Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Hình tượng người anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi ramayana và mahabharata

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
________________

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP KHOA

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG
LÍ TƯỞNG TRONG HAI BỘ SỬ THI
RAMAYANA VÀ MAHABHARATA

Chủ nhiệm đề tài
ĐẶNG THỊ MỸ LINH

AN GIANG, 12 – 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
________________

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP KHOA

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG
LÍ TƯỞNG TRONG HAI BỘ SỬ THI
RAMAYANA VÀ MAHABHARATA
Chủ nhiệm đề tài
ĐẶNG THỊ MỸ LINH
Giảng viên hướng dẫn
Th.S NGUYÊN THANH PHONG

AN GIANG, 12 – 2015




CHẤP NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG

Đề tài nghiên cứu khoa học “HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG LÍ
TƯỞNG TRONG HAI BỘ SỬ THI RAMAYANA VÀ MAHABHARATA”, do sinh
viên Đặng Thị Mỹ Linh thực hiện dưới sự hướng dẫn của Th.S Nguyễn Thanh
Phong. Tác giả đã báo cáo kết quả nghiên cứu và được Hội đồng Khoa học Khoa Sư
phạm thông qua ngày 11 – 12 – 2015.

Thư ký

NGUYỄN BÁCH THẮNG

Phản biện 1

Phản biện 2

Th.S HUỲNH THỊ DIỄM

Th.S NGUYỄN THỊ TUYẾT

Cán bộ hướng dẫn

Th.S NGUYỄN THANH PHONG

Chủ tịch Hội đồng

TRẦN THỂ



LỜI CẢM TẠ

Trong cuộc sống để đạt được mục đích ai ai cũng cần phải rèn luyện và nổ lực hết mình.
Tuy nhiên để đạt được thành cơng thì nổ lực của bản thân không là chưa đủ, mà cần được
sự giúp đỡ của q thầy cơ, gia đình, bạn bè… chính những kinh nghiệm quý báu mà họ
truyền đạt đã giúp tơi trưởng thành một cách nhanh chóng, giúp đỡ tơi hồn thành những
u cầu của đề tài nghiên cứu khoa học này.
Lần đầu tiên tham gia nghiên cứu khoa học, những sự giúp đỡ q giá đó đã giúp tơi vượt
qua khơng ít sự khó khăn trong suốt q trình nghiên cứu. Thơng qua đề tài nghiên cứu
này tôi xin gửi lời cảm tạ - tri ân sâu sắc nhất đến tất cả các thầy cô bộ môn đã nhiệt tình
chỉ dẫn tơi trong thời gian thực hiện đề tài.
Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Nguyễn Thanh Phong – Người
luôn theo sát, giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn tôi về nhiều mặt trong suốt thời gian thực hiện
đề tài. Qua đây cũng xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè trong và ngồi lớp, những người đã
động viên ủng hộ tơi hồn thành đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đại học An Giang, ngày 28 tháng 11 năm 2015
Người thực hiện

Đặng Thị Mỹ Linh


LỜI CAM KẾT

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các tư liệu trong
cơng trình nghiên cứu này có xứ xuất rõ ràng. Những kết luận mới về khoa
học của cơng trình nghiên cứu chưa được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào
khác.
Đại học An Giang, ngày 28 tháng 11 năm 2015

Người thực hiện

Đặng Thị Mỹ Linh


MỤC LỤC
Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài…………………………….…………………………..................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………...……………………………………….2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………..….…..4
4. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….……....…...4
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….…………….5
6. Đóng góp của đề tài………………………………………….…………..….……..6
7. Cấu trúc đề tài…………………………………………..…………….……………6
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
VÀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI
1.1 Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học………………………………..…7
1.1.1 Khái niệm chung………………………………………………………....……7
1.1.2 Chức năng nhân vật văn học………………………………………….……….8
1.1.3 Phân loại nhân vật văn học……….………………………..…………….……8
1.1.3.1 Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật…………….…….8
1.1.3.2 Xét từ góc độ kết cấu……………………………………………….……….9
1.1.3.3 Xét từ góc độ thể loại……………………………………………..………..10
1.1.3.4 Xét tự góc độ chất lượng miêu tả……………………………….………….11
1.2 Hình tượng nhân vật trong sử thi…………………………....…..…….………..11
1.2.1 Vẻ đẹp ngoại hình…………………………….……………….……...………11
1.2.2 Vẻ đẹp phẩm chất – sức mạnh, tài năng, trí tuệ, đức hạnh………………..…13



CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG LÍ TƯỞNG TRONG HAI
BỘ SỬ THI RAMAYANA VÀ MAHABHARATA
2.1 Người anh hùng xuất thân cao q…………………………….…………...……15
2.1.1 Về ngoại hình……………………………………………….……………...….18
2.1.2 Về ngơn ngữ…………………………………………………….……………..20
2.1.3 Phẩm chất, thái độ quan tâm đối với xã hội………………………..…….……34
2.2 Người anh hùng uy dũng tài ba, phò thiện trừng ác…………………….………38
2.3 Người anh hùng chung thủy với người yêu………………….………….…...….46
2.4 Người anh hùng đại diện cho lí tưởng tơn giáo……………………….…...……50
2.4.1 Tư tưởng đạo Bà la môn………………….……………………………….…..50
2.4.2 Người anh hùng đại diện cho lí tưởng tơn giáo………………….……………51
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH
TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG LÍ TƯỞNG
3.1 Thủ pháp so sánh cường điệu………………….………………………………..55
3.2 Thủ pháp điển hình hóa cá tính nhân vật………………..……………….……..56
3.3 Thủ pháp xây dựng xung đột và giải quyết xung đột………………………...…58
3.4 Thủ pháp miêu tả và dẫn chuyện lý thú…………………………………...…….62
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận………………………………..……..………………………..………….64
2. Khuyến nghị………………………………..…………………………..…………64
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..…………..66


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ rất lâu đời, Việt Nam và Ấn Độ đã có mối quan hệ giao lưu mật thiết
với nhau trên nhiều lĩnh vực. Mối quan hệ đó đã góp phần khơng nhỏ vào q
trình hình thành và phát triển văn hóa và văn học nghệ thuật ở Việt Nam. Chủ

tịch Hồ Chí Minh từng nói “Văn hóa, triết học và nghệ thuật của nước Ấn Độ
đã phát triển rực rỡ và truyền thống của đất nước Ấn Độ là lí tưởng hịa bình,
bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỉ, tư tưởng Phật giáo, nghệ thuật, khoa học
Ấn Độ đã lan khắp thế giới” 1 . Trước hết, phải kể đến sự có mặt của đạo
Bàlamơn và đạo Phật. Đạo Bàlamơn đến Mianma, Campuchia và Champa sớm
hơn đạo Phật, điển hình như sự xuất hiện của nhiều dấu tích về đền thần
Brahma, Inđra, ngẫu tượng Linga... Riêng ở Việt Nam, dấu ấn đó có thể tìm
thấy trong các truyện cổ dân gian, trong các kiến trúc chùa chiền Phật giáo và
những bia đá ghi chép kinh Vêđa trên các đền tháp cổ của người Chăm ở nước
ta.
Ở một mức độ nào đó, nền văn học Ấn Độ có sức ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nền văn học Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó thể hiện trong các tác phẩm văn
học dân gian như Chữ Đồng Tử, Tấm Cám, Đeo nhạc cho mèo, Thầy bói xem
voi, Thạch Sanh – Lý Thơng…; hoặc trong văn học Chăm vẫn còn giữ lại
trường ca Ramayana viết theo ngơn ngữ Chăm, truyện Dạ Thoa Vương trong
Lĩnh Nam chích quái cũng tiếp thu từ cốt truyện Ramayana….
Hơn thế nữa, ngày nay Việt Nam và Ấn Độ đã trở thành đôi bạn đồng
minh vững chắc và đáng tin cậy, mối quan hệ đó là một thuận lợi để cho cánh
cửa văn hóa, văn học nghệ thuật được mở rộng đem đến cho nhau những luồng
gió mới trong khung trời hịa bình, hữu nghị đồn kết giữa các dân tộc, ngăn
chặn thảm họa của chiến tranh. Tìm hiểu văn học Ấn Độ là góp phần tiến gần
hơn những giá trị văn hoá đặc sắc của nền văn học cổ Ấn Độ, đồng thời góp
nhặt những yếu tố có giá trị góp phần khu biệt văn học nước nhà với các nước
lân cận. Nhờ đó, việc nghiên cứu văn học Ấn Độ nói chung, hai bộ sử thi
Ramayana và Mahabharata nói riêng càng thêm ý nghĩa.
Bên cạnh đó, văn học Ấn Độ cịn được đưa vào giảng dạy ở chương trình
phổ thơng nước ta, trong đó có đoạn trích Rama buộc tội, đoạn trích Hồ Pampa
(đọc thêm) trích trong sử thi Ramayana, nên việc đào sâu nghiên cứu có thể
ứng dụng vào thực tế giảng dạy ở chương trình phổ thơng sau này.
Để góp phần tìm hiểu thêm về bộ phận văn học vốn ít người nghiên cứu

và khám phá trong bộ phận sinh viên hiên nay, cùng với niềm say mê và hứng
thú riêng của bản thân, chúng tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài nghiên cứu khoa
học “Hình tượng người anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi Ramayana và
Mahabharata”. Trong đề tài này chúng tôi sẽ ứng dụng những thành tựu lí luận
về hình tượng nhân vật để tìm hiểu, giải mã quan niệm thế nào là người anh
hùng lí tưởng của nhân dân Ấn Độ trong hai bộ sử thi, từ đó khám phá nội
dung tư tưởng của hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata nói riêng và sử thi
anh hùng nói chung.

1

Lịch sử Việt Nam, t.1, NXB Đại học và THCN, H.1983.

Trang 1


II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Lịch sử văn học Ấn Độ kéo dài chừng 3500 năm, thời kì nào cũng có
nhiều thành tựu, đó cũng chính là những mảng đề tài mà các nhà nghiên cứu
muốn hướng đến. Trong kho tàng văn học dân gian, nổi bật nhất là hai bộ sử
thi Ramayana và Mahabharata. Hai bộ sử thi này đối với người dân Ấn Độ là
kho tàng vô giá và đồ sộ nhất mà họ có được, vì vậy đã có khơng ít các cơng
trình nghiên cứu, các bài viết, các ấn phẩm tư liệu sách báo về hai bộ sử thi
này.
Xung quanh đề tài “Hình tượng người anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử
thi Ramayana và Mahabharata”, cũng có những cơng trình nghiên cứu với
nhiều góc độ khác nhau, có thể đơn cử một số bài viết, tạp chí như: Sự tương
hợp giữa nhân vật và thời gian nghệ thuật trong sử thi Ramayana Ấn Độ của
tác giả Lê Thị Bịch Thủy 2 trong bài viết này tác giả làm nổi bật lên mối quan
hệ giữa thời gian nghệ thuật và quá trình vận động của tính cách cũng như sự

trưởng thành về đạo đức, phẩm chất, tinh thần của đạo lí Đácma của các nhân
vật chính trong tác phẩm Ramayana. Ở bài viết này là nguồn tư liệu về nhân
vật cũng như cho chúng tôi thấy rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật qua từng
góc độ thời gian khác nhau để chúng tơi có cái nhìn bao quát hơn về hình
tượng người anh hùng trong sử thi Ramayana tuy nhiên bài viết chỉ đi sâu
khám phá về thời gian nghệ thuật chưa đi sâu vào những hình mẫu lí tưởng
trong tác phẩm, ngồi ra tác giả Lê Thị Bích Thủy cịn đi nghiên cứu về khơng
gian trong sử thi Ramayana đó là Khơng gian hành động của nhân vật anh
hùng trong sử thi Ramayana Ấn Độ 3, ở bài viết này tác đã cũng đi làm rõ
không gian hành động của các vị anh hùng trong sử thi đó là khơng gian ba
chiều: chiều rộng (không gian của thế giới trần gian:núi rừng, kinh thành, chiến
trường…), chiều cao (không gian định mệnh) và chiều sâu chính là khơng gian
của tình u. Tương ứng với những khơng gian đó thì người anh hùng hiện lên
với vẻ đẹp rạng ngời và đầy màu sắc, vừa hùng mạnh can trường vừa giàu yêu
thương vừa thần thánh vừa thoát tục tạo cho người đọc những cảm giác mới lạ
khi đi khám phá vả đẹp của người anh hùng trong sử thi nói chung và người
anh hùng trong Ramayana nói riêng, với những vấn đề chuyên sâu ứng với đối
tượng của tác giả hướng đến giúp cho chúng tôi thấy rõ hơn màu sắc cũng như
vẻ đẹp của người anh hùng trong Ramayana là như thế nào, song bài viết trên
vẫn chưa làm rõ chất lí tưởng được thể hiện qua những phương diện nào và
điều đó sẽ được chúng tôi đi sâu trong phần nội dung của đề tài này.
Về đạo lí tơn giáo cũng như một số quan niệm của nhân dân Ấn Độ về
người anh hùng trong sử thi cũng được tác giả Lê Thị Bích Thủy quan tâm
nghiên cứu một cách sâu sắc trong hai cơng trình: Dharma- tinh thần Ấn Độ
trong sử thi Ramayana4, Về quan niệm nhân vật anh hùng trong sử thi Ấn Độ
từ góc nhìn so sánh5…trong hai cơng trình này tác giả đã làm bật lên tinh thần
cũng như đạo lý tôn giáo mà nhân dân Ấn Độ luôn hướng tới được đặt trong
2

Lê Thị Bích Thủy(2010), Sự tương hợp giữa nhân vật và thời gian nghệ thuật trong sử thi

Ramayana Ấn Độ, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 3/3, tháng 7/2010.
3
Lê Thị Bích Thủy(2010), Khơng gian hành động của nhân vật anh hùng trong sử thi
Ramayana Ấn Độ, Tạp chí nghiên cứu Đơng Nam Á, Số 7, tháng 7/2010.
4
Lê Thị Bích Thủy(2012), Dharma- tinh thần Ấn Độ trong sử thi Ramayana, Tạp chí văn hóa
nghệ thuật, số 335, tháng 3/2012.
5
Lê Thị Bích Thủy(2012), Về quan niệm nhân vật anh hùng trong sử thi Ấn Độ từ góc nhìn so
sánh Tạp chí văn học nước ngồi, số 7, tháng 7/2012.

Trang 2


các nhân vật anh hùng như thế nào, ngoài ra tìm hiểu hai cơng trình nghiên cứu
này chúng ta thấy rằng với người Ấn Độ đạo đức tôn giáo, tinh thần cộng đồng
dân tộc lúc nào cũng được các anh hùng trong sử thi đặt tên hàng đầu. Áp dụng
những tín ngưỡng tơn giáo của người dân Ấn Độ và hệ qui chiếu người anh
hùng tôn giáo về triển khai kiểu mẫu lí tưởng của người anh hùng, tác giả Phan
Thu Hiền đã nghiên cứu và viết về “Những người anh hùng nữa trần tục nữa
thần linh và sự triển khai lý tưởng về một kiểu mẫu anh hùng trong sử thi
Mahabharata”6. Trong bài nghiên cứu này tác giả đã làm rõ màu sắc tơn giáo
trong người anh hùng lí tưởng, đồng thời tác giả cũng đã chỉ ra những mối
quan hệ của người anh hùng trong tín ngưỡng tơn giáo và trong cuộc sống trần
tục đời thường từ đó thấy rõ họ có những hành động cũng như ứng xử như thế
nào để không làm mất đi bản chất lí tưởng ở họ trong tập sử thi Mahabharata .
Nhưng nhìn chung, hướng nghiên cứu của đề tài này chỉ mang tính chun sâu
về tơn giáo và chỉ riêng về tập sử thi Mahabharata.
Nói về tơn giáo thì tác giả Nguyễn Thị Mai Liên cũng có bài viết “Màu
sắc tơn giáo và phi tơn giáo trong hình tượng nhân vật sử thi Ramayana”7. Ở

đề tài này thì tác giả đã cho chúng ta thấy được sự chuyển giao cũng như biểu
hiện của các nhân vật trong sử thi Ramayana trong màu sắc của tơn giáo đạo
Bàlamơn.
Nhìn chung, các cơng trình này đa số đi vào nghiên cứu các phương diện
về thi pháp nhân vật, bên cạnh đó cũng đề cập đến những vấn đề về tôn giáo và
quan niệm về người anh hùng của nhân dân Ấn Độ. Ở mức độ nông sâu khác
nhau, các tác giả cũng đã đi vào khai thác và khám phá về người anh hùng
trong sử thi Ấn Độ với những phương pháp nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên,
đó chỉ là hình tượng người anh hùng ứng với đối tượng mà các nhà nghiên cứu
quan tâm tìm hiểu.
Bên cạnh đó nền văn học Ấn Độ là nền văn học mà không nhiều sinh
viên hay học sinh có hứng thú đi sâu vào khai thác, chúng ta thường nghĩ rằng
nó trừu tượng, dài dịng, khó nhớ, khó học; hoặc có tìm hiểu chăng cũng chỉ là
những tác phẩm, đoạn trích bắt buộc phải học trong nhà trường. Vì vậy, đề tài
“Hình tƣợng ngƣời anh hùng lí tƣởng trong hai bộ sử thi Ramayana và
Mahabharata” là một đề tài trong phạm vi bản thân có thể tiếp cận tư liệu thì
người viết thấy rằng đây là một đề tài đáng được đi sâu nghiên cứu và có tính
ứng dụng cao trong việc học tập và giảng dạy của giáo viên, sinh viên và học
sinh trong trường đại học và phổ thông sau này. Mặc dù vậy, chúng tơi cũng
thừa nhận đã tiếp thu khơng ít những thành tựu nghiên cứu từ các cơng trình đi
trước để thực hiện đề tài này. Nhưng dẫu sao đi nữa, công trình này cũng chỉ là
bước khởi đầu tìm hiểu vấn đề với những hiểu biết và năng lực có hạn của
người nghiên cứu. Do đó, thời gian và kinh nghiệm hứa hẹn sẽ cho ra đời
những thành tựu nghiên cứu hoàn chỉnh hơn.

6

Phan Thu Hiền(1997), Những người anh hùng nữa trần tục nữa thần linh và sự triển khai lý
tưởng về một kiểu mẫu anh hùng trong sử thi Mahabharata , Tập san Khoa học xã hội nhân
văn, 1/1997.

7
Nguyễn Thị Mai Liên(1998), Màu sắc tôn giáo và phi tôn giáo trong hình tượng nhân vật sử
thi Ramayana, Nghiên cứu Đơng Nam Á (2), tr.97-100 – ISSN.0868-2739.

Trang 3


III. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài này người viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu hình tượng người anh
hùng lí tưởng của nhân dân Ấn Độ trong hai bộ sử thi Ramayana mà
Mahabharata, từ đó phát hiện các phương diện xây dựng hình tượng lí tưởng ,
quan niệm về người anh hùng trong văn học cổ Ấn Độ và cách thể hiện, bộc lộ
nội dung tư tưởng của tác phẩm. Do đó, có thể gói gọn lại đối tượng nghiên
cứu của đề tài này là hình tượng người anh hùng lí tưởng trong văn học cổ Ấn
Độ, phẩm chất anh hùng ấy thể hiện sinh động ra nhiều nhân vật khác nhau.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Văn học Ấn Độ là nền văn học lớn mang nhiều cái đẹp, cái hay, chuyển
tải nhiều triết lí nhân sinh và bài học đối nhân xử thế cho người đời sau qua
những hình tượng lí tưởng, những con người mang tầm vóc vũ trụ... Tuy nhiên,
hai bộ sử thi này đều được viết bằng tiếng Sanskrit với hình thức câu thơ đơi
(sloka). Điều đáng tiếc lớn nhất của chúng tôi là không thể tiếp cận với nguyên
tác mà chỉ thông qua bản dịch. Tác phẩm được một nhóm tác giả người Anh
dịch lại và thật may mắn, một nhóm nhà văn Việt Nam như Cao Huy Đỉnh,
Phạm Thủy Ba, Nguyễn Quế Dương, Cao Xuân Hiệp, Huỳnh Ngọc Trảng…
dịch lại bằng tiếng Việt, đó là điều kiện thuận lợi để chúng tơi có thể tiếp cận
tác phẩm một cách thuận lợi nhất.
Ở mức độ cho phép, người viết chỉ tập trung vào hình tượng người anh
hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata và tập trung vào
văn bản hai bộ sử thi do nhóm tác giả nói trên dịch để tiến hành khám phá và

nghiên cứu về đối tượng của đề tài.
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ việc tìm hiểu những vấn đề xoay quanh hình tượng người anh hùng lí
tưởng trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata như : hình tượng nhân vật
trong tác phẩm văn học, hình tượng nhân vật trong sử thi, các dạng hình tượng
người anh hùng lí tưởng, nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật…, chúng
tơi đi sâu nghiên cứu hình tượng người anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi
Ramayana và Mahabharata nhằm những mục đích sau:
Thứ nhất, có cái nhìn tương đối bao qt về hình tượng người anh hùng lí
tưởng trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata.
Thứ hai, bước đầu tìm hiểu các biểu hiện của hình tượng người anh hùng
lí tưởng trong nền văn học Ấn Độ nói chung và hai bộ sử thi Ramayana và
Mahabharata nói riêng.
Thứ ba, việc nghiên cứu các biểu hiện từ đó chỉ ra đặc trưng trong việc
xây dựng hình tượng ở văn học cổ đại Ấn Độ, đồng thời tìm hiểu thêm về
những nét tương đồng và dị biệt giữa người anh hùng lí tưởng trong sử thi Ấn
Độ và sử thi Việt Nam.
Thứ tư, từ việc nghiên cứu về nội dung của hình tượng người anh hùng lí
tưởng trong hai bộ sử thi chúng tơi cũng đi tìm hiểu về một số thủ pháp nghệ
thuật thể hiện hình tượng người anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi đó.
Với những mục đích cụ thể đó, chúng tơi mong muốn đạt đến một mục
đích chung là góp phần phổ biến văn học Ấn Độ nói chung, hình tượng người
Trang 4


anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata nói riêng vốn
rất khó tiếp nhận đối với giáo viên hay học sinh phổ thơng, chí ít cũng có thể
khám phá hai bộ sử thi này theo hướng hình tượng nhân vật lí tưởng. Từ đó,
góp phần làm tăng tình u văn chương, khơi gợi trí tị mị khám phá những cái
mới cái lạ trong lòng các thế hệ sau, mà một bộ phận trong số đó vốn đang dần

hướng ra những nét đẹp văn hóa văn học.
V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dựa vào những cơ sở được vạch ra phía trên, chúng tơi đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau để tiến hành thực hiện đề tài:
5.1 Phƣơng pháp tập hợp, khảo sát tài liệu
Hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata đều được viết bằng tiếng
Sanskrit mang tầm cỡ to lớn và sâu sắc nhất thế giới, chúng trở thành tài sản
tinh thần vô giá của nhân dân Ấn Độ ( Ramayana gồm 24.000 câu thơ đơi cịn
Mahabharata gồm 110.000 câu thơ đơi). Do giá trị và sự đồ sộ của nó mà có
khơng ít các cơng trình nghiên cứu, các bài viết, các ấn phẩm tư liệu sách báo
về hai bộ sử thi này.
Vì vậy, để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng phương pháp tập
hợp khảo sát tư liệu tiến hành trên đối tượng nghiên cứu. Ghi chép, đúc kết các
nhận định khoa học từ các nguồn tư liệu để từ đó có những đánh giá, nhận định
khách quan, biện chứng về đối tượng.
5.2 Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
Nhằm làm nổi bật những vấn đề xoay quanh hình tượng người anh hùng
lí tưởng, chúng tơi đã tiến hành đi sâu phân tích các tư liệu vừa được khảo sát,
tìm ra những đặc điểm chung và riêng của chúng, chọn lọc dẫn chứng sau đó
tiến hành đúc kết vấn đề.
5.3 Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Trong q trình phân tích, bên cạnh việc tìm hiểu nội dung cụ thể về hình
tượng người anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata.
Chúng tôi cũng quan tâm so sánh và đối chiếu những nét tương đồng và dị biệt
giữa các nhân vật trong hai bộ sử thi, đồng thời so sánh với hình tượng người
anh hùng lí tưởng trong sử thi Việt Nam. Việc so sánh đó khơng phải để nâng
cao hay hạ thấp mà chỉ nhằm phát hiện cái chung cái riêng của chúng. Từ đó
chúng tơi có cơ sở vững chắc hơn để khẳng định vấn đề.
5.4 Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
Trong quá trình đi nghiên cứu về hình tượng người anh hùng lí tưởng

trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata, chúng tôi đã sử dụng phương
pháp nghiên cứu liên ngành bao gồm các lĩnh vực: văn học, triết học, folklore
học, văn hóa học, dân tộc học, tôn giáo học… để tập trung làm rõ đối tượng
trọng tâm của đề tài. Đối với phương pháp nghiên cứu văn học, chúng tôi kết
hợp kiến thức của chuyên ngành lí luận văn học, văn học sử, cũng như một số
phương diện của thi pháp học để khám phá và làm rõ vấn đề một cách chỉnh
chu nhất.

Trang 5


5.5 Phƣơng pháp hệ thống
Sau khi sử dụng các phương pháp trên để nghiên cứu vấn đề, chúng tôi sẽ
rút ra được nhiều nội dung xoay quanh hình tượng người anh hùng lí tưởng
trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata. Tùy theo từng cấp độ, chúng tôi
sẽ xâu chuỗi những đơn vị kiến thức ấy thành một hệ thống hồn chỉnh, sao
cho vừa đảm bảo tính chặt chẽ, khoa học của kết cấu, vừa đảm bảo tính chuẩn
xác và hợp logic của nội dung. Từ tiểu kết của từng phần, chúng tôi cũng chú
trọng xây dựng kết luận chung thật bao quát và đầy đủ cho toàn bài nghiên cứu.
VI. ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI
Cơng trình nghiên cứu thành công sẽ cung cấp những tài liệu, những nhận
định khoa học về hình tượng người anh hùng lí tưởng của nhân dân Ấn Độ qua
hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata, chỉ ra những giá trị tích cực của nó,
đóng góp những cứ liệu mang tính chun sâu về văn học Ấn Độ nói chung.
Ngồi ra, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích
cho việc giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh ở các trường phổ thông.
VII. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Đề tài gồm 3 phần và có bố cục các phần như sau:
A.PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: Hình tƣợng nhân vật trong tác phẩm văn học và hình tƣợng
nhân vật trong sử thi
1.1. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học
1.2. Hình tượng nhân vật trong sử thi
Chƣơng 2: Hình tƣợng ngƣời anh hùng lí tƣởng trong hai bộ sử thi
Ramayana và Mahabharata
2.1. Người anh hùng xuất thân cao quí
2.2. Người anh hùng uy dũng tài ba, phò thiện trừng ác
2.3. Người anh hùng chung thủy với người yêu
2.4. Người anh hùng đại diện cho lí tưởng tơn giáo
Chƣơng 3: Một số thủ pháp nghệ thuật xây dựng ngƣời anh hùng lí tƣởng
3.1. Thủ pháp so sánh cường điệu
3.2. Thủ pháp điển hình hóa cá tính nhân vật
3.3. Thủ pháp xây dựng xung đột và giải quyết xung đột
3.4. Thủ pháp miêu tả và dẫn truyện lý thú
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Trang 6


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
VÀ HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI
1.1 HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
1.1.1 Khái niệm chung
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược,
sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay
từng lúc, giữ vai trị quan trọng nhiều, ít hoặc khơng ảnh hưởng nhiều lắm đối

với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân,
Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người khơng có tên (như
thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào
đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại,
như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu
một cách rộng rãi trên hai phương diện: (1) Số lượng: hầu hết các tác phẩm từ
văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con
người; (2) Chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật... nhưng lại
gán cho nó những phẩm chất của con người.
Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn
dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người
ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và
hòa bình của L.Tơnxtơi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô,
chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công
Hoan... Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: "Trong truyện ngắn Chiếc quan
tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc
quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm,
một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài
cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung nhân vật vẫn là hình tượng của
con người trong tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những
dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những
đặc điểm riêng... Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và
thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới
thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường như
cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Trang 7


Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Hay việc giới thiệu Hoạn Thư:
"Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già"
cũng gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát
triển về sau của nhân vật.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ
thuật khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngơn
từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng,
liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ
của nó.
1.1.2 Chức năng của nhân vật văn học
Nhân vật văn học có chức năng khái qt những tính cách, hiện thực
cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân
vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề
cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh
việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện
thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi
nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến
các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người
phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và
ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực
hiện khát vọng tự do, cơng lí... Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí

Phèo thể hiện q trình lưu manh hóa của một bộ phận nơng dân trong xã hội
thực dân nữa phong kiến. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn
đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp
của con người...
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống
và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong q trình mơ tả
nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần
thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy,
khơng nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân
tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ
thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh
hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hịn Ðất...) nhưng cũng cần
ln ln nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn
liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện
thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ
thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là
những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả".
1.1.3 Phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật
được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc
đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất
Trang 8


lượng miêu tả..., có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại
nhân vật khác nhau. Ðể nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có
thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau.
1.1.3.1 Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật
Có thể nói đến các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật
phản diện (nhân vật tiêu cực).

Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực lượng chính nghĩa trong
xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng với
những phẩm chất hồn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp,
một dân tộc, một thời đại, mang những mầm mống lí tưởng trong cuộc sống...
có thể được coi là nhân vật lí tưởng. Ở đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí
tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại nhân vật sau là loại nhân vật được tô
hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà văn. Ở đây, nhà văn đã vi phạm tính
chân thực của sự thể hiện.
Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái
ác, cái lạc hậu, phản động, cần bị lên án (ví dụ như: Quỷ Ravana, anh em
Kuru…).
Trong quá trình phát triển của văn học, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau, việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như trong thần
thoại chưa có sự phân biệt rạch rịi giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản
diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nơm, các nhân vật thường được
xây dựng thành hai tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt. Ở đây, hễ là
nhân vật chính diện thường tập trung những đức tính tốt đẹp cịn nhân vật phản
diện thì hồn tồn ngược lại.
Trong văn học hiện đại, nhiều khi khó phân biệt đâu là nhân vật chính
diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc miêu tả này phù hợp với quan niệm cho
rằng hiện thực nói chung và con người nói riêng khơng phải chỉ mang một
phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn
của chủ thể đối với sự vật nhiều chiều, phức hợp chứ không đơn điệu... Những
nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở, Tám Bính, Năm Sài Gịn... là những nhân vật
có bản chất tốt nhưng đó khơng phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật.
Bakhtin cho rằng: “cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa cái đặc điểm
chính diện lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn
cười lẫn cái nghiêm túc”. Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện, phản
diện chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại nào để nghiên cứu, cần
phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến các khuynh

hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những nhân vật
như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở nhiều góc độ,
với nhiều phẩm chất khác nhau chứ khơng phải chỉ có một phẩm chất chính
diện hoặc phản diện.
1.1.3.2 Xét từ góc độ kết cấu (Tầm quan trọng và vai trò của nhân
vật trong tác phẩm)
Xem xét chức năng và vị trí của nhân vật trong tác phẩm, có thể chia
thành các loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ.
Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trị quan trọng trong việc tổ chức và
triển khai tác phẩm. Ở đây, nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ
Trang 9


ngoại hình, nội tâm, q trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật
chính, nhà văn thường nêu lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong
tác phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu
thẩm mĩ.
Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật
chính thì nhân vật chính quan trọng nhất xun suốt tồn bộ tác phẩm được gọi
là nhân vật trung tâm. Trong khơng ít trường hợp, nhà văn dùng tên nhân vật
trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðơng Kísốt của Cervantes, Anna
Karênina của L. Tơnxtơi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện Kiều của
Nguyễn Du...8
Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những nhân vật cịn lại đều là những
nhân vật phụ ở các cấp độ khác nhau. Ðó là những nhân vật giữ vị trí thứ yếu
so với nhân vật chính trong q trình diễn biến của cốt truyện, của việc thể hiện
chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nhân vật chính nhưng
khơng được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn được các

nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với những nhân
vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh.
1.1.3.3 Xét từ góc độ thể loại
Có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự và nhân
vật kịch. Nhân vật trữ tình hiển ngơn là hình tượng con người trực tiếp thổ lộ
tình cảm, tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc trong lời ca, cách xưng hơ biểu hiện các
trạng thái tình cảm khác nhau. Ví dụ như trong bài thơ Tơi u em của Puskin
thì nhân vật trữ tình hiển ngơn trong bài thơ này là “Tơi”. Nhân vật trữ tình
biểu tượng là con người mượn các biểu tượng có trong các hiện tượng tự nhiên
và các vật thể nhân tạo, để bộc bạch những tâm sự, tình cảm, tình u. Ví dụ
như bài Tương tư của Nguyễn Bính thì nhân vật trữ tình biểu tượng lúc này là
“Thơn Đồi”.
Nhân vật tự sự là loại nhân vật đóng vai trị kể chuyện trong văn tự sự
khác với nhân vật trong văn tự sự. Nhân vật tự sự có thể xưng tên hoặc xưng
Tơi hoặc giấu mình đi theo mạch cảm xúc của câu chuyện, ví dụ như trong tác
phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê nhân vật tự sự lúc này là nhân
vật Tôi – Phương Định, hoặc trong tác phẩm Bến Quê của Nguyễn Minh Châu
thì nhân vật tự sự lúc này chính là tác giả ơng đã đứng đằng xa để quan sát và
khắc họa nên tâm lí của nhân vật Nhĩ trong câu chuyện.
Cuối cùng đó chính là nhân vật kịch, nhân vật kịch là nhân vật đóng vai
trị quan trọng trong một tác phẩm kịch bởi những đặc trưng của tác phẩm kịch.
Maxim Gorki cho rằng: “Kịch, bi kịch, hài kịch là thể loại khó nhất trong văn
học, khó là vì một vở kịch địi hỏi mỗi nhân vật trong vở kịch phải thể hiện tính
cách bằng lời nói và hành động khơng có lời mách bảo, gợi ý của tác giả. Các
nhân vật kịch được hình thành là do lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời
lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ
không phải bằng ngôn ngữ miêu tả”. Nhân vật của kịch thường chứa đựng
những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng
8


Tham khảo tại Trần Đình Sử, Thi pháp văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010, trang 20-25.

Trang 10


trước những xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con
người khơng thể khơng đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt… Ví dụ
như trong vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng tác giả đã khắc họa nhân
vật chính trong cuộc đấu tranh nội tâm giữa việc xây dựng ước mơ của mình và
lợi ích của nhân dân….
1.1.3.4 Xét từ góc độ chất lượng miêu tả
Có thể phân thành các loại: nhân vật, tính cách, điển hình.
Nhân vật là những con người nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Ở
đây, nhà văn có thể chỉ mới nêu lên một vài chi tiết về ngơn ngữ, cử chỉ, hành
động...cũng có thể miêu tả kĩ và đậm nét.
Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều sâu bên trong. Nó như
một điểm qui tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi biểu hiện mn màu,
mn vẻ sinh động bên ngồi của nhân vật.
Ðiển hình là tính cách đã đạt đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất
giữa cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái cá thể...Nói một cách nghiêm
ngặt, thuật ngữ này chỉ được áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về
sau.
Ngồi những loại nhân vật được trình bày, có thể nêu lên một số khái
niệm khác về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. Chẳng hạn, khái
niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vật con vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật - phi nhân vật trong các trào
lưu văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây…
1.2 HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI
Trong sử thi anh hùng ca, nhân vật trung tâm bao giờ cũng là người anh
hùng toàn thiện toàn mỹ và các nhân vật khác chỉ giữ vai trò phụ, mờ nhạt và
quy tụ làm tôn thêm vẻ đẹp cho người anh hùng. Nhân vật anh hùng mang tính

khái quát, mang tính lý tưởng xã hội và lý tưởng thẩm mỹ của thời đại đã sản
sinh ra nó. Ngồi tầm vóc mang kích thước vũ trụ, tiêu biểu cho sức mạnh thể
chất - tinh thần của cộng đồng dân tộc, nhân vật anh hùng sử thi còn sáng ngời
vẻ đẹp của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lịng dũng cảm,…
Tất cả được thể hiện qua những hành động cao cả, dũng cảm của người
anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhân vật anh hùng sử thi không thể
tồn tại nếu khơng vượt qua được mọi khó khăn thử thách để giành chiến thắng.
Người anh hùng phải có những khát vọng lớn lao, những lý tưởng cao cả và lý
tưởng ấy cũng là đại diện cho lý tưởng của cộng đồng dân tộc. Những vẻ đẹp
về sức mạnh thể chất, tinh thần, tài năng và những phẩm giá ưu tú của cộng
đồng được thể hiện qua nhân vật người anh hùng trong mối quan hệ với tự
nhiên, xã hội.
1.2.1 Vẻ đẹp về ngoại hình
Nhân vật anh hùng trong sử thi về ngoại hình phần lớn thường có tầm vóc
đẹp, có kích thước lớn lao. Đây là điều hết sức hợp lý bởi nó là sự cộng hưởng
thể chất của cả cộng đồng. Và ở cộng đồng nào thì người anh hùng sử thi đều
xuất hiện trọng vẻ đẹp tạo hình theo quan điểm thẩm mỹ, theo chuẩn mực riêng
của cộng đồng ấy.

Trang 11


Người anh hùng trong sử thi Phương Tây được xây dựng dựa trên thế giới
quan thần linh chủ nghĩa. Vì thế nhân vật anh hùng mang một vẻ đẹp siêu
phàm và kỳ vĩ. Trong sử thi Hy Lạp, người anh hùng ở cả hai chiến tuyến đều
là những con người toàn thiện toàn mỹ và là linh hồn của sử thi Hy Lạp. Đó là
những người anh hùng đại diện cho quan điểm tư tưởng của người Hy Lạp cổ
đại. “Asin là tổng thể những sức mạnh ưu tú của nhân dân.” “Asin đó là sự
thần thánh hóa nước Hy Lạp bằng nghệ thuật”. Dưới lời kể của Hơmer thì
người anh hùng Asin từ hình dáng đến vũ khí của chàng,… đều thấp thống

hình bóng của thần linh. Chàng có vẻ đẹp “như một thần linh”, tiếng thét thì
âm vang như “tiếng kèn xung trận” làm cho “đầu gối của hết thảy những
người Troy đều run rẩy” và “trái tim tan ra như nước”. Khơng những thế, vũ
khí của chàng cũng do thần linh làm giúp. Chiếc khiên của chàng là một cơng
trình nghệ thuật của vị thần thọt chân trứ danh Hêphaixtôx, áo giáp và mũ trụ
sáng ngời lên “trông xa như một đám cháy lớn, như vầng đông khi mặt trời mới
mọc” đến nỗi quân sĩ của chàng cũng phải rùng mình run sợ khi đánh bạo nhìn
vào những vũ khí đó.
Người anh hùng trong sử thi Phương Đông được xây dựng dựa trên cảm
quan và tư duy tôn giáo. Người Ấn Độ chú trọng đời sống tâm linh, nên hình
dáng khơng chỉ là cái bên ngồi mà cịn là hình dáng được cảm nhận từ bên
trong. Trong sử thi Mahabharata, có rất nhiều nhân vật anh hùng lý tưởng
nhưng mỗi nhân vật lại xuất sắc về một mặt nào đó. Hình ảnh Acgiuna bước
vào hội cầu hơn Đrôpađi: “Acgiuna – chàng trai trẻ, như thân của một con voi,
có đơi vai, cánh tay và bắp đùi rắn chắc. Nếu nhìn kỹ, trơng chàng ta sừng
sững như đỉnh Himavat. Acgiuna có dáng đi như dáng đi của một con sư tử, có
sức mạnh như sức mạnh của một con voi thời sung mãn… Chàng ta trơng thật
quyết chí và chắc chắn giành được chiến thắng”. Vẻ đẹp của người anh hùng
thường với tầm vóc hồnh tráng, kỳ vĩ thường được so sánh với phong thái uy
nghi đường bệ của các vị thần linh. Bhima “Người ông trông hệt như Ngọc
hoàng Indra đứng giữa các chư thần giơ cao lưỡi tầm sét”.
Trong sử thi Ramayana, nhân vật anh hùng lại có được vẻ ngồi thánh
thiện do các biện pháp nghệ thuật sử thi được sử dụng trong sự kết hợp nhuần
nhuyễn với những yếu tố tơn giáo. Hồng tử Rama trong tác phẩm có “đơi mắt
sáng như mặt trời và mặt trăng, có đơi tai nghe thấu nhạc của trời đất, chàng
là kẻ thù của mọi sự ghen tuông hờn giận và tội ác tàn bạo”.
Trong sử thi Tây Nguyên, vẻ đẹp của nhân vật anh hùng được gắn liền
với kích thước của núi rừng, sơng suối, cây cối, chim muông… nơi vùng đất
cộng đồng đang sống. Dựa trên kiểu so sánh được thiết lập trên sự tương đồng
về tính chất của sự việc, và sắc thái khâm phục ngợi ca mà các hình ảnh gợi

đến đã khắc họa nên vẻ đẹp oai hùng của người anh hùng Đam San: “Đam San
đóng khố màu sặc sỡ. Đầu đội khăn đẹp như các tù trưởng. Khiên tròn như đầu
cú. Gươm sáng như mặt trời. Tư thế chờ sẵn như con sóc mắt sáng”; “Móc
dao vào phên rồi lại ngồi giữa nhà, Đam San trông dẻo như con rắn trong
hang, con hùm bên bờ suối. Tiếng nói tiếng cười của chàng như sấm vang sét
đánh”.Thước đo vẻ đẹp hình thể của chàng Đam San là những gì quen thuộc
trong thiên nhiên một miền rừng núi, nó gắn liền với nếp nghĩ, nếp cảm của
đồng bào Tây Nguyên.
Chuẩn mực vẻ đẹp bề ngồi của người anh hùng khơng ở vấn đề tồn
thiện, toàn mỹ mà vẻ đẹp ấy phải phù hợp với khí phách hào hùng, với nhiệm
vụ bảo vệ cộng đồng dân tộc. Đó cũng là một kiểu dáng vóc sử thi.
Trang 12


1.2.2 Về vẻ đẹp phẩm chất - sức mạnh, tài năng, trí tuệ, đức hạnh
Ngồi tầm vóc mang kích thước vũ trụ, tiêu biểu cho sức mạnh thể chất tinh thần của cộng đồng dân tộc, nhân vật anh hùng sử thi cịn sáng ngời vẻ đẹp
của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lòng dũng cảm… Tất cả được thể hiện qua
những hành động cao cả, dũng cảm của người anh hùng với những chiến công
hiển hách. Hêghen đã nhận định: “Tinh thần dũng cảm làm thành cái hứng thú
chủ yếu mà tinh thần dũng cảm là một trạng thái tâm hồn và một hoạt động
khơng hợp với tính cách biểu hiện trữ tình, cũng khơng phù hợp với hành động
có tính kịch, nhưng lại đặc biệt phù hợp với hình tượng sử thi”. Nhân vật anh
hùng sử thi không thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn thử thách
để giành chiến thắng vang dội, lập được những chiến cơng hiển hách. Người
anh hùng phải có những khát vọng lớn lao, những lý tưởng cao cả và lý tưởng
ấy cũng là đại diện cho lý tưởng của cộng đồng dân tộc.
Lịng dũng cảm, ý chí và nghị lực phi thường được coi là những phẩm
chất đạo đức có tính chất tuyệt đối của người anh hùng trong sử thi. Trong sử
thi Hy Lạp, với quan điểm nhìn người anh hùng trong tính tồn vẹn, tính tổng
thể, xuất sắc về mọi phương diện, nhân vật hành động hết sức quyết liệt vì lợi

ích thành bang và vịng nguyệt quế vinh quang của người anh hùng. Người anh
hùng luôn khao khát chiến thắng và để giành được thắng lợi trên chiến trường
dù phải hy sinh thì đó cũng là cái chết hết sức vinh quang. Trong sử thi Ôđixê,
người anh hùng không thỏa hiệp với bất cứ một trở ngại nào trên đường để trở
về đến quê hương Itac. Chàng có thể vượt qua bao gian lao thử thách trên biển
cả là nhờ lịng dũng cảm, ý chí sắt thép, sự chịu đựng phi thường. Chàng tự
mình làm bè vượt biển, đơn độc đối mặt với những bão táp, sóng gió... Trong
sử thi Iliát, phần lớn là câu chuyện về cơn giận của Asin cùng những hậu quả
của nó. Asin trừ điểm yếu của chàng là gót chân thì chàng là người mình đồng
da sắt, dũng cảm khơng ai bằng, chiến công lẫy lừng hơn bất cứ ai, căm thù
giặc sục sơi, trung thành với bạn hữu… ít ai sánh được với chàng. Với khát
vọng “Chừng nào chưa đánh cho quân Troy tê liệt ta sẽ chưa thôi chiến đấu”,
chàng đã không hề lùi bước trước bất cứ một khó khăn, trở ngại nào. Những
cuộc giao tranh giữa các anh hùng cũng thường được so sánh với các cuộc săn
mồi của muôn thú: “Như lũ cá hoảng hốt nấp vào khắp hang hốc của một cửa
biển chắc chắn để chốn một con cá heo hung tợn ăn thịt bất cứ con gì nó bắt
được, qn Troy cũng ẩn vào những chỗ hiểm hóc của lịng sơng khủng khiếp
đó”. Với người Hy lạp thì chiến trường cũng giống như vũ đài thi đấu mà
“Vòng nguyệt quế sẽ được quàng cho người xuất sắc nhất, Asin, kết tinh toàn
bộ sức mạnh của người Hy Lạp; còn Hecto, của người Troy - hai võ sĩ bước
lên võ đài mà phần thưởng có thể là cả một thành bang với những đường phố
rộng sẽ thuộc về người xuất sắc hơn”. Và những phẩm chất đó của nhân vật
anh hùng ln ln tồn tại ở mức độ phi thường, không ai sánh kịp, tạo nên vẻ
đẹp hùng mạnh cho nhân vật sử thi.
Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại mà khơng có lý tưởng cao cả,
khát vọng lớn lao. Lý tưởng ấy cũng chính là đại diện cho lý tưởng cộng đồng
dân tộc. Trong sử thi Hy Lạp, người anh hùng mang lý tưởng tập thể thị tộc, bộ
lạc, lý tưởng của những con người tràn đầy sức sống và nhiệt tình sơi nổi, khao
khát lập chiến cơng và vinh quang. Chàng Hecto trong sử thi Iliát với mục đích
chiến đấu lập chiến công để lưu danh hậu thế nhưng đó cũng chính là lý tưởng

chiến đấu vì bộ lạc, vì quyền lợi của cộng đồng. Trong sử thi Ơđixê, lý tưởng
cao quý chi phối mọi hành động của người anh hùng Uylixơ là trở về quê
Trang 13


hương, gia đình, là muốn tìm hiểu thế giới, khám phá những bí ẩn thiên nhiên,
làm chủ số mệnh và chinh phục thế giới.
Nếu như người anh hùng trong các sử thi Hy Lạp luôn hướng tới chiến
thắng và vinh quang nơi chiến trận, nơi biển khơi thì người anh hùng trong các
sử thi Ấn Độ lại mang lý tưởng thuần khiết hơn: lý tưởng về điều thiện, về lẽ
phải, về đạo lý ở đời. Trong sử thi Mahabharata lời giáo huấn của Krixna dựa
trên cơ sở vững chắc của lẽ Đácma: “Ai cũng phải chết, người anh hùng hay kẻ
nhát gan cũng vậy, nhưng nhiệm vụ cao quý nhất của một Kơsatrya là phải
trung thành với dòng dõi và niềm tin của mình, phải đè bẹp quân thù trong
những trận đánh chính đáng mà giành lấy vinh quang”.
Trong sử thi Ramayana, người anh hùng Rama luôn lùi bước trước những
hành động đi ngược lại bổn phận. Với niềm tin lý tưởng “chiến thắng thuộc về
những người đề cao Đácma” nên người anh hùng Rama luôn hành xử theo bổn
phận, tinh thần cao thượng và sự vị tha. Rama được quyền nối ngơi cha, nhưng
vì cha đã hứa với thứ phi Kekêi đày mình vào rừng để nhường ngơi báu cho
Bharata, Rama không dám cãi lại lệnh cha. “Lời hứa của cha là danh dự, danh
dự của cha là danh dự của mình và của dịng giống. Tuyệt đối phục tùng mệnh
lệnh của cha là một bổn phận. Đó là tiêu chuẩn đạo đức của đẳng cấp quý tộc
và xã hội đương thời” . Chàng vui lòng từ giã cuộc sống vương giả để ra đi và
chàng nói với thứ phi Kekêi: “Khơng có một đạo giáo nào lớn hơn là phụng sự
cha mình và thực hiện mệnh lệnh của cha… Phụng sự cha là bổn phận cao
nhất của con người”. Theo quan niệm của người Ấn Độ, người anh hùng lý
tưởng bên cạnh sức mạnh, tài năng và lòng dũng cảm thì phải là con người
ln ln thực hiện đạo lý Đácma. Trong sử thi Ramayana, người anh hùng
Rama được khắc họa nổi bật lên cùng phẩm chất tuyệt đối trung thành với bổn

phận, có sự bao dung độ lượng cao cả và ý thức về danh dự. Mọi hành động
của Rama đều luôn tuân thủ tuyệt đối theo trách nhiệm và bổn phận của Đácma.
Một tình huống thấm đẫm nước mắt là khi Rama buộc tội Sita, đây là thử thách
buộc người anh hùng phải lựa chọn Danh dự hay Tình yêu? Quyền lợi, trật tự
xã hội của cộng đồng hay Hạnh phúc cá nhân? Rama đã lựa chọn hy sinh người
mình yêu thương nhất để lựa chọn hành động theo bổn phận thuần khiết của
một đấng quân vương là xây dựng gia đình chuẩn mực, có vị hồng hậu đáng
kính nể về tình u chung thủy. Vì vậy, Rama được người Ấn Độ xem như là
hiện thân của đạo lý Đácma, “là khuôn vàng thước ngọc của đẳng cấp
Kơsatrya”.
Nhân vật anh hùng sử thi luôn hiện diện song hành cùng sức mạnh thể
chất và tài năng, phẩm chất đạo đức siêu phàm, là người anh hùng toàn thiện
tồn mỹ và trở thành “khn vàng thước ngọc” về vẻ đẹp vật chất và sức mạnh
đạo đức của con người thời đại. Người anh hùng trong Ramayana là sự khái
quát hóa cao độ những khát vọng lý tưởng về sức mạnh, tài năng, lịng dũng
cảm, đức hạnh của tồn thể cộng đồng dân tộc sản sinh ra nó. Vẻ đẹp ấy là chỗ
dựa, niềm tự hào của cả cộng đồng dân tộc nên ln được nhìn nhận, đánh giá,
ngợi ca với niềm tơn kính thiêng liêng. Người anh hùng trong Ramayana trở
thành biểu tượng cho tâm hồn, tính cách dân tộc Ấn Độ u chuộng hịa bình,
hịa hợp và bình đẳng.

Trang 14


CHƢƠNG 2
HÌNH TƢỢNG NGƢỜI ANH HÙNG LÍ TƢỞNG
TRONG HAI BỘ SỬ THI RAMAYANA VÀ
MAHABHARATA
Hình tượng người anh hùng lí tưởng trong hai bộ sử thi Ramayana và
Mahabharata là điểm quan trọng của đề tài này, đòi hỏi người viết phải làm rõ

các vấn đề có liên quan một cách tốt nhất. Để đạt được một kết quả phù hợp,
đòi hỏi người viết phải chọn cho mình một hướng khai thác tồn vẹn, thứ nhất
khơng làm mất những chi tiết quan trọng của tác phẩm, thứ hai không đi quá xa
trọng tâm của vấn đề; đáp ứng được những yêu cầu trên là một việc làm không
hề đơn giản. Tuy nhiên, ở chương này có rất nhiều hướng khai thác tác phẩm
khác nhau, ở đây chúng tôi sẽ chọn hướng khai thác tác phẩm theo chiều dọc
với các nội dung: Người anh hùng xuất thân cao quí; người anh hùng uy dũng
tài ba, phò thiện trừng ác; người anh hùng chung thủy với người yêu và cuối
cùng là người anh hùng đại diện cho lí tưởng tơn giáo. Sở dĩ chúng tơi chọn
cho mình những tiêu chí để khai thác như trên đều dựa vào tiêu chuẩn của một
hình tượng người anh hùng lí tưởng mà người dân Ấn Độ xưa và nay đã tơn
kính. Nó đủ để cho ta thấy rằng hình tượng người anh hùng lí tưởng trong hai
bộ sử thi Ramayana, Mahabharata nói riêng và trong lịng dân chúng Ấn Độ
nói chung thể hiện như thế nào.
2.1 NGƢỜI ANH HÙNG XUẤT THÂN CAO QUÝ
Về nguồn gốc xuất thân, theo truyền thuyết, Rama là hóa thân thứ 7 của
thần Visnu - đấng tối cao của đẳng cấp quý tộc Bàlamôn (Visnu là một trong
ba vị thần tối thượng đối với Ấn Độ giáo. Barahma, Visnu, Shiva được xem là
tam vị nhất thể(Trimurti) của Ấn giáo có thể được giải thích như là những
phương diện của một quyền năng duy nhất. Brahma là là thần sáng tạo ra vũ trụ
(thần sáng thế). Visnu tượng trưng tất cả những gì tích cực và xây dựng trong
vũ trụ. Shiva là phản đề (antithesis), biểu thị những lực tiêu cực và phá hoại
chung quanh ta.
Ba vị thần ở Điện thờ Ấn giáo là những biểu tượng của các nguyên lý
trừu tượng. Vũ trụ được điều lý theo nhịp thái hịa. Có vị thần Shiva tàn phá,
thì lại có thần bảo lưu Visnu, khơng có vị thần nào hiện hữu đơn độc. Shiva
khơng tách rời khỏi Visnu. Visnu là vị thần cao nhất, là thần sáng tạo, còn được
gọi là thần tay phải (tay phải đưa lên, khuỷu tay gấp lại cong lên , lịng bàn tay
phải đua ra trước (động tác abhayamudra: khơng kinh sợ). Những vật thường
có ở nơi Visnu là một ốc tù và, một tràng hạt cầu kinh, một hoa sen. Visnu là

hiện thân của sự ổn định nữ tính và khả năng sinh thành. Visnu được mô tả với
bốn cánh tay, nhiều đầu, có nhiều hóa thân khác nhau (avataras) nhằm gìn giữ
đạo đức và văn minh của nhân loại. Narayanna (con cua Nara: người đầu tiên,
bằng hữu) được hiểu là “nơi cư ngụ chung của con người”.
Trong thiên anh hùng ca Ramayana, Visnu xuất hiện là con của Nara.
Trong thiên anh hùng ca Mahabharata Visnu xuất hiện với danh xưng Krixna
để giảng thuyết nền đức lý vĩ đại của người anh hùng Acgiuna trong Chí tơn ca
(Bhagavad Gita). Visnu ngủ bốn tháng trong năm, nghỉ ngơi trong vòng cuộn
của rắn Ananta hay rắn Sesanaga. Shiva được đánh thức bởi một nghi lễ đặc
biệt. Người phối ngẫu thường xuyên với Visnu là nữ thần may mắn Lakshmi.
Đối thủ chính của Visnu là Yama (thần chết). Visnu ngồi trên lưng con vật
Trang 15


thiêng đầu người mình chim Garuda để di chuyển. Garuda chuyên ăn tươi nuốt
sống nuốt sống lũ ác quỷ).
Visnu được giáng thế làm người cứu nhân loại ra khỏi vòng trầm luân
đau khổ trong chiến tranh loạn lạc. Mục đích giáng trần vơ cùng cao q đó là
cứu nhân độ thế, tiêu diệt cái ác, bảo vệ cái thiện. Lúc đó có con quỷ Ravana,
rakshara 10 đầu độc ác, tự phụ do hắn đã được đấng Brahma ban sức mạnh bất
diệt cho hắn và do hắn có khả năng làm cho các hành tinh quay chậm lại, thậm
chí đứng lại khiến đấng Bhahma lo lắng đành chấp nhận mọi yêu cầu của hắn
để cứu lấy vũ trụ. Không một ai có thể tiêu diệt hắn trừ con người và mng
thú trên trái đất, do hắn đã quá khinh mạn.“Chính trong lúc họ (những chư
thần) đang nát óc về vấn đề này thì những lời khấn cầu của Đasaratha đến tai
họ. Inđờra nghĩ: đây là một vị vua lẫy lừng, đang cầu xin con cái. Tại sao
không ban cho ông ta một đứa con trai có thể giúp chư thần chống lại Ra va na?
Nghĩ vậy, In- đờ-ra vội đến gặp thần tối thượng Visnu và bày tỏ ý mình: “Ngài
hãy cứu chúng tơi thốt khỏi tay tên Ravana ác độc. Vì đặc ân của Brahma, quỉ
thần gì cũng khơng giết nổi hắn. Chỉ cịn có con người thơi. Hãy tạo ra con

người ấy và cứu lấy chúng tôi, Inđờra van nài. Visnu vốn sẵn lịng từ bi cao
q, đã hứa với vua chư thần rằng chính người sẽ đầu thai làm người xuống
trần gian. Người sẽ là Rama, con trai của vua Đasaratha”9 Vì vậy, Rama được
hóa thân với trọng trách tiêu diệt quỷ Ravana.
Thần Visnu giáng thế xuống trần đầu thai thành một trong bốn vị hoàng
tử của vua Đasaratha trong vương quốc Côsala được đặt tên là Rama. “Bốn
người con trai của vua Đasaratha đã lớn lên thành những chàng trai cao lớn,
khỏe mạnh và tuấn tú. Họ là niềm vui của kinh thành. Khi họ đi bất cứ nơi đâu
ở A-dơ-di-a, vẻ q phái và dáng đi hiên ngang của họ thu hút sự ngưỡng mộ
của chúng dân cũng như cử chỉ mềm mỏng của họ chiếm được lòng yêu thương
của mọi người (…) Nhà vua yêu tha thiết tất cả con trai của mình. Nhưng
Rama là người làm đẹp dạ nhà vua hơn cả, vì chàng ln lanh trí làm theo ước
muốn của vua cha, ngay cả khi chưa được dặn dò hay sai bảo. Tất nhiên, chính
điều này càng đặc biệt làm cho Đasaratha yêu dấu chàng hơn nữa”[11]. Bên
cạnh vị hoàng tử Rama đáng kính cịn có những vị anh hùng khác điều có xuất
thân cao q như: Lắcsơmana (là một vị hồng tử em trai của Rama, chàng luôn
tỏ ra là một người em ngoan hiền, hiểu chuyện và sẳn sàng hi sinh để giúp đỡ
Rama), Hanuman (một con khỉ của vùng Risiamukha và cũng là một trợ thủ
đắc lực của vua loài khỉ Sugơriva. Hanuman trong nghĩa khí ln tìm mọi cách
để giúp đỡ Rama, ơng nội của Hanuman là thần gió Vadu điều đó cho thấy
Hanuman cũng do thần tạo ra “Chắc hẳn những con khỉ này có sức mạnh siêu
phàm mới xứng là những đối thủ của bọn Racsaxa! Vả lại, người ta biết rõ là
chúng được chư thần ban cho những đặc ân. Có lẽ là một vài con khỉ như
Hanuman đã được chính chư thần sinh ra”…), ngồi ra cịn có Barata cương
trực, vua lồi khỉ Sugơriva chính nghĩa…
Trên đây người viết đã điểm qua nguồn gốc xuất thân của các vị anh
hùng trong sử thi Ramayana vậy trong Mahabharata thì những vị anh hùng sẽ
có những hóa thân huyền bí gì đây? Câu trả lời sẽ được giải mã trong những
phần dưới đây nhưng trước khi nói đến nguồn gốc xuất thân của các vị anh


9

Cao Xuân Hiệp, Huỳnh Ngọc Trảng dịch, Hoàng tử Rama (anh hùng ca cổ đại Ấn Độ) Trang
9, NXB Sở Văn hóa và Thông tin Long An, Năm 1984.

Trang 16


hùng trong tác phẩm Mahabharata người viết xin điểm qua một số chi tiết về
nguồn gốc sâu xa của tác phẩm để người đọc thấy rõ nội dung hơn.
“Krixna Đơmêpayana Vyaxa vừa là một tác giả vừa là một trong những
ông tổ của các nhân vật trong tập sử thi, là con trai của Risi Parasara và nàng
tiên Xatyavati. Xatyavati tuy đã đẻ con nhưng được thần cho lại trinh tiết như
thường. Có một ơng vua, con cháu của Bharata, tên là Xantanu. Con trai của
Xantanu do nữ thần sông Hằng đẻ ra tên là Xantavana hay Bhisma. Đến tuổi
già Xantanu vẫn muốn lấy vợ nữa nhưng Bhisma được quyền kế tự là một trở
ngại cho Xantanu. Muốn được lòng cha, Bhisma hi sinh quyền ấy và Xantanu
lấy Xatyavati. Xatyavati đẻ được hai con trai, con đầu tiên là Chitriangata nối
ngôi cha nhưng rồi bị vua Gandharva giết chết trong một cuộc giao chiến.
Người con thứ là Vichitravirya lên ngôi nhưng lại khơng có con trai, chết đi để
lại hai người vợ là Ambika và Ambalika đều là con gái một ông vua ở Kasi.
Xatyavati cho Vyaxa là con riêng của mình lấy hai người vợ góa ấy để nối dõi
tông đường cho anh. Vyaxa bỏ cuộc đời đi di ẩn trong rừng. Đời cấm dục khắc
khổ của Vyaxa làm cho mặt mày ông thay đổi rất sợ. Hai người vợ thấy vậy rất
hãi hùng. Người vợ nhiều tuổi hơn nhắm hai mắt khi lại gần Vyaxa, vì thế mà
sinh ra đui mù đặt tên là Đơritaratra. Người vợ ít tuổi hơn cũng vì sợ xanh mặt
khi lại gần Vyaxa nên đẻ ra một đứa con trai xanh tái lấy tên là Panđu.
Xatyavati muốn có được một đứa cháu trai đẹp đẽ khơng bệnh tật, nhưng
người vợ góa nhiều tuổi không đẻ được nữa đành cho một người con gái nơ lệ
thay thế mình. Người con gái nơ lệ đẻ với Vyaxa được một người con trai tên là

Vidura. Mấy đứa con đều do ông bác là Bhisma nuôi. Đến lúc trưởng thành
Đơritaratra vì bị mù khơng lên ngơi được. Panđu được lên ngôi. Nhưng Panđu
bị nghi là đau bệnh phong, bị hiềm khích nên phải vào rừng ở. Đơritaratra lại
lên ngơi.”10
Panđu có hai người vợ: Kunti và Madri. Sau vì đau ốm ln, Panđu phải
vào ở trong núi Himalaya và chết ở đó. Cả hai người vợ theo vào đẻ dược năm
con trai. Đó là con của các vị thần nhưng Panđu nhận làm con mình cho hưởng
mọi quyền lợi của dòng họ Panđava. Kunti là mẹ của ba người con đầu, Madri
là mẹ của hai đứa con sau. Yuhitira con trưởng rất giỏi đánh giặc chính là con
trai của thần Đácma thần công lý đạo đức, Bhima con thứ hai là con trai của
thần gió Vayu, con thứ ba Acgiuna (nghĩa là sáng như bạc) chính là con của
thần Inđra (thần của các vị thần), Nakula và Xahadeva người thứ tư và người
thứ năm là hai con trai sinh đôi của nàng Madri và thần mặt trời.
Đơritaratra mù lòa cai quản Haxtinaopura. Vợ Đơritaratra là Ganđari đẻ
được một trăm con trai và một con gái tên là Đuxala. Đẻ nhiều như vậy là nhờ
Vyaxa toàn đẻ trong những điều kiện thần bí. Tất cả một trăm con trai đều gọi
chung là Kơrava. Khi các hồng tử Panđu cịn bé và lúc cha mất họ được dẫn
đến chào Đơritaratra. Đơritaratra đã chăm sóc ni nấng và dạy dỗ các cháu
như con mình.Từ đó, mâu thuẫn giữa anh em Kơrava và Panđava bắt đầu.
Những chi tiết trên cho thấy các vị anh hùng trong tập sử thi Mahabharata
đều có những nguồn gốc xuất thân cao q nếu khơng là thần thánh hóa thân thì
cũng là con bậc vua chúa lẫy lừng trong thiên hạ.

10

Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba, Nguyễn Quế Dương dịch, Mahabaharata cùng với Chí Tơn
ca, Trang 26, NXB Văn học, Năm 2004.

Trang 17



Trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata không những có các giai
thoại hay các truyền thuyết về xuất thân cao q của các vị anh hùng mà điều
đó cịn biểu hiện ở ngoại hình, ngơn ngữ, thái độ quan tâm đối với xã hội… đã
tô đậm hơn vẻ đẹp cao q, đáng kính ở họ. Thuyết phục những gì đã nói,
Người viết xin đi sâu phân tích về những phương diện đã nói trên:
2.1.1 Về ngoại hình
Từ đầu khi xuất hiện ta đã thấy một Rama cứng cỏi, cường tráng và khỏe
mạnh. Tuy chỉ mới mười sáu tuổi thôi nhưng Rama lại tỏ ra là một chàng trai
đầy khí chất khiến dân chúng trong thành kính yêu ngưỡng mộ. Khi Rama và
Lắcsơmana cùng đạo sĩ Vítsơvamitra vào rừng tiêu diệt lũ quỉ dữ thì vẻ oai
nghiêm của hai hồng tử hiện ra thánh thiện: “Cả ba đi vào rừng thẳm,
Vítsơvamitra tồn năng và hai vị hồng tử trẻ tuổi, quyết chí trở thành những
chiến sĩ diệt trừ lồi quỉ dữ. Họ đi dũng mãnh làm sao! Đôi vai rộng càng thêm
rộng bởi họ mang cánh cung và ống tên. Lịng u thích phiêu lưu và chiến đấu
sáng ngời trên khn mặt họ, làm dáng vẻ cao q của họ trở nên thần tiên
rạng rỡ hơn bao giờ hết”. Không những chàng tỏ ra cứng cỏi trong chiến đấu
mà chàng còn tỏ ra cứng cỏi và đẹp hơn trong khi chàng sắp bị lưu đày, chàng
từ tốn, nghiêm trang và không chút phản kháng trước lời hứa của vua cha cùng
hoàng hậu Kekêi: “Rama, Sita và Lắcsơmana sẵn sàng rời kinh thành. Họ mặc
quần áo vỏ cây như những bậc hiền giả trong rừng vẫn mặc. Lắcsơmana đem
theo một ít vận dụng mà họ có thể cần đến khi sống trong rừng thẳm, những
vật như cuốc xẻng mai đào đất. Cả hai anh em đều mang theo cung tên, áo
giáp và những vũ khí khác.
Dân chúng theo dõi họ từ những nóc nhà khi họ đi đến cung điện của
Đasaratha để từ giã lần cuối. “ Hãy nhìn họ xem!” Dân chúng bảo nhau. “Họ
đi hiên ngang làm sao!Rama có dáng vẻ cao q biết dường nào!Khơng một
giọt nước mắt, khơng một tiếng phản đối…Đó chàng bước đi như bước đến
ngai vàng Rama là vậy! Lúc nào chàng cũng mạnh mẽ can trường và dứt khoát
trong hành động dù trong buổi chia tay đầy quyến luyến với vua cha và vương

quốc khi phải đi lưu đày “Rama cắt đứt tất cả mọi cuộc cãi lý thêm nữa bằng
cách ra đi tức thì. Vua Đasaratha miễn cưỡng để chàng ra đi và thảm thiết kêu
gào xin chàng hãy dừng lại. Nhưng Rama khơng quay đầu lại nhìn. Với những
bước đi chắc nịch, chàng bước ra ngoài. Sita và Lắcsơmana theo sau”.
Bên cạnh Rama là người em trai, vị hoàng tử cũng không kém phần oai
nghiêm hùng dũng. Lắcsơmana chàng luôn là người hiểu chuyện, tôn trọng và
yêu mến Rama. Sẵn sàng hi sinh khi Rama cần đến chàng, hành động của
chàng đối với Rama chứng tỏ rằng chàng một là chàng trai dũng cảm và đầy
nhiệt huyết lẫn cả khi chàng thấy bất bình dùm Rama “Nhìn thấy hồng hậu ưu
phiền, Lắcsơmana buột miệng “Lão già ngu ngốc” chàng kêu lên, quên phắt đi
nhà vua là cha của chàng “Lão già ngốc nghếch, lão đã mất trí ên rồi chăng
mới đày Rama đi như vậy? Rama đã làm gì nên tội để phải chịu hình phạt như
thế chứ? Lão già lú lẫn hồ đồ như một cục đất sét trong tay của Kakêi. Phải
làm sao cho lão sang mắt ra. Em không chịu sự phục tùng quá đáng của anh,
Rama ạ. Em sẽ không bao giờ tán thành việc này cả. Việc gì cũng có giới hạn,
hãy ra lệnh cho em em sẽ tiêu diệt đạo quân của Đasaratha một tay này thôi.
Anh sẽ được tôn làm vua của Côsala.”
Bằng những lời lẽ chân thành của mình, chàng vẫn khơng khun được
Rama cuối cùng chàng xin Rama để chàng được đi cùng “Đến nước này,
Trang 18


×