Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.18 KB, 14 trang )

Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động ủy thác tại công ty Tài
chính Dầu khí
3.1. Kiến nghị với ngân hàng nhà nớc Việt Nam
3.1.1. Nhanh chóng ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp luật có
liên quan
Nh đã nói ở trên, nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ rất quan trọng tại các
nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển ngay từ khi nó mới ra đời cho tới nay.
Nghiệp vụ ủy thác bao gồm các loại hình rộng lớn và đa dạng, bao trùm hầu hết
các hoạt động trong nền kinh tế, gần nh hoạt động kinh tế nào cũng đa đợc về
nghiệp vụ ủy thác. Đây là một loại hình hoạt động có mức độ tín nhiệm cao của
các tổ chức thực hiện và tại các nớc phát triển đã hình thành những hành lang
pháp lý đầy đủ, chi tiết nhằm qui định chặt chẽ về hoạt động này do đây là hoạt
động nhạy cảm, dễ gặp phải rủi ro đạo đức của vấn đề ngời đại lý ủy thác. Luật về
ủy thác rất chặt chẽ, qui định rõ ràng những đối tợng nào đợc phép tham gia ủy
thác và nhận ủy thác cũng nh nêu rõ quyền hạn, nghĩa vụ của các bên và các điều
khoản mẫu phải ghi rõ trong trờng hợp đồng ủy thác.
Ngân hàng nhà nớc Việt Nam cần tạo ra hành lang pháp lý cụ thể cho hoạt
động này, hớng dẫn các tổ chức tài chính nói chung và các công ty tài chính trong
tổng công ty nói riêng hoạt động đúng trong lĩnh vực này và có cơ hội cạnh tranh
bình đẳng với nhau. Hiện nay, các căn cứ pháp luật về ủy thác mới chỉ xuất hiện
chung chung trong một văn bản pháp luật đợc quốc hội thông qua ngày
12/12/1997 , Trong điều 71 nghiệp vụ ủy thác và đại lý của văn bản này có ghi:
Tổ chức tín dụng đợc quyền ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực
có liên quan tới các hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu t của
các tổ chức cá nhân theo hợp đồng.
Nh vậy nghiệp vụ ủy thác đã đợc công nhận là một hoạt động hợp pháp của
các tổ chức tín dụng tại nớc ta nhng việc thực hiện nghiệp vụ này nh thế nào thì
cha có một văn bản pháp luật nào đề cập tới. Mọi việc vẫn dừng lại ở mức độ
chung chung, nh vậy sẽ rất khó cho các tổ chức tín dụng muốn thực hiện nghiệp
vụ này mà ở đây cụ thể là công ty Tài chính Dầu khí.


3.1.2. Cho phép công ty Tài chính Dầu khí thực hiện các nghiệp vụ mới
Ngân hàng Nhà nớc cũng cần xem xét lại việc mở rộng, phát triển những
nghiệp vụ mới, từng bớc đa dạng hoá nội dung hoạt động của các công ty tài
chính trong tổng công ty. Các tổng công ty Nhà nớc là những doanh nghiệp lớn,
qui mô hoạt động rộng khắp cả nớc, thậm chí cả ở nớc ngoài nên có nhu cầu thanh
toán, điều hoà vốn giữa các doanh nghiệp thành viên là rất cần thiết. Vì vậy đề
nghị Ngân hàng Nhà nớc cho phép các công ty tài chính trong Tổng công ty đợc
thực hiện chức năng thanh toán giữa các công ty thành viên trong Tổng công ty.
Khi đợc thực hiện chức năng thanh toán, công ty tài chính sẽ khai thác đợc vốn
nhàn rỗi trong Tổng công ty thông qua các nghiệp vụ tài chính. Ngoài ra để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty đổi mới máy móc thiết bị,
nên chăng Ngân hàng Nhà nớc cho phép các công ty tài chính trong Tổng công ty
thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối, vì nếu công ty Tài chính Dầu khí muốn
nhận vốn ủy thác từ các tổ chức nớc ngoài sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thêm vào
đó do đặc thù của ngành dầu khí là vốn đầu t của nớc ngoài nhiều, vốn cho mỗi dự
án là rất lớn và hầu hết là các nguồn ngoại tệ nên việc tiếp nhận vốn và quản lý
các luồng tiền phát sinh trong quá trình thực hiện các dự án nếu lại phải qua một
trung gian tài chính thứ ba là các ngân hàng thơng mại thì sẽ rất bất tiện. Đồng
thời nếu đợc phép thực hiện nghiệp vụ ngoại hối, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
công ty Tài chính Dầu khí trong việc giúp đỡ đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng
cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh
nghiệp trong Tổng công ty.
3.2. Kiến nghị với Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
3.2.1. Tổng công ty xem xét nhanh chóng thực hiện ủy thác vốn của
Tổng công ty cho công ty tài chính
Tổng công ty Dầu khí là một trong những tập đoàn kinh tế có kết quả kinh
doanh tốt nhất của Việt Nam trong những năm qua. Đây là một Tổng công ty hoạt
động đa ngành có mũi nhọn là dầu khí, một ngành kinh tế kỹ thuật rõ ràng về mặt
kỹ thuật, khai thác, chế biến, phân phối đều phụ thuộc lẫn nhau. Do vậy, các công
ty thành viên của Tổng công ty đều có mối liên hệ với nhau rất lớn trong việc khai

thác và tiêu thụ sản phẩm. Các dự án của ngành dầu khí do vậy thờng có vốn đầu
t rất lớn, vì đặc tính là ngành kỹ thuật cao và thờng phải đầu t mang tính đồng bộ
liên quan tới nhiều khâu. Các công ty thành viên của Tổng công ty đều luôn rất
cần nguồn vốn đầu t nhất là nguồn vốn từ Tổng công ty để phát triển. Trong bối
cảnh Tổng công ty đang phát triển theo hớng tập đoàn kinh tế mạnh có khả năng
cạnh tranh trên thế giới thì việc hoàn thiện cơ chế phân phối vốn tới các công ty
thành viên trong Tổng công ty là rất quan trọng.
Trong giai đoạn đầu khi mô hình công ty mẹ-công ty con cha phát triển thì
việc đầu t cho các công ty thành viên có thể thông qua hoạt động ủy thác của công
ty tài chính trong Tổng công ty. Về lâu dài có thể phát triển công ty mẹ của tập
đoàn chính là công ty tài chính thì cơ chế đầu t sẽ đỡ phức tạp hơn nhng hiện nay
tốt nhất là sử dụng nghiệp vụ ủy thác qua công ty tài chính để lợi dụng lợi thế của
công ty tài chính trong việc thẩm định dự án, đầu t tài chính,...
Nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ đa dạng gồm nhiều hoạt động. Đây là
một loại hình dịch vụ có chất lợng cao, đảm bảo sự thoả mãn cho bên ủy thác là
bên nhận ủy thác, nó đảm bảo sự chia sẻ rủi ro và đem lại khả năng có lợi cao.
Thực tế là các tập đoàn trên thế giới cũng rất a chuộng hình thức này vì đối với
các tập đoàn lớn đa ngành thì việc chuyên môn hóa trong từng lĩnh vực kinh
doanh là điều quan trọng do vậy công ty mẹ muốn phát triển đa ngành nhằm hớng
đên tận dụng lợi thế qui mô hoạt động thì họ cần những nhà chuyên môn trong
quản lý nguồn vốn của mình đầu t vào các công ty con chứ một mình công ty mẹ
sẽ không thể bao quát đợc toàn bộ hoạt động của các ngành. Nhất là đối với các
tập đoàn mà công ty tài chính cũng chỉ là một công ty con thì nó không thể giao
vốn đầu t vào các công ty khác trực tiếp cho công ty tài chính đợc do vậy nó có
thể sử dụng hình thức ủy thác vốn cho công ty tài chính mà từ đó vốn có thể luân
chuyển tới các công ty con nhanh và hiệu quả. Hình thức này là rất phù hợp với
các Tổng công ty Nhà nớc có xu hớng phát triển trở thành các tập đoàn kinh tế và
đã thành lập các công ty tài chính thuộc Tổng công ty.
Công ty Tài chính Dầu khí có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát
triển thành tập đoàn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đồng thời luật pháp Việt

Nam cũng không ngăn cản việc Tổng công ty ủy thác vốn đầu t cho các công ty
con của mình. Trong phơng hớng hoạt động, điều lệ của công ty cũng rất chú
trọng đến nguồn ủy thác từ Tổng công ty nhng trên thực tế thì công ty Tài chính
Dầu khí vẫn cha nhận đợc vốn ủy thác từ Tổng công ty qua một năm hoạt động.
Vậy nên chăng Tổng công ty Dầu khí xem xét nhanh chóng thực hiện việc
ủy thác vốn cùng các loại tài sản, đặc biệt là các tài sản tài chính, cho công ty tài
chính quản lý vừa để tăng lợng vốn kinh doanh cho công ty vừa để các nguồn vốn,
tài sản này của Tổng công ty đợc đầu t, quản lý hiệu quả, an toàn nhất và thể hiện
đợc tính chuyên môn hóa, tính hiệu quả trong hoạt động của Tổng công ty
tronglĩnh vực tài chính, một yếu tố quan trọng để phát triển thành tập đoàn kinh tế
mạnh trên thế giới.
3.2.2. Tổng công ty xem xét giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản
trung tâm của Tổng công ty
Các công ty thành viên của Tổng công ty Dầu khí gồm nhiều loại hình liên
doanh, công ty hạch toán phụ thuộc, công ty hạch toán độc lập nhng đa số đều có
đặc điểm là luôn có những luồng tiền lớn phát sinh trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh do đặc thù của ngành nên doanh thu và chi phí thờng lớn. Những
luồng tiền này đợc tập trung tại tài khoản của Tổng công ty mở tại ngân hàng
ngoại thơng gọi là tài khoản trung tâm. Với một Tổng công ty lớn nh Tổng công
ty Dầu khí và đặc điểm sản phẩm chính là các sản phẩm từ dầu nên doanh thu là
rất lớn nếu so với nền kinh tế Việt Nam nên lợng tiền trong tài khoản trung tâm
này là rất lớn.
Theo qui định của Tổng công ty Dầu khí, các đơn vị thành viên hạch toán
phụ thuộc chỉ lập các báo cáo tài chính còn các luồng tiền phát sinh sẽ đợc đa về
Tài khoản trung tâm để Tổng công ty quản lý; các đơn vị hạch toán độc lập thì
hạch toán doanh thu, chi phí phát sinh của đơn vị rồi nộp lại Tổng công ty theo
một tỷ lệ nhất định theo từng quí.
Hiện nay, tài khoản trung tâm này đơn thuần là một loại tài khoản tiền gửi
tại ngân hàng ngoại thơng và do phòng Tài chính của Tổng công ty quản lý. Nh
vậy xét trên bình diện của ngành dầu khí thì đó là một sự lãng phí trong khi các

công ty thành viên thiếu vốn lu động vẫn phải đi vay ngân hàng với lãi suất thơng
mại vừa cao vừa chịu những sức ép hoặc phải đi vay vốn ủy thác từ các tổ chức tín
dụng của công ty Tài chính Dầu khí nên gây lãng phí cho ngành dầu khí. Ngoài ra
với việc đã thành lập công ty Tài chính thì việc quản lý tài khoản này nên giao về
cho công ty Tài chính sẽ phù hợp hơn vì đây vừa là một đơn vị kinh doanh vừa có
nhiệm vụ quan trọng là quản lý tài chính của ngành, đảm bảo nhu cầu vốn đầu t
của ngành và sử dụng vốn của ngành có hiệu quả nhất.
Trong khi đó nếu giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm của
Tổng công ty thì do công ty tài chính, một đơn vị có chức năng kinh doanh, nên sẽ
biết cách và có thể làm số tiền trong tài khoản trung tâm đem lại lợi nhuận cao
nhất cho Tổng công ty mà vẫn giữ đợc sự an toàn cần thiết chứ không nh ban tài
chính của Tổng công ty không thể làm các công việc nh đầu t vốn và nhiều hoạt
động liên quan tới việc kinh doanh trên thị trờng tiền tệ, thị trờng vốn một cách
hiệu quả. Khi đợc giao tài khoản trung tâm thì công ty Tài chính Dầu khí có nhiều
cơ hội hơn để tiếp xúc với các dự án lớn trong ngành dầu khí và cả ngoài ngành
dầu khí, công ty cũng có thuận lợi hơn trong việc thực hiện chức năng đảm bảo
toàn bộ các nguồn vốn tín dụng cho tất cả các dự án của Tổng công ty và các công
ty thành viên, vốn là việc rất khó khăn vì hầu hết các dự án của ngành dầu khí đều
có mức đầu t lớn so với mức vốn tự có của công ty tài chính là 100 tỷ VND và do
các dự án của ngành dầu khí thờng triển khai chậm so với dự án. Với việc đợc
quản lý tài khoản trung tâm, công ty tài chính có khả năng đầu t vào nhiều dự án ở
trong cũng nh ngoài ngành hơn do số lợng vốn trong tài khoản trung tâm là rất lớn
so với mặt bằng các dự án ở Việt Nam do vậy có thể đem lại lợi nhuận cao cho
Tổng công ty. Tất nhiên do đây là tài khoản trung tâm của một Tổng công ty
mạnh của nền kinh tế đất nớc nên việc đảm bảo tính an toàn của nó là rất quan
trọng nhng một lợng vốn lớn nếu đợc một đội ngũ những ngời có chuyên môn
cao, giàu kinh nghiệm quản lý sẽ tạo đợc rất nhiều lợi thế với việc đa dạng hóa
danh mục đầu t với tỷ lệ thích hợp giữa tính thanh khoản và tính sinh lời.
Với một công ty tài chính hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà chỉ
có số vốn tự có là 100 tỷ VND nh công ty dầu khí thì việc đợc quản lý tài khoản

trung tâm của Tổng công ty với số tiền gấp rất nhiều lần số vốn tự có sẽ đem lại
cho công ty những lợi thế nhất định trong việc cạnh tranh với các tổ chức tín dụng
khác. Khi công ty tài chính đã có đủ kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài
chính thì việc giao cho công ty tài khoản trung tâm là có đủ độ tin cậy, khi đây là

×