Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN HÀNG TỒN KHO TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.96 KB, 32 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN HÀNG TỒN KHO
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Hàng tồn kho với các vấn đề về kiểm toán
1.1.1. Đặc điểm và chức năng của hàng tồn kho
1.1.1.1. Đặc điểm hàng tồn kho
Hàng tồn kho là tài sản lưu động của doanh nghiệp biểu hiện dưới dạng vật
chất với nhiều hình thức khác nhau. Hàng tồn kho có thể được mua từ bên ngoài
hoặc tự sản xuất để dùng vào mục đích sản xuất kinh doanh. Hình thức của hàng
tồn kho ở từng doanh nghiệp cũng có sự khác biệt, nó tuỳ thuộc vào bản chất
doanh nghiệp.
Cụ thể, đối với các doanh nghiệp thương mại, hàng tồn kho bao gồm
những hàng hoá mua về chờ bán. Trong doanh nghiệp sản xuất, hàng tồn kho
bao gồm nguyên, nhiên, vật liệu, công cụ dụng cụ chờ đưa vào sản xuất; bán
thành phẩm dở dang; sản phẩm hoàn thành lưu kho chờ bán.
Ngoài ra còn có một số vật tư hàng hoá thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp nhưng vì những lý do khác nhau nên không nằm trong kho như: Hàng
gửi bán, hàng đang đi đường …
Khái niệm về HTK cho thấy, HTK trong doanh nghiệp đa dạng và phong
phú, có vai trò và công dụng không giống nhau, chiếm tỷ trọng tương đối lớn
trong báo cáo tài chính. Nguyên vật liệu là yếu tố không thể thiếu được của quá
trình sản xuất kinh doanh, tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định, công cụ
dụng cụ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giữ nguyên hình thái
hiện vật ban đầu trong quá trình sử dụng. Thành phẩm là sản phẩm đã được chế
tạo xong ở giai đoạn chế biến cuối cùng của quy trình công nghệ trong doanh
nghiệp, được kiểm nghiệm đủ tiêu chuẩn kỹ thuật quy định. Sản phẩm hoàn
thành có thể được bán ngay trong kỳ kinh doanh hoặc lưu kho chờ bán. Như vậy
HTK liên quan từ khi phát sinh mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ đưa vào
sản xuất, tạo ra sản phẩm hoàn thành hoặc sản phẩm dở dang vào cuối kỳ. Vì
thế quá trình ấy liên quan đến khá nhiều khoản mục trên BCTC (cả bảng cân đối
kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh). Điều này liên quan tới cả lợi nhuận của
doanh nghiệp, thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp là những chỉ tiêu tài chính


đánh giá kết quả hoạt động của một doanh nghiệp.
Mặt khác, hình thái vật chất của HTK trong các loại hình doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh dịch vụ trong các lĩnh vực thương mại, khách sạn, cơ khí … là
khác nhau. Do đó việc phân loại, quản lý và theo dõi hàng tồn kho được thực
hiện khác nhau tùy thuộc đặc điểm từng doanh nghiệp.
HTK luôn là trung tâm của sự chú ý trong cả lĩnh vực kế toán và kiểm
toán. Các lý do khiến cho HTK trở nên đặc biệt quan trọng chính là đặc điểm
riêng biệt của nó:
Một là, HTK thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số tài sản lưu động
của một doanh nghiệp, rất dễ bị xảy ra các sai sót hoặc gian lận lớn.
Hai là, Trong kế toán, có rất nhiều phương pháp lựa chọn để định giá hàng
tồn kho và đối với mỗi loại HTK, doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương
pháp khác nhau. Mỗi phương pháp khác nhau sẽ đem lại những hiệu quả khác
nhau. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải bảo đảm tính thống nhất trong việc sử dụng
phương pháp định giá HTK giữa các kỳ.
Ba là, Việc xác định giá trị HTK ảnh hưởng trực tiếp tới giá vốn hàng bán
và do vậy có ảnh hưởng trọng yếu tới lợi nhuận thuần trong năm.
Bốn là, Công việc xác định chất lượng, tình trạng và giá trị HTK luôn là
công việc khó khăn và phức tạp hơn hầu hết các tài sản khác. Có rất nhiều
khoản mục HTK rất khó phân loại và định giá chẳng hạn như các linh kiện điện
tử phức tạp, các công trình xây dựng dở dang hay các tác phẩm nghệ thuật, hoặc
kim khí, đá quý…
Năm là, HTK được bảo quản, cất trữ ở nhiều nơi khác nhau, lại do nhiều
người quản lý. Mặt khác do tính đa dạng của HTK nên điều kiện bảo quản cũng
rất khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu bảo quản của từng loại. Vì thế công việc
kiểm soát vật chất, kiểm kê, quản lý và sử dụng HTK sẽ gặp nhiều khó khăn, đôi
khi có sự nhầm lẫn, sai sót và dễ bị gian lận.
Cuối cùng là các khoản mục HTK thường đa dạng và có thể chịu ảnh
hưởng lớn bởi hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình thông qua các biểu hiện
như bị hư hỏng trong thời gian nhất định, dễ bị lỗi thời… do đó kiểm toán viên

khi kiểm toán phải có sự hiểu biết về đặc điểm từng loại HTK, xu hướng biến
động của nó trên bình diện ngành để có thể xác định chính xác hao mòn hữu
hình hoặc hao mòn vô hình.
Bên cạnh những lý do trên thì tần suất của các nghiệp vụ về HTK cũng có
ảnh hưởng nhất định. Thông thường các nghiệp vụ về HTK xảy ra với tần suất
lớn do đó dễ gây ra việc phản ánh thiếu các nghiệp vụ, phản ánh trùng lặp
nghiệp vụ cũng như là điều kiện tốt cho những sai phạm mang tính chất chủ
quan xảy ra: Biển thủ hàng hoá, làm thất thoát tài sản của doanh nghiệp...
1.1.1.2. Chức năng của hàng tồn kho
Hàng tồn kho là sự kết hợp của hai hệ thống riêng biệt nhưng có liên quan
chặt chẽ với nhau, một đề cập đến quá trình vận động vật chất của hàng hoá, và
một đến các chi phí liên quan. Khi HTK vận động trong công ty cần phải tồn tại
các quá trình kiểm soát đầy đủ cả sự vận động vật chất của chúng lẫn các chi
phí liên quan. Các quá trình kiểm soát được đề cập ở đây được cụ thể hóa thông
qua chức năng chủ yếu của HTK đó là: Chức năng mua hàng, chức năng nhận
hàng, chức năng lưu kho, chức năng xuất kho, chức năng sản xuất và chức năng
vận chuyển hàng đi tiêu thụ; bên cạnh đó còn có chức năng ghi sổ đối với chi
phí sản xuất và ghi sổ về hàng lưu kho.
Thứ nhất: Chức năng mua hàng
Để có một hệ thống kiểm soát nội bộ thích đáng đối với các nghiệp vụ mua
hàng đòi hỏi các đơn vị phải tổ chức ra một phòng riêng biệt chuyên thực hiện
nghiệp vụ mua hàng nhưng không được giao quyền quyết định mua hàng cho
phòng đó. Các chức năng mua hàng, nhận hàng và ghi sổ HTK phải được tách
biệt trách nhiệm cho các phòng ban khác nhau.
Một nghiệp vụ mua bắt đầu bằng việc bộ phận kho hoặc bộ phận có nhu cầu
hàng hoá hoặc dịch vụ viết phiếu yêu cầu mua. Phiếu yêu cầu mua này phải được
kiểm tra và thông qua bởi cấp có thẩm quyền và phải đảm bảo được tính hợp lý,
có thật của nhu cầu mua. Sau khi phiếu yêu cầu mua được chuyển tới phòng thu
mua, phòng này lập ra đơn đặt mua hàng trong đó nêu rõ số lượng, chủng loại,
quy cách sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ yêu cầu. Để thực hiện kiểm soát đối

với nghiệp vụ mua hàng, các doanh nghiệp không chỉ cần tổ chức một phòng
riêng biệt chuyên thực hiện nghiệp vụ mà còn cần thực hiện:
Thứ nhất, Việc phê chuẩn phiếu yêu cầu mua hàng cần căn cứ vào dự toán
đã xây dựng, kế hoạch sản xuất, kế hoạch dữ trữ đối với loại HTK đó. Việc
phân tách giữa nhiệm vụ viết phiếu yêu cầu và phê chuẩn đóng vai trò quan
trọng, đây là phần chính của chức năng này vì nó đảm bảo hàng hóa được mua
theo các mục đích đã phê chuẩn của công ty và tránh việc mua quá nhiều hoặc
mua các mặt hàng không cần thiết.
Thứ hai, Đơn đặt mua hàng cần đánh số thứ tự trước;
Thứ ba, Đơn đặt hàng sẽ được chuyển đến các bộ phận có liên quan: Bộ
phận kế toán để hạch toán, bộ phận nhận hàng để làm căn cứ đối chiếu.
Thứ hai: Chức năng nhận hàng
Nhận hàng là một hoạt động thể hiện tính liên tục trong chu kỳ sản xuất
kinh doanh. Hoạt động này được xác định bắt đầu từ khi nhà cung cấp tiến hành
phân phối những sản phẩm, vật tư hàng hóa cho doanh nghiệp. Chức năng nhận
hàng do phòng nhận hàng đảm nhiệm với nhiệm vụ xác định số lượng hàng
nhận; kiểm định chất lượng hàng xem có phù hợp với yêu cầu trong đơn đặt
hàng không và loại bỏ các hàng không đúng quy cách. Kết thúc công việc,
phòng nhận hàng lập biên bản nhận hàng và chuyển hàng nhận tới bộ phận kho.
Bộ phận này được tổ chức độc lập với bộ phận mua hàng, lưu hàng và bộ phận
vận chuyển.
Thứ ba: Chức năng lưu kho
Hoạt động lưu kho có liên quan tới một loạt các hoạt động khác như nhận
hàng, giám sát, sản xuất, bán hàng … Khi bộ phận nhận hàng chuyển hàng tới
bộ phận kho, hàng nhận lại phải qua sự kiểm tra của bộ phận kho. Hàng chỉ
được nhập kho khi thoả mãn yêu cầu về mặt số lượng và chất lượng. Mỗi khi
nhập kho, thủ kho phải lập phiếu nhập kho và sau đó thông báo cho phòng kế
toán về số lượng hàng đã thực nhập. Bộ phận lưu kho cần độc lập với các bộ
phận khác như thu mua, nhận hàng, thanh tra, thanh toán. Đồng thời, doanh
nghiệp cần tiến hành đối chiếu thường xuyên giữa ghi chép của thủ kho với kế

toán vật tư để đảm bảo sự khớp đúng, kịp thời phát hiện những chênh lệch nếu
có.
Thứ tư: Chức năng xuất kho vật tư, hàng hoá
Hàng hóa, vật tư trong kho chịu sự quản lý của bộ phận kho. Chúng chỉ
được xuất khỏi kho khi có phiếu yêu cầu sử dụng vật tư, hàng hóa đã được phê
duyệt bởi cấp có thẩm quyền. Khi xuất kho, thủ kho sẽ lập phiếu xuất kho.
Phiếu xuất kho và phiếu yêu cầu được lập thành ba liên: Đơn vị có yêu cầu sẽ
giữ một liên; một liên sẽ giao cho bộ phận kho làm căn cứ hạch toán kho và liên
còn lại chuyển cho phòng kế toán để làm căn cứ ghi sổ. Chứng từ xuất kho
ngoài phiếu xuất kho thông thường có thể sử dụng phiếu xuất vật tư theo hạn
mức.
Thứ năm: Chức năng sản xuất
Việc sản xuất cần phải được kiểm soát chặt chẽ bằng kế hoạch và lịch trình
sản xuất để có thể đảm bảo rằng công ty sẽ sản xuất những hàng hoá đáp ứng đủ
nhu cầu của khách hàng, tránh tình trạng ứ đọng hàng hóa hoặc khó tiêu thụ đối
với một số hàng hóa cụ thể, ngoài ra nó cũng như giúp công ty tạo ra sự chủ
động trong khâu nguyên vật liệu và nhân công.
Trong giai đoạn này, trách nhiệm đối với hàng hoá thuộc về những người
giám sát sản xuất như đốc công, quản lý phân xưởng. Kể từ khi nguyên vật liệu
được chuyển tới cho đến lúc tạo ra các sản phẩm hoàn thành nhập kho thì người
giám sát phải kiểm soát và nắm chắc tình hình, quá trình sản xuất. Sản phẩm
hoàn thành bao giờ cũng được kiểm định chất lượng trước khi nhập kho thành
phẩm hoặc chuyển đi tiêu thụ. Hoạt động kiểm soát này phổ biến nhằm phát
hiện những sản phẩm hỏng, lỗi và đồng thời giúp doanh nghiệp không rơi vào
tình trạng ghi giá trị hàng tồn kho cao hơn giá trị thực của nó.
Thứ sáu: Chức năng lưu kho thành phẩm
Sản phẩm hoàn thành từ bộ phận sản xuất sau khi được kiểm định về chất
lượng nếu không tiêu thụ ngay thì được nhập kho chờ bán. Việc kiểm soát đối
với thành phẩm lưu kho được xem như một phần của chu trình bán hàng – thu
tiền. Việc lưu kho cần xem xét phương tiện thiết bị có đảm bảo yêu cầu bảo

quản sản phẩm không, điều kiện an ninh, phòng hỏa hoạn. Cách thức bố trí
trong kho cũng phải hợp lý, dễ kiểm soát. Việc ghi chép ở kho do thủ kho thực
hiện và phải chịu trách nhiệm.
Thứ bẩy: Chức năng xuất thành phẩm đi tiêu thụ
Bất cứ việc xuất thành phẩm đi tiêu thụ cũng chỉ được thực hiện khi bộ
phận kho nhận được sự phê chuẩn hoặc căn cứ xuất kho. Thông thường khi đơn
đặt mua hàng của khách hàng đã được phòng kiểm soát tín dụng phê chuẩn thì
thủ kho tiến hành xuất kho và lập phiếu xuất kho. Chứng từ này được lưu ở thủ
kho, bộ phận tiêu thụ và phòng kế toán. Bộ phận vận chuyển sẽ lập phiếu vận
chuyển hàng, chứng từ này được lập thành ba liên, một giao cho phòng tiếp vận,
một được chuyển cho phong tiêu thụ kèm theo đơn đặt mua hàng của khách
hàng để làm căn cứ ghi hoá đơn cho khách hàng, liên còn lại được đính kèm bên
ngoài bao kiện của hàng hoá trong quá trình vận chuyển.Trong trường hợp hàng
hóa được vận chuyển thuê bởi một công ty tiếp vận thì phiếu vận chuyển sẽ
được lập thêm một liên thứ tư giao cho bên cung cấp dịch vụ vận chuyển để làm
căn cứ tính cước phí.
1.1.2. Tổ chức kế toán hàng tồn kho
1.1.2.1. Tổ chức công tác chứng từ
Về phân loại chứng từ
Các chứng từ kế toán về hàng tồn kho có rất nhiều loại bao gồm:
Chứng từ nhập mua hàng hoá: Phiếu yêu cầu mua hàng, hoá đơn giá trị gia
tăng (GTGT) của nhà cung cấp, phiếu kiểm nhận hàng, phiếu nhập kho, biên
bản kiểm nghiệm vật tư hàng hóa…
Chứng từ xuất kho cho sản xuất bao gồm: phiếu yêu cầu lĩnh vật tư, phiếu
xuất kho vật tư, thẻ kho, phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, kế hoạch sản
xuất …
Chứng từ xuất bán thành phẩm, hàng hoá: khi xuất bán hàng hóa, thành
phẩm, vật tư kế toán hạch toán dựa trên các chứng từ hợp đồng kinh tế, cam kết
mua hàng, phiếu xuất kho, hoá đơn GTGT, thẻ kho.
Về luân chuyển chứng từ

Thứ nhất: Luân chuyển phiếu nhập kho
Có thể khái quát quá trình luân chuyển phiếu nhập kho như sau:
Sơ đồ 01: Quy trình luân chuyển phiếu nhập kho
Thứ hai: Luân chuyển phiếu xuất kho
Sơ đồ 2: Quy trình luân chuyển phiếu xuất kho
Chú thích:
Trình tự thực hiện
Thực hiện công việc
1.1.2.2. Tổ chức hệ thống tài khoản và sổ kế toán
Phụ trách
phòng
cung ứng
Các bộ
phận
cung ứng
Ban
kiểm
nghiệm
Thủ
kho
Kế toán
hàng
tồn kho
Người
nhập
kho
Nghiệp
vụ nhập
kho
Bảo

quản và
lưu trữ
Đề nghị
nhập
kho
Biên bản
kiểm
nhận
Phiếu
nhập
kho
Ký phiếu
nhập kho
Nghiệp
vụ nhập
kho
Nghiệp
vụ nhập
kho
Các bộ
phận
cung ứng
Kế toán
trưởng,
giám đốc
Thủ
kho
Kế toán
hàng
tồn kho

Người đề
nghị xuất
kho
Bảo
quản và
lưu trữ
Ngiệp
vụ xuất
kho
Đề nghị
xuất
kho
Duyệt
xuất kho
Phiếu
xuất
kho
Xuất kho
và ghi
thẻ kho
Ghi sổ
kế toán
Tổ chức tài khoản (TK) kế toán là tổ chức vận dụng TK trong phương
pháp đối ứng để xây dựng hệ thống TK, nhằm hệ thống hoá các chứng từ kế
toán theo thời gian và đối tượng, từ đó cung cấp thông tin về từng loại tài sản,
nguồn vốn và quá trình kinh doanh của các đơn vị hạch toán.
Trong doanh nghiệp thương mại, HTK phần lớn là hàng hóa theo dõi trên
TK 156, hàng gửi bán (TK 157) và hàng mua đi đường (TK 151). Với doanh
nghiệp sản xuất, hàng tồn kho gồm: nguyên vật liệu (TK 152), công cụ dụng cụ
(TK 153), thành phẩm (TK 155), sản phẩm dở dang (TK 154), hàng gửi bán

(TK 157) và hàng mua đi đường (TK 151). Đối với đơn vị xây lắp, hàng tồn kho
chủ yếu là sản phẩm xây dựng dở dang theo dõi trên TK 154.
Tùy thuộc vào đặc điểm mỗi doanh nghiệp, kế toán sử dụng các tiểu khoản
chi tiết để theo dõi từng loại hàng tồn kho cụ thể. Việc phân loại hàng tồn kho
kế toán có thể sử dụng nhiều cách khác nhau thông qua hệ thống danh điểm và
đánh số danh điểm vật tư, hàng hóa.
Tổ chức sổ kế toán là hình thức biểu hiện của phương pháp đối ứng TK
trên sổ kế toán. Sổ kế toán là phương tiện vật chất để hệ thống hoá các số liệu
kế toán trên cơ sở các chứng từ gốc và các tài liệu kế toán khác. Sổ kế toán có
nhiều loại song có thể phân chia thành sổ tổng hợp và sổ chi tiết. Sổ tổng hợp
được mở cho tài khoản tổng hợp tương ứng, trên sổ tổng hợp các đối tượng
được ghi theo thước đo giá trị, là cơ sở để lập báo cáo tài chính. Sổ chi tiết dùng
để phản ánh chi tiết một đối tượng cụ thể sử dụng cả thước đo giá trị và hiện
vật. Số liệu trên sổ chi tiết sử dụng để lập và đối chiếu với số liệu trên sổ tổng
hợp. Sự đối chiếu giữa sổ chi tiết với sổ tổng hợp, sổ sách với kiểm kê thực tế
cần được tiến hành định kỳ, kịp thời phát hiện chênh lệch để xử lý.
Hệ thống sổ sách hàng tồn kho đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống
kiểm soát nội bộ của một doanh nghiệp đối với hàng tồn kho, đòi hỏi theo dõi
hàng tồn kho cả về mặt số lượng lẫn giá trị đối với tất cả các loại vật tư, hàng
hóa. Vì thế hệ thống sổ cung cấp thông tin chi tiết về lượng hàng tồn kho hiện
có và tình hình sử dụng nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sản phẩm sản xuất.
Theo Chế độ Kế toán Việt Nam có 4 hình thức ghi sổ kế toán, doanh
nghiệp có thể lựa chọn một trong bốn hình thức này nhưng cần nhất quán trong
việc mở sổ kế toán.
Một là, Hình thức Nhật ký chung: áp dụng đối với các doanh nghiệp quy
mô vừa và nhỏ, loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh giản đơn, trình độ kế
toán khá, được hỗ trợ bởi tin học.
Hai là, Hình thức Nhật ký – Sổ cái: thường áp dụng trong những doanh
nghiệp quy mô nhỏ, nghiệp vụ kinh tế phát sinh ít, tài khoản sử dụng ít, trình độ
quản lý cũng như kế toán là chưa cao.

Ba là, Hình thức Nhật ký chứng từ: áp dụng trong điều kiện kế toán thủ
công nhưng trình độ kế toán cao, thường dùng trong doanh nghiệp quy mô lớn,
số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều.
Bốn là, Hình thức Chứng từ ghi sổ: phù hợp với tất cả các loại hình doanh
nghiệp, sổ sách có kết cấu đơn giản, dễ ghi chép, phù hợp với cả kế toán thủ
công cũng như áp dụng máy vi tính.
1.1.2.3. Phương pháp tính giá
Các quy định trong tính giá hàng tồn kho như sau:
Đối với nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá nhập kho được tính
theo giá thực tệ. Trong đó:
Giá thực tế =
Giá ghi trên hoá đơn + chi phí thu mua - chiết khấu
thương mại - hàng mua trả lại - giảm giá hàng bán + thuế
nhập khẩu (nếu có)
Đối với nguyên vật liệu, dụng cụ, hàng hóa xuất kho: Mỗi doanh nghiệp
tuỳ thuộc vào đặc điểm và yêu cầu quản lý của mình có thể chọn một trong các
phương pháp sau để tính giá xuất kho cho vật tư hàng hoá: Phương pháp nhập
trước xuất trước (FIFO), phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO), phương
pháp bình quân gia quyền, phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập, phương
pháp thực tế đích danh. Mỗi phương pháp tính giá xuất kho trên đều có những
ưu, nhược điểm nhất định, để đạt hiệu quả thì việc lựa chọn phương pháp nào
cần căn cứ vào số lượng danh điểm, số lần nhập – xuất vật tư, trình độ nhân
viên kế toán, thủ kho, điều kiện lưu trữ hàng của doanh nghiệp.
1.1.2.4. Phương pháp hạch toán hàng tồn kho
Hàng tồn kho trong doanh ngiệp thường có nhiều chủng loại khác nhau,
nếu thiếu một trong các loại đó có thể gây hậu quả xấu đối với tình hình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì thế việc hạch toán phải đảm bảo theo dõi
biến động của từng loại cụ thể
Về công tác tổ chức hạch toán hàng tồn kho bao gồm hạch toán chi tiết và
hạch toán tổng hợp:

Thứ nhất: Hạch toán chi tiết
Công việc này đòi hỏi hàng tồn kho phải được phản ánh cả về mặt giá trị
cũng như số lượng và chi tiết cho từng loại vật tư cũng như là từng kho. Có ba
phương pháp hạch toán chi tiết hàng tồn kho là phương pháp thẻ song song,
phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển và phương pháp sổ số dư.
Thứ hai: Hạch toán tổng hợp
Có hai phương pháp hạch toán tổng hợp hàng tồn kho là phương pháp kê
khai thường và kiểm kê định kỳ.
Phương pháp kê khai thường xuyên: Là phương pháp theo dõi và phản ánh
một cách thường xuyên, liên tục có hệ thống tình hình biến động hàng tồn kho
trên các tài khoản phản ánh hàng tồn kho. Theo đó, giá trị hàng tồn kho có thể
xác định tại bất kỳ thời điểm nào. Phương pháp này thích hợp cho doanh nghiệp
kinh doanh mặt hàng có giá trị lớn.
Phương pháp kiểm kê định kỳ: Là phương pháp không theo dõi tình hình
biến động của vật tư hàng hóa một cách thường xuyên, liên tục trên các tài
khoản phản ánh từng loại hàng tồn kho mà chỉ phản ánh giá trị hàng tồn kho đầu
kỳ và cuối kỳ trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng tồn kho thực tế và từ
đó tính ra giá trị vật tư hàng hóa đã xuất trong kỳ.
Với sự phát triển ngày càng mạnh của công nghệ tin học thì việc áp dụng
phương pháp kê khai thường xuyên trong hạch toán hàng tồn kho càng trở nên
dễ dàng. Hiện tại, phần lớn các doanh nghiệp đều áp dụng phương pháp này
trong hạch toán hàng tồn kho nhờ ưu điểm của nó.
1.1.3. Ý nghĩa của kiểm toán hàng tồn kho trong kiểm toán báo cáo tài chính
Hàng tồn kho luôn được đánh giá là trọng yếu trên báo cáo tài chính của
doanh nghiệp, số lượng nghiệp vụ phát sinh liên quan tương đối nhiều nên việc
theo dõi và kiểm soát hàng tồn kho rất dễ xảy ra các sai sót hoặc gian lận lớn.
Cách thức phân loại hàng tồn kho đóng vai trò quan trọng trong quản lý, theo
dõi hàng tồn kho, đảm bảo cho việc thiết kế hệ thống tài khoản, trình bầy rõ
ràng hợp lý trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Hơn nữa, kế toán lại có rất
nhiều phương pháp có thể áp dụng để định giá hàng tồn kho và đối với mỗi loại

hàng tồn kho, doanh nghiệp lại có thể lựa chọn các phương pháp khác nhau, kết
quả của mỗi phương pháp đem lại là không giống nhau. Tuy nhiên một doanh
nghiệp phải đảm bảo tính nhất quán trong sử dụng phương pháp định giá hàng
tồn kho giữa các kỳ kế toán. Việc tính giá cũng gặp khó khăn và đầy phức tạp
đối với các loại hàng tồn kho đặc biệt như là các sản phẩm công nghệ linh kiện
điện tử phức tạp, các công trình xây dựng dở dang hay các tác phẩm nghệ thuật,
kim khí, đá quý … Việc định giá các loại hàng tồn kho trên có thể cần có sự hỗ
trợ của các chuyên gia trong các lĩnh vực đó, đảm bảo sự chính xác hơn trong
định giá. Việc xác định giá trị hàng tồn kho gây ảnh hưởng trực tiếp giá vốn
hàng bán, ảnh hưởng tới lợi nhuận thuần trong năm tài chính, đó là những chỉ
tiêu cơ bản, là cơ sở để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Mặt khác
hàng tồn kho lại được bảo quản ở nhiều nơi khác nhau, do nhiều người quản lý,
đa dạng phong phú về chủng loại nên điều kiện bảo quản rất khác nhau tùy
thuộc vào yêu cầu bảo quản của từng loại vật tư, hàng hóa. Từ những lý do trên,
việc kiểm toán khoản mục này có ý nghĩa rất lớn đối với công tác kiểm toán báo
cáo tài chính nói chung.
Thứ nhất: Đối với đơn vị được kiểm toán, kiểm toán hàng tồn kho sẽ giúp

×