Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM NGÀNH XÂY DỰNG CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.87 KB, 22 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM NGÀNH XÂY DỰNG CƠ
BẢN
I.ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH XÂY DỰNG CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN
CÔNG TÁC KẾ TOÁN
Cũng như bất kỳ ngành sản xuất khác, xây dựng cơ bản khi tiến hành hoạt động
kinh doanh thực chất là quá trình biến đổi đối tượng lao động trở thành sản
phẩm.Trong nhóm các ngành trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội , ngành
xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất độc lập , có chức năng tái tạo tài
sản cố định cho nền kinh tế , tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội , tăng tiềm lực
kinh tế quốc phòng của quốc gia . Do vậy, xây dựng cơ bản là ngành
thu hút một bộ phận lớn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và cũng là ngành
chiếm tỷ trọng lớn trog tổng thu nhập quốc dân . So với các ngành sản xuất khác,
xây dựng cơ bản là ngành sản xuất đặc thù với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật rất
riêng, được thể hiện rất rõ qua đặc trưng về sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra
sản phẩm cụ thể:
Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến ttrúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp,
mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài, trình độ kỹ thuật, thẩm mỹ cao.
Do vậy, việc tổ chức quản lý nhất thiết phải có dự toán thiết kế và thi công. Trong
suốt quá trình xây lắp, giá dự toán sẽ ttrở thành thước đo hợp lý để hạch toán các
khoản chi phí và thanh toán các công trình.
Mỗi công trình xây dựng gắn liền với vị trí địa lý nhất định, nó thường cố định tại
nơi sản xuất (thi công), còn các điều kiện sản xuất khác như: lao động, vật tư thiết
bị,...luôn phải di chuyển theo mặt bằng và vị trí thi công mà mặt bằng thi công
thường nằm rải ráckhắp nơi và cách xa trụ sở đơn vị , do đó tồn tại một khoảng
cách lớn giữa nơi trực tiếp phát sinh chi phí và nơi hạch toán chi phí, gây khó
khăn cho công tác kế toán xây lắp. Mặt khác, hoạt động XDCB lại tiến hành ngoài
trời, thường chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách quan như thời tiết, khí hậu
thiên,...nên dễ dẫn đến tình trạng hao hụt,mất mát, lãng phí vật tư, tài sản,làm tăng
thiệt hại trong tổng chi phí sản xuất.
Phương thức tiêu thụ sản phẩm cũg rất đặc biệt ở chỗ: Sản phẩm xây lắp được định


giá tới từng sản phẩm cấu thành trước khi tiến hành thi công xây lắp, do đó sản
phẩm xây lắp mang tính chất được tiêu thụ trước nên tính chất hàng hóa của nó
không thể hiện rõ.
Xét về quá trình tạo ra sản phẩm xây dựng, từ khi khởi công đến khi công trình
hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thời gian thường dài, phụ thuộc vào quy mô
tính chất phức tạp của từng công trình, Quá trình thi công xây dựng này được chia
thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn được chia thành nhiều công việc khác nhau.
Từ những đặcđiểm trên đây, đòi hỏi công tác kế toán vừa phải đáp ứng những nhu
cầu chung về chức năng nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất, vừa
phải đảm bảo phù hợp với đặc tính riêng của doanh nghiệp xây dựng cơ bản. Từ đó
nhằm cung cấp nhu cầu chính xác, kịp thời đánh giá đúng tình hình kế hoạch sản
xuất kinh doanh, cố vấn cho lãnh đạo trong việc tổ chức, quản lý để đạt hiệu quả
cao trong kinh doanh của doanh nghiệp.
II.YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ, HẠCH TOÁN CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH XẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG XÂY
DỰNG CƠ BẢN.
1. Yêu cầu quản lý đối với công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
Do đặc thù của sản xuất xây lắp và sản phẩm xây dựng cơ bản khó khăn phức tạp
hơn một số ngành sản xuất khác. Chính vì thế, trong quá trình quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
“ Công tác quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản phải đảm bảo tạo ra những sản phẩm
và dịch vụ được xã hội và thị trường chấp nhận về giá cả, chất lượng và đáp ứng
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiẹp hóa hiện đại hóa
đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân
dân.
Huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng
như các nguồn vốn từ ngước ngoài đầu tư vào Việt Nam, khai thác tốt tài nguyên
tiềm năng lao động, đất đai và các tiềm lực khác nhăm động viên tất cả những tiềm

năng của đất nước phục vụ cho quá trình tăng trưởng, phát triển nền kinh tế đồng
thời bảo vệ môi trường sinh thái.
Xây dựng phải theo quy hoạch được duyệt, thiết kế hợp lý, tiên tiến, thẩm mỹ công
nghệ hiện đại, xây dựng đúng tiến độ đạt chất lượng cao với chi phí hợp lý và thực
hiện bảo hành công trình...”(Trích điều lệ quản lý và xây dựng – ban hành kềm
theo Nghị định số177/CP ngày 20/10/1994 của Chính phủ)
Thực tế ở nước ta trong nhiều năm qua, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản đã xẩy ra
tình trạng lãng phí thất thoát vốn đầu tư do việc quản lý vốn đầu tư chưa thật chặt
chẽ. Thấy được thực trạng đó, Nhà nước đã thực hiện quản lý xây dựng thông qua
việc ban hành các chế độ, chính sách về giá, các nguyên tắc, các phương pháp lập
dự toán, các căn cứ định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá xây dựng ... Từ đó xác định
tổng mức vốn đầu tư, tổng dự toán công trình và dự tóa cho từng hạng mục công
trình nhằm hạn chê sự thất thoát vốn đầu tư của Nhà nước, nâng cao hiệu quả cho
quá trình đầu tư.
Cũng như các ngành nghề khác, mục tiêu hàng đầu của doanh nghiễp xây lăp là
phải thu được lợi nhuận. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tăng cường công tác
quản lý kinh tế mà trước hết là quản lý chi phí sản xuất, giá thành trong đó trọng
tâm là công tác hạch toán chi phí xản xuất và tính giá thành sản phẩm.
2. Nhiệm vụ của công tác quản lý hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
Đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp, kế toán ngành
phải đáp ứng được các nhiệm vụ sau :
_Kế toán chi phí nhất thiết phải được phân tích theo từng khoản mục chi phí, từng
hạng mục công trình, từng công trình cụ thể. Qua đó thường xuyên so sánh, kiểm
tra việc thực hiện dự toán chi phí, xem xét nguyên nhân vượt, hụt và đánh giá hiệu
quả kinh doanh.
_ Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là các công trình, hạng mục công
trình, các đơn đặt hàng,các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục ...Vì thế
phải lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng hạng mục hay giai đoạn của
hạng mục.

_Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị bản thân thiết bị do
chủ đầu tư vào để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây lắp
bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bởi vậy, khi nhận thiết bị do dơn vị chủ
đầu tư bàn giao để lắp đặt, giá các thiết bị được ghi vào bên Nợ TK 002_ “vật tư,
hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công “.
_Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật kết cấu và giá
trị thiết bị kèm theo như các thiết bị vệ sinh, thong gió, thiết bị sưởi ấm, điều hoà
nhiệt độ, thiết bị truyền dẫn...
III.VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP
1.Chi phí sản xuất và kế toán chi phí sản xuất trong đơn vị xây lắp:
a.Khái niệm chí phí sản xuất:
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh trong một thơì kỳ nhất định( tháng, quí, năm).Nói cách khác,
chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải
tiêu dùng trong một kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự
chuyển dịch vốn chuyển dịch của các yếu tố sản xuất của các đối tượng tinhs giá
thành(sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
b. Phân loại chi phí sản xuất:
Trong xây dựng cơ bản, việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ dựa vào các số liệu
tổng hợp về chi phí sản xuất mà còn căn cứ vào các số liệu cụ thể của từng loại chi
phí theo từng công trìng, hạng mục công trình trong từng thời điểm nhất định. Do
vậy, phân loại chi phí sản xuất là yêu cầu tất yếucho công tác quản lý và hạch toán
ở doanh nghiệp nói chung và ở doanh nghiệp xây dựng cơ bản nói riêng. Tùy theo
yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, góc độ xem xét chi phí... mà chi phí
sản xuất dược sắp xếp, phân loại theo các cách thức khác nhau.
Thông thường CPSX sản phẩm xây lắp được phân loại theo các tiêu thức sau đây:
 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Theo cách phân loại này các chi phí có nội dung, tính chất kinh tế giống nhau được

xếp vào một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh vực hoạt động
nào, ở đâu, mục đích và tác dụng của chi phí đó như thế nào.Theo cách phân biệt
này chi phí sản xuất được chia thành các yếu tố sau:
_Chi phí nguyên vật liệu gồm tòa bộ các chi phí về các loại nguyên vật liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà
doanh nghiệp đã sử dụng cho các hạt động sản xuất trong kỳ như xi măng, sắt thép,
cát, đá, sỏi, và các loại dầu mỡ vận hành máy...
_Chi phí nhân công gồm toàn bộ số tiền công phải trả, trích tiền BHXH, BHYT,
KPCĐ... của công nhân viên hoạt dộng trong doanh nghiệp.
_Chi phí khấu hao tài sản cố định: là số khấu hao doanh nghiệp trích cho tất cả các
loại tài sản cố định trong doanh nghiệp như các loại máy thi công (máy cẩu, máy
trộn bê tông, ...), nhà xưởng , ôtô...
_Chi phí dịch vụ mua ngoài: là toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã chi trả về các loại
dịch vụ mua từ bên ngoài như tiền điện, tiền nước, ...phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
_Chi phí bằng tiền khác: là toàn bộ các chi phí dùng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh ngoài các chi phí kể trên.
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí giúp nhà
quản lý biết được kết cấu, tỷ trọng chi phí chi ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Qua đó doanh nghiệp đánh giá được tình hình thực hiện dự toán chi phí thi
côngvà rút kinh nghiệm cho lần sau. Hơn nữa, cách phân loại này còn là cơ sở để
lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố của bảng thuyết minh báo cáo tài chính,
xây dựng định mức vốn, lưu động, lập kế hoạch mua sắm vật tư, tổ chức lao động
tiền lương, thuê máy thi công,...
 Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí.
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sản
xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chi phí chỉ bao
gồm những chi phí có cùng mục đích và cùng công dụng, không phân biệt chi phí
đó có nội dung kinh tế như thế nào. Vì vậy, cách phân loại này gọi là phân loại chi
phí theo khoản mục. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành

các khoản mục chi phí sau:
_Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu sử dụng trực
tiếp cho thi công công trình mà đơn vị xây lắp bỏ ra (vật liệu chính, vật liệu phụ,
các cấu kiện vật tư chế sẵn và hoàn thiện công trình). Chi phí này không bao gồm
các thiết bị do chủ đầu tư bàn giao.
_Chi phí nhân công trực tiếp: là toàn bộ tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp của
công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân vận chuyển vật liệu thi công, công nhân
làm nhiệm vụ bảo dưỡng dọn dẹp vật liệu trên công trình ...Khoản mục này không
bao gồm tiền lươngvà các khoản có tính chất lượng của công nhân gián tiếp sản
xuất như công nhân điều khiển máy thi công, công nhân vận chuyển ngoài cự ly.
_Chi phí sử dụng máy thi công: là chi phí trực tiếp liên quan đến việc sử dụng máy
thi công để thực hiện công tác xây dựng và lắp đặt các công trình, hạng mục công
trình bao gồm tiền khấu hao máy, chi phí nguyên liệu động lực dùng cho máy thi
công, lương công nhân điều khiển máy...
_Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí có liên quan đến toàn Xí nghiệp tổ
đội xây lắp tức là liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình. Nội dung
các khoản chi phí này gồm có: lương nhân viên quản lý tổ đội hoặc công trường,
các khoản trích theo lươngcủa nhân viên quản lý hoặc công nhân sản xuất. Lương
phụ của công nhân sản xuất, chi phí khấu hao tài sản cố định (nhưng không phải là
khấu hao máy móc thi công), chi phí mua ngoài (điện nước, điện thoại, văn phòng
phẩm...), chi phí bằng tiền khác (chi tiếp khách, nghiệm thu bàn giao công
trình ...).
Cách phân loại phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung
cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm xây lắp và phân tích tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành. Từ đó lập định mức chi phí sản xuất và kế hoạch giá
thành cho kỳ sau.
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp và phương pháp lập dự toán trong xây dựng cơ
bảnlà dự toán được lập cho từng đối tượng xây dựng theo các khoản mục giá thành
nên phương pháp phân loại theo chi phí theo khoản mục là phương pháp được sử
dụng phổ biến trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản

Trên đây là các cách phân loại chi phí thường dùng trong doanh nghiệp xây dựng
cơ bản. Ngoài ra, trong kế toán quản trị, ta còn phân loại chi phí thành định phí và
biến phí, chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
c. Nội dung kế toán chi phí xản xuất
Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất.
* Đối tượng kế toán tập hợp chi phí là phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất cần
phải tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và tính chi phí sản phẩm.
Như vậy, thực chất của việc xác định đối tượng hạch toán chi phí là việc xác định
giới hạn tập hợp chi phí hay xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.
Để xác định được đối tượng tập hợp chi phí phù hợp với mỗi doanh nghiệp cần
phải dựa vào các căn cứ sau:
_Đặc điểm và công dụng của chi phí sản xuất.

×