nhất, có vai trị rất đặc biệt trong lịch sử lập pháp của nền phong kiến
Việt Nam. Cho đến nay đã trải qua hơn 500 năm lịch sử (Bộ luật Hồng Đức thời
kỳ nhà Lê được ban hành vào năm 1483). Tuy nhiên các quy định của Bộ luật
Hồng Đức vẫn còn nguyên giá trị thời sự cho nền lập pháp nước ta hện nay. Hình
luật là nội dung trọng yếu và có tính chât chủ đạo bao trùm nội dung của Bộ luật
Hồng Đức thời bấy giờ, tội phạm chủ yếu được phân loại theo hình phạt (ngũ hình
và các hình phạt khác).
Các quy định về hình phạt trong Quốc Triều hình luật có nhiều chi tiết
nhưng chưa linh hoạt vì đa số các khung hình phạt thường là cố định, mặc dù
cũng có xem xét đến các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ. Các hình phạt ngũ hình
và các hình phạt khác bao gồm:
-

Ngũ hình bao gồm: Xuy (đánh bằng roi); Trượng (đánh bằng gậy); Đồ (phục
dịch kèm theo trượng, tượng phường binh – quét dọn chuồng voi kèm theo
trượng và thích hai chữ vào mặt, và chủng điền binh – lính lao động kèm theo
trượng và thích bốn chữ vào cổ và phải đeo xiềng..); Lưu (lưu đày đi nơi xa);
và Tử (giết chết)

-

Hình phạt khác như: Biếm tư (một hình phạt làm hạ thấp tư cách của người bị
phạt; thích chữ vào cổ/mặt; xung vợ con làm nơ tỳ; Phạt tiền (Đ 26) có 03 bậc:
300-500 quan, 60-200 quan và 5-50 quan.
Do đó, phạt tiền đã được quy định rất lâu trong Bộ luật Hồng Đức là một


thành tựu đáng tự hào nhất, đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam
hồi thế kỷ XV, nhằm thể chế hóa một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền
thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Sau khi nhà Lê sơ sụp đỗ, đến các triều đại
phong kiến tiếp theo thì phạt tiền khơng cịn tồn tại nữa [23].
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công cửa biển
Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của thực dân phương Tây ở Việt Nam, uy hiếp
cửa ngõ phía Nam của kinh đơ Huế, đe dọa sự tồn vong của triều đình nhà
Nguyễn. Ngày 6/6/1884, Triều đình Huế ký vào Hiệp ước Patennơtre gồm 19 điều
khoản. Hiệp ước đánh dấu sự công nhận địa vị thống trị của thực dân Pháp tại


Việt Nam, đất nước Việt Nam khơng cịn là một quốc gia độc lập, trở thành chế độ
quân chủ nửa thuộc địa, phải phụ thuộc vào Pháp, Việt Nam bị người Pháp chia
thành 3 Kì (Nam Kì, Trung Kì và Bắc Kì) với các chế độ chính trị, bộ máy hành
chính và hệ thống luật pháp khác nhau để dễ cai trị. Về góc độ pháp luật, luật
hình sự được áp dụng ở Bắc Kì là Bộ luật Bắc kì 1918; tại Trung Kì là Hồng Việt
hình luật 1933 (trước kia là Bộ luật Gia Long); tại Nam Kì là Hình luật canh cải
1912 hay cịn gọi là Bộ hình luật Nam phần thực chất là Bộ luật hình sự của Pháp
1810 đã được sửa đổi một số điều cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Nhìn chung, phạt tiền được quy định tại các bộ luật tại ba Kì của nước ta
thời bấy giờ, cụ thể như: Trong Hình luật canh cải, “hình phạt bạc” được áp dụng
tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo như “Khinh
tội”; trong Hồng Việt hình luật 1933, tại Điều 5 quy định tùy theo tội danh nặng
hay nhẹ, chánh hình chia ra làm tội đại hình, tội trừng trị (phạt giam và phạt bạc)
và tội vi cảnh (phạt giam và phạt bạc)”
1.2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt tiền giai

đoạn năm 1945 – 1975

Sau thành công của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, Lãnh tụ vĩ đại Hồ
Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam. Với tầm nhìn xa, chỉ sau 11
ngày, kể từ ngày thành lập Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (ngày 2/9/1945),
ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa
Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 33c/SL về việc thành lập Tòa án quân sự
trong phạm vi cả nước để xét xử tất cả các người nào vi phạm một việc gì có
phương hại đến nền độc lập của Nước Việt Nam dân chủ cộng. Trong Sắc lệnh
này chưa quy định về HPT.
Ngày 30/11/1945, Chủ tịch chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 68 về
việc ấn định thể lệ về việc trưng dụng, trưng thu và trưng tập, có quy định phạt
tiền. Nội dung hình phạt quy định với những người không chấp hành lệnh trưng
thu, trưng dụng hoặc trưng tập sẽ có thể bị phạt tiền từ một trăm đồng đến hai
nghìn đồng đồng thời sẽ bị phạt tù tối thiểu ba ngày và tối đa ba tháng. Tùy từng


trường hợp và mức độ vi phạm mà có thể cân nhắc một trong hai hình phạt trên
hoặc cho phạm nhân hưởng án treo.
Sắc lệnh 68 còn quy định rõ hình phạt đối với người tái phạm: bị phạt tiền
mức độ nặng hơn tối thiểu ba nghìn đồng và tối đa hai vạn đồng và bị phạt tù từ
hai tháng đến hai năm.
Ngày 16/8/1945, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ban
hành Sắc lệnh số 157-SL v/v bắt buộc các thứ thuốc chế bắt buộc các thứ thuốc
chế theo cách bào chế thái tây phải có dán một nhãn hiệu, có quy định phạt tiền:
“… bị phạt bạc đến một vạn đồng bạc (10.000$) và có thể bị bắt đóng cửa hiệu
bào chế…”
Sắc lệnh số 223 được ban hành bởi Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa vào ngày 27/11/1946 quy định phạt tiền đối với tội đưa và nhận hối lộ:
Khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt tiền gấp đôi đối với tang vật sử dụng để hối
lộ, biển thủ công quỹ
Giai đoạn năm 1946 – 1954, là một trong những khoảng thời gian trọng

đại và khắc nghiệt nhất trong lịch sử Việt Nam. Giai đoạn này được chia làm ba
phần: (i) Năm 1946-1950: Cuộc kháng chiến chống Pháp toàn quốc bùng nổ ngày
19-12-1946 và chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947; (ii) Năm 1950-1953: Chiến
dịch Biên giới Thu-đông: và (iii) Năm 1953-1954: Cuộc tiến công chiến lược
Đông-Xuân, chiến thắng Điện Biên Phủ. Đất nước đang trong điều kiện chiến
tranh như thế, nhưng Chính phủ nước ta cũng đã kịp thời ban hành một số sắc
lệnh hình sự tương đối lớn, trong đó có một số văn bản quy định liên quan đến
phạt tiền, cụ thể như sau:
- Ngày 02/3/1948, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa ban

hành Sắc lệnh 144-SL v/v cấm giết trâu bị, có quy định: “…phạt tiền từ 1.000
đến 2.000 đồng. Số thịt bắt được sẽ tịch thu cho bộ đội.”. Sắc lệnh 144 cũng nêu
rõ quy định với trường hợp tái phạm, có thể bị phạt tiền gấp đơi …Điều này thể
hiện rõ tính răn đe người phạm tội không tái phạm.
- Ngày 11/11/1948, Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 257B/SL về

việc ấn định thể lệ truy tố những vụ phạm pháp về thể lệ mậu dịch giữa vùng tự
do và vùng bị địch tạm chiếm, để sửa đổi bổ sung điều 2 Sắc lệnh số 222-SL của


chủ tịch Chính phủ ngày 20/8/1948, có quy định: Phạt tù từ ba tháng đến năm năm
và phạt tiền tối thiểu là giá tổng số hàng lậu bị bắt giữ. Tùy từng trường hợp có
thể cân nhắc áp dụng hình phạt tù hoặc hình phạt tiền.
Các văn bản pháp luật quy định về phạt tiền trong giai đoạn từ 1945 – 1954
có nội dung đơn giản, chưa cụ thể và rõ ràng. Nên sẽ gặp những bất cập trong quá
trình thi hành, áp dụng.
Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (7-5-1954), kết thúc cuộc
kháng chiến trường kỳ, gian khổ của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược,
miền Bắc nước ta được giải phóng, Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đi lên xây dựng cuộc sống mới Xã hội chủ nghĩa,

trong khi đó miền Nam tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhằm giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Pháp luật hình sự thời kỳ
này vẫn được Nhà nước ta duy trì áp dụng trong suốt quá trình này, đặc biệt phạt
tiền trong các văn bản pháp luật hình sự thời kỳ này có sự tiến bộ vượt bậc, từ chỗ
đơn giản tiến đến việc quy định chi tiết, minh bạch và cụ thể hơn.
Ví dụ 1: Ngày 14 tháng 12 năm 1956, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa đã ban hành Sắc lệnh số 282/SL kèm theo Luật về chế độ báo chí, có
quy định phạt tiền tại Điều 13: Trường hợp xuất bản báo khi chưa được chính phủ
cấp giấy phép hoặc nếu đã được cấp phép nhưng chưa xin phép và khai báo lại khi
có thay đổi về tên báo, tơn chỉ, mục đích....sẽ bị tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh
viễn và bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến năm mươi vạn đồng
(500.000 đ), hoặc người có trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến một năm,
hoặc cả hai hình phạt đó. Hoặc báo chí khơng nộp lưu chiểu trước khi phát hành
sẽ bị cảnh cáo hoặc tịnh thu ấn phẩm.
Ví dụ 2: Ngày 19/4/1957, Chủ tịch Nước ban hành Nghị quyết số 001-SLT
Chuẩn y sắc luật số 001/SLt ngày 19 tháng 4 năm 1957 cấm chỉ mọi hành động
đầu cơ về kinh tế, sau khi sửa đổi và bổ sung điều 3 của sắc luật như sau: “Bị phạt
tiền với mức từ 100.000 đồng (mười vạn) đến một 100.000.000 đồng và phạt tù từ
1 tháng đến 5 năm. Áp dụng một trong hai hình phạt trên”.
Đến ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ban hành Pháp lệnh số
149/LCT v/v trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, cụ thể tại Điều 20, quy


×