Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Hiện tượng tôn giáo mới ở một số tỉnh đồng bằng bắc bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 190 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------

VŨ VĂN CHUNG

"HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI"
Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chủ tịch hội đồng:

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS.NGND. Nguyễn Hữu Vui

GS.TS. Đỗ Quang Hưng

Hà Nội - 2016

1


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa
học của luận án chưa từng được công bố trên bất


kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận án

Vũ Văn Chung

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................... 5
1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam ..... 5
1.1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới .......................... 5
1.1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam ........................... 9
1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ... 14
1.2.1. Các đề tài, cơng trình nghiên cứu các cấp ............................................. 14
1.2.2. Tài liệu điền dã khảo sát về “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng bằng
Bắc Bộ. ............................................................................................................ 19
1.3. Nghiên cứu về thái độ, cách thức ứng xử đối với hiện tượng tơn giáo
mới ở trong và ngồi nước ................................................................................ 20
1.4. Các vấn đề nghiên cứu đặt ra, khung lý thuyết và một số khái niệm
công cụ nghiên cứu ............................................................................................ 23
1.4.1. Các vấn đề nghiên cứu đặt ra ................................................................. 23
1.4.2. Khung lý thuyết nghiên cứu .................................................................. 25
1.4.3. Một số khái niệm công cụ của luận án .................................................. 28
Chương 2: “HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI” TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM............................................................................................................ 34
2.1. “Hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới .................................................. 34
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới .... 34
2.1.2. Sự phân loại, đặc trưng của “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới .... 45

2.1.3. Một số “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới .................................... 51
2.2. “Hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam .................................................... 54
2.2.1. Sự ra đời và phát triển của “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam ..... 54
2.2.2. Phân loại và đặc trưng của “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam ...... 64
Tiểu kết chương 2: ............................................................................................. 72
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA “HIỆN TƯỢNG TÔN
GIÁO MỚI” Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY ........................................ 74
3.1. Điều kiện ra đời và phát triển của “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay ........................................................................................ 74
3.1.1. Đồng bằng Bắc Bộ tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng thờ cúng dân
gian, đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu ............................................................... 74

3


3.1.2. Đồng bằng Bắc Bộ là nơi tồn tại nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật giáo....... 79
3.1.3. Tâm thức của cư dân đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và cư dân Việt nói
chung với tín ngưỡng, tơn giáo là đa phức, nên một bộ phận dễ tiếp nhận hiện
tượng tôn giáo mới ........................................................................................... 82
3.2. Thực trạng “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh thành đồng Bằng
Bắc Bộ hiện nay ................................................................................................. 85
3.2.1. Thực trạng “hiện tượng tôn giáo mới” nội sinh ..................................... 85
3.2.2. Thực trạng “hiện tượng tôn giáo mới” ngoại nhập .............................. 104
3.3. Tác động của “hiện tượng tôn giáo mới” tới đời sống ở một số tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay ...................................................................................... 110
3.3.1. Tác động tới đời sống chính trị - xã hội .............................................. 110
3.3.2. Tác động tới đời sống kinh tế .............................................................. 119
3.3.3. Tác động tới đời sống văn hóa, đạo đức .............................................. 123
Tiểu kết chương 3:............................................................................................... 135
Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG CỦA “HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI”

Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ....... 138
4.1. Cơ sở dự báo xu hướng biến đổi “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số
tỉnh thành đồng bằng Bắc Bộ hiện nay ......................................................... 138
4.2. Xu hướng biến đổi của “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay ...................................................................................... 143
4.2.1. Tính tất yếu của sự đa dạng hóa “hiện tượng tơn giáo mới” ................... 143
4.2.2. Cải biến những yếu tố cực đoan, phản văn hóa, đạo đức để tồn tại .... 146
4.2.3. Sự mở rộng địa bàn hoạt động của “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số
tầng lớp nhân dân ........................................................................................... 148
4.3. Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị đối với “hiện tượng tôn giáo mới”
ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay ......................................................................... 151
4.3.1. Một số vấn đề đặt ra............................................................................. 151
4.3.2. Một số khuyến nghị ............................................................................. 163
Tiểu kết chương 4 ............................................................................................ 166
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 168
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................... 171
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 173
PHỤ LỤC

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Nguyên nhân theo đạo của tín đồ Ngọc Phật Hồ Chí Minh và Bà Điền ở
một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. ............................................................ 113
Bảng 3.2. Ý kiến của địa phương về nguyên nhân theo đạo bà Điền và Ngọc Phật
Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ................................. 113
Bảng 3.3. Ý kiến của địa phương về tác động tiêu cực của đạo bà Điền và Ngọc
Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ......................... 115

Bảng 3.4. Ý kiến của địa phương về tác động tích cực của đạo bà Điền và Ngọc
Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ......................... 119
Bảng 3.5. Ý kiến của tín đồ về tác động tích cực của đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ
Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. ...................................... 120
Bảng 3.6. Ý kiến của tín đồ về mức tiền đóng góp cho các hoạt động của đạo bà
Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ .. 120
Bảng 3.7. Ý kiến của tín đồ về tơn giáo đã tin trước khi theo đạo bà Điền và Ngọc
Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ......................... 124
Bảng 3.8. Ý kiến của tín đồ về mức độ tham gia sinh hoạt thờ cúng đạo bà Điền và
Ngọc Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ............... 125
Bảng 3.9. Ý kiến của tín đồ về tổ chức hoạt động của đạo bà Điền và Ngọc Phật
Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ................................. 126
Bảng 3.10. Ý kiến của tín đồ đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh về đời sống
kinh tế - xã hội tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ .............................. 132
Bảng 3.11. Ý kiến của tín đồ đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh về điều kiện
để nhà nước thừa nhận hoạt động tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ . 133
Bảng 3.12. Ý kiến của tín đồ đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh về nhận thức
trách nhiệm cơng dân của mình tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ..... 134
Biểu đồ 1: Nguyên nhân theo đạo ......................................................................... 114
Biểu đồ 2. Yếu tố để được Nhà nước thừa nhận tư cách pháp nhân ............................. 148

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Hiện tượng tôn giáo mới” xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, từ thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay
cũng đã có hơn 70 – 80 hiện tượng tơn giáo mới, chúng hiện hữu trong đời sống tín
ngưỡng, tơn giáo nước ta. Hiện nay, các hiện tượng tôn giáo mới rất đa dạng, với

những hoạt động hết sức phức tạp gây ảnh hưởng xấu không chỉ đến đời sống tín
ngưỡng, tơn giáo mà cịn tạo nên những hệ lụy về kinh tế-xã hội và chính trị. Tất
cả những hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở nước ta đều chưa được thừa nhận tư
cách pháp nhân hoạt động, việc nhận diện hoạt động của chúng cịn rất khó khăn.
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng kinh tế trọng điểm lớn của cả nước có điều kiện
địa lí, tự nhiên, kinh tế xã hội khá thuận lợi. Khu vực này gồm 11 tỉnh thành với thủ
đô Hà Nội là trái tim của cả nước, trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học kỹ
thuật và công nghệ... quan trọng. Thời gian qua, ở nhiều tỉnh thành trong vùng cũng
xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới như: Long Hoa Di Lặc, Ngọc Phật Hồ Chí
Minh, Thanh Hải Vơ Thượng Sư, Chân Khơng, đạo Mẫu Lạc Hồng Âu Cơ, đạo
Hồng Thiên Long, Pháp Luân Công... Các “hiện tượng tôn giáo mới” phát triển nơi
đây cho thấy rằng: trào lưu tôn giáo mới gắn với những biến động của thế giới cũng
đã xuất hiện ở nước ta nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Mặc dù mới chớm
nở, nhưng số các “hiện tượng tơn giáo mới” có tới vài chục tên gọi khác nhau, biểu
hiện hỗn tạp. Cho đến nay, chưa có sự thống kê đầy đủ nào về các đạo lạ và số lượng người tin theo. Tên gọi của từng “hiện tượng tôn giáo mới” ở mỗi địa bàn lại
khác nhau dù chúng chỉ là một, gây ra những nhầm lẫn trong thống kê số lượng các
đạo lạ từ các địa phương, cơ sở. Các đạo lạ này đều khơng được chính quyền các
cấp cơng nhận, do tính chất và tiêu chí hoạt động tơn giáo khơng rõ ràng, thường lén
lút tụ tập sinh hoạt bất hợp pháp, trong đó, có một số “hiện tượng tơn giáo mới” có
thể coi là tà đạo. Đặc biệt, ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, các “hiện tượng tôn giáo
mới” xuất hiện đều có những đặc trưng riêng so với các khu vực miền Trung và
miền Nam. Miền Bắc có rất nhiều “hiện tượng tơn giáo mới” có nguồn gốc từ tín
ngưỡng dân gian, đặc biệt là từ các hình thức của Đạo Mẫu.

1


Sự xuất hiện của “hiện tượng tôn giáo mới” ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ
trong những năm gần đây, phần nào cũng là liều thuốc tinh thần cho một số người,
nhóm người có hồn cảnh khó khăn, éo le, rủi ro tìm được bệ đỡ về niềm tin, an ủi

trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của “hiện tượng tôn
giáo mới” tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, trật tự an tồn xã hội là rất đáng
kể. Đặc biệt là, hiện nay, cùng với việc cả nước đang bước vào thời kỳ mở cửa, hội
nhập vào thế giới với sự chi phối của kinh tế thị trường, xu hướng biến đổi của các
“hiện tượng tơn giáo mới” trong cả nước nói chung và khu vực đồng bằng Bắc Bộ
là rất khó đốn định, đặt ra nhiều vấn đề khó khăn cho cơng tác quản lý và hoạch
định chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu tơn giáo mới về lý luận và thực tiễn là rất cần thiết, hữu ích.
Chính vì những lý do nêu trên, bằng phương pháp tiếp cận từ chuyên
ngành CNDVBC & CNDVLS, chúng tôi chọn vấn đề: “Hiện tượng tôn giáo
mới” ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận
án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: Phân tích sự hình thành, thực trạng và những tác động
của các “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh thành phố vùng đồng bằng Bắc
Bộ hiện nay để từ đó nhận thức được những đặc trưng cơ bản của nó và nêu ra
những quan điểm, khuyến nghị nhằm xây dựng chính sách ứng xử phù hợp với
chúng.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, luận án này có ba
nhiệm vụ được đặt ra cần giải quyết:
Một là, tổng quan chung về “hiện tượng tôn giáo mới” và vùng đổng bằng
Bắc Bộ hiện nay.
Hai là, phân tích thực trạng, tác động của “hiện tượng tơn giáo mới” vùng
đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Ba là, dự báo về xu hướng biến động, một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị
đối với “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.

2



3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhân học, xã hội học, văn hóa học về tơn giáo.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
liên ngành trong khoa học xã hội nhân văn như: Triết học và Tôn giáo học, phương
pháp DVBC&DVLS, thống nhất lơgíc – lịch sử, phân tích và tổng hợp tài liệu,
phương pháp xã hội học: điền dã, phỏng vấn và điều tra… về “hiện tượng tôn giáo
mới”. Luận án cũng sử dụng kết quả của các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố có
liên quan đến đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là một số
“hiện tượng tôn giáo mới” ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian, luận án lựa chọn một số tỉnh thành phố
tiêu biểu ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ có xuất hiện những “hiện tượng tôn giáo
mới” như: Hà Nội, Hải Dương, Hải Phịng, Nam Định. Về thời gian, luận án tìm
hiểu về các “hiện tượng tôn giáo mới” từ năm 1990 cho đến nay. Về mẫu điển
hình: Nhóm tơn giáo mới liên quan đến thờ cúng Hồ Chí Minh, Long Hoa Di Lặc,
Pháp Luân Công và Thanh Hải Vô Thượng Sư.
5. Đóng góp của luận án
Phân tích điều kiện và các tiền đề xuất hiện, phân loại, đặc trưng và nêu thực
trạng hoạt động của một số “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam
nói chung, ở một số tỉnh thành phố của đồng bằng Bắc bộ hiện nay nói riêng.
Trên cơ sở đó luận án đánh giá những tác động của chúng đối với đời sống xã
hội, xu hướng biến động, những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị ứng
xử từ hoạt động của “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách tơn
giáo của Đảng và Nhà nước ta đối với tơn giáo nói chung, “hiện tượng tơn giáo
mới” nói riêng. Luận án cịn có thể làm tài liệu cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam.


3


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Dựa trên những tư liệu, nghiên cứu của các học giả, quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tơn giáo nói chung và “hiện
tượng tơn giáo mới” nói riêng, luận án phân tích, rút ra các đặc trưng và nhận diện
về “hiện tượng tôn giáo mới” hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án khảo sát thực trạng hoạt động, đánh giá tác
động của một số “hiện tượng tôn giáo mới” ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và
đưa ra xu hướng biến động, những vấn đề đặt ra, đề xuất khuyến nghị ứng xử
nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của “hiện tượng tôn giáo mới” đối với
đời sống xã hội ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương 12 tiết.

4


Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới
Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới là mảng đề tài được
giới học giả phương Đông và phương Tây khá chú trọng. Là một vấn đề phức tạp
và nhạy cảm, vì vậy, có nhiều quan điểm khác nhau, các tranh luận sôi nổi khi đưa
ra khung lý thuyết về “hiện tượng tơn giáo mới”. Có thể kể đến một số tư liệu tiêu
biểu được viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt của các tác giả sau đây:
- Bryan Wilson và Jamie Cresswell (2001): New Religious Movements Challenge and response (Phong trào tôn giáo mới – thách thức và phản ứng), In

association with the Institue of Oriental Philosophy European Centre, London and
New York. Cuốn sách này được viết bằng tiếng Anh, tập trung vào phân tích
những phản ứng khơng chỉ của cá nhân, mà đặc biệt là các thể chế của xã hội
đương đại đối với những tác động của hiện tượng tôn giáo mới, ảnh hưởng và hậu
quả xã hội của các tôn giáo mới. Các tôn giáo mới rất thành công trong việc gây
ảnh hưởng rộng lớn để được nhiều người biết đến, nhưng là một thực thể tơn giáo
phi chính thống, tơn giáo mới phải mất một thời gian dài để được cộng đồng nói
chung chấp nhận. Khơng chỉ dừng lại ở việc xem xét quan niệm ủng hộ của những
người theo tôn giáo mới và những phản ứng phê phán tôn giáo mới, cuốn sách còn
đề cập đến một vấn đề lớn đó là mối quan hệ giữa các tơn giáo mới với các thể chế
chính của xã hội đương đại.
- Mary Farrell Bednarowski (1989), New Religion and the Theological
Imagination in America (Tôn giáo mới và tư tưởng thần học của chúng ở Mỹ),
Indiana University press Bloomington and Indianapolis. Được viết bằng tiếng Anh,
nội dung cập đến những khía cạnh thần học trong các tôn giáo mới ở Mỹ. Đây là
một trong những nghiên cứu mang tính đột phá của tác giá trong vấn đề so sánh
nghiên cứu các phong trào tôn giáo mới ở Mỹ, đánh giá một cách khoa học và
khách quan về những tư tưởng thần học của các phong trào tôn giáo mới. Tác giả
rất nghiêm túc và có nhiều nỗ lực nghiên cứu vấn đề này dựa vào những trải
5


nghiệm hàng ngày của tín đồ các tơn giáo mới. Qua đó chỉ ra vai trị của các tơn
giáo mới ở Mỹ trong việc giúp tín đồ tìm thấy ý nghĩa cuộc sống và định hướng lối
sống của họ trên cơ sở phân tích từ cái nhìn sâu sắc về các quan điểm thần học của
phong trào này.
- Sung Hae King and Iames Heisig (2008), Encounters The New Religions
of Korea and Christianity (Cuộc gặp gỡ giữa tôn giáo mới của Hàn Quốc và Kitô
giáo), The Royal Asiatic Society Korea Brach Souel. Nội dung cuốn sách phân tích
về ba tơn giáo mới của Hàn Quốc là Cheondo gyo, Deajong gyo và Won

Buddhism. Mối quan hệ giữa các tôn giáo mới trong đời sống tinh thần của người
Hàn Quốc và sự gặp gỡ của chúng với Kitô giáo. Sự tiếp biến của những tôn giáo
mới này đối với những thay đổi trong bối cảnh hội nhập thế giới.
- Lý giải tôn giáo của Trác Tân Bình, (Trần Nghĩa Phương dịch), Nxb. Hà
Nội, năm 2007. Là cơng trình từ tầm nhìn và góc độ văn hóa thế giới, tác giả trình
bày và lý giải tôn giáo Trung Quốc và tôn giáo thế giới cùng với những cơng trình
nghiên cứu về chúng. Khi nói về “hiện tượng tôn giáo mới”, tác giả khẳng định
trong xã hội hiện đại với sự nổi lên của các tôn giáo mới từ đầu thập kỷ 90, phân
chia thành năm loại hình: Những đồn thể sùng bái diễn biến từ truyền thống Kitơ
giáo; Giáo phái mới thốt thai từ Islam giáo; Những đồn thể thần bí chủ nghĩa
liên quan với Ấn Độ giáo và Sikha giáo, có sắc thái trầm tư mặc tưởng của tôn
giáo phương Đông; Những tôn giáo mới được hình thành do sự phân hóa từ Phật
giáo, Thần Đạo giáo; Những đoàn thể mới nổi lên kết hợp nhân tố thần bí phương
Đơng với tâm lý học hiện đại, để chữa bệnh bằng tín ngưỡng. Từ đó, tác giả rút ra
đặc điểm cơ bản của các tôn giáo mới này là sự vứt bỏ hoặc phản đối truyền thống,
hoài nghi uy quyền truyền thống và quay lại chủ nghĩa thần bí [15; tr.203].
- Trung tâm nghiên cứu tơn giáo, Đại học KHXH&NV, ĐHQG Thành phố
Hồ Chí Minh (2013), Quan điểm của các học giả Âu – Mỹ về phong trào tôn giáo
mới, biên dịch và hiệu đính Trương Văn Chung, Nguyễn Thanh Tùng, Nxb Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của cuốn sách này là sự tổng kết
tồn bộ tình hình và kết quả nghiên cứu tôn giáo mới từ nửa đầu thế kỷ XX đến
những năm đầu thế kỷ XXI. Thông qua các bài viết nghiên cứu, các hội thảo khoa
học, sách, báo, những quan điểm, nhận định, đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập
6


nhau, các tác giả trình bày những vấn đề mang tính lý luận về phong trào tơn giáo
mới và những vấn đề cơ bản của tôn giáo mới ở Âu – Mỹ như: tên gọi, nguồn gốc,
cơ sở xã hội, chiều kích, đặc trưng của phong trào tơn giáo mới; về mặt thực tiễn
cơng trình cũng làm rõ một số lĩnh vực liên quan đến tôn giáo mới như: vấn đề lạm

dụng phụ nữ, trẻ em, vấn đề bạo lực, kinh sách, giáo lý của tôn giáo mới.
- Viện Thông tin Khoa học xã hội, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia, Tôn giáo và đời sống hiện đại, năm 1998. Đây là cơng trình tập hợp một
số bài viết về “hiện tượng tôn giáo mới”, xem sự xuất hiện của đạo lạ như là hiện
tượng không thể tránh khỏi của các quốc gia, có ảnh hưởng chủ yếu là tiêu cực:
phản văn hóa, phi nhân tính như giáo phái A.UM Shinrykio ở Nhật Bản, Pháp
Luân Công ở Trung Quốc, Đạo Con Trời ở Mỹ… Những nghiên cứu này chỉ dừng
lại ở khía cạnh mơ tả, liệt kê mà chưa phân tích và chỉ ra bản chất, ý nghĩa của các
hiện tượng tôn giáo mới.
- Tác giả Trần Nghĩa Phương với bài: “Vấn đề “tôn giáo mới” trong cơng
trình nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc, in trong cuốn Nghiên cứu Tơn
giáo, tín ngưỡng, chặng đường 20 năm (1991-2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Sự
Thật, Hà Nội, năm 2011. Bài viết giới thiệu những ý kiến chính của một số nhà
nghiên cứu Trung Quốc về vấn đề tôn giáo mới, tác giả cũng chỉ ra một số đặc
trưng của tà giáo như: sùng bái giáo chủ, thần hóa giáo chủ, chống lại xã hội hiện
thực: thuyết giáo ngày tận thế và chống lại xã hội: thực hành lối sống phi pháp, vô
nhân đạo.
- E.G.Balagush kin: “Các tơn giáo mới với tính cách là hiện tượng văn hóa
xã hội và hệ tư tưởng”, Ono, No 5, pp.90 - 100, Russian, năm 1996. Trong bài viết
này, tác giả có cái nhìn cởi mở với các tơn giáo mới khi xem xét sự xuất hiện của
các “hiện tượng tơn giáo mới” là vấn đề thuộc về văn hóa, xã hội và hệ tư tưởng.
Tác giả cho rằng, thiết chế xã hội truyền thống thay đổi, mục đích con người là sự
tư do và ý chí tối thượng mà con người hướng tới đó là sự tự do trong tư tưởng. Vì
vậy, “hiện tượng tơn giáo mới” bùng phát như một tất yếu buộc nhân loại phải
chấp nhận nó đã và đang là một thực thể trong xã hội. Sự đan xen giữa mới và cũ,
giữa cá nhân và xã hội là một thứ chủ nghĩa mà một bộ phận quần chúng trong các
tôn giáo mới đang tôn thờ.
7



- Tác giả Nguyễn Ngọc Phương Trang: Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau
Chiến tranh Thế giới II tới những năm 1990 và tác động xã hội của chúng, Tạp chí
Nghiên cứu Tơn giáo, số 8, trang 60-70, năm 2012. Trong bài viết này tác giả trình
bày khái quát về nguyên nhân ra đời, đặc điểm và quá trình phát triển của tôn giáo
mới ở Nhật Bản.
- Thử bàn về hiện đại hóa với tơn giáo mới, tác giả Cao Sư Ninh, Tạp chí
Nghiên cứu Văn hóa Tơn giáo Thế giới, số 4, năm 1999 (trang 15 -22). Từ khía
cạnh tiếp cận vấn đề hiện đại hóa, tác giả cho rằng tơn giáo mới chính là đồn thể
tơn giáo xuất hiện cùng với tiến trình hiện đại hóa thế giới từ giữa thế kỷ XIX,
thoát khỏi quỹ đạo của tôn giáo truyền thống và đã cho ra một số giáo lý, nghi lễ
mới [96; tr.15 – 17].
- Tôn giáo truyền thống, tôn giáo mới, tà đạo, tác giả Hy Văn, Tạp chí
Nghiên cứu Văn hóa Tơn giáo Thế giới, số 4, năm 1999 (trang 18 – 19). Tác giả
cũng đưa ra những quan điểm của mình về tơn giáo mới trong mối tương quan với
tôn giáo truyền thống và tính hiện đại [152; tr.18 – 19].
- Nguyễn Văn Minh trong cơng trình: Tơn giáo tín ngưỡng của người Ve ở
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2009. Trong cơng trình này, khi lý
giải một số vấn đề cơ bản của tơn giáo tín ngưỡng, tác giả cũng dành một phần nhỏ
để bàn luận về tôn giáo mới.
Ngồi ra, có thể kể đến một số tác giả với các tác phẩm và bài viết trên các
tạp chí nghiên cứu: Christopher Patridge, Handbook of the new religion (Cẩm
nang tôn giáo mới), Nxb Oxford University, năm 2004; John A.Saliba,
Understanding New religious movement (Tìm hiểu về phong trào tơn giáo mới),
Alta Mira. Press. USA, 2003. BrunoFouchereau: Giáo phái, tên biệt kích của Mỹ,
Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, Số 5, năm 2001. Nguyễn Văn Minh: “Tổng quan về
tôn giáo mới trên thế giới và Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, năm 2009.
“Phong trào tôn giáo mới của xã hội đương đại”, Trần Hà, Nghiên cứu Tôn giáo
học của Trung Quốc, số 3, năm 1995 (trang 13 – 18). “Phân tích nhân tố tâm lý của
sự tồn tại đồn thể tơn giáo mới”, Trương Long Hoa, Nghiên cứu Tôn giáo học, số
1, năm 1998 (trang 126 – 130). “Thử bàn về mấy đặc điểm của tà giáo đương đại”,

Sài Thiếu Khanh, Khổng Tường Đào, Nghiên cứu Tôn giáo học của Trung Quốc,
8


số 1, năm 1998 (trang 131 - 135). Vũ Văn Hậu, “Nhận diện về hiện tượng tôn giáo
mới trong bối cảnh hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2, năm 2013
(trang 46 - 56).
Nhìn chung, điểm qua các cơng trình nghiên cứu về “hiện tượng tơn giáo
mới” trên thế giới cho thấy những vấn đề nghiên cứu chính mà các tác giả tập
trung phân tích bao gồm: vấn đề lý luận chung và thực tiễn như: định nghĩa, đặc
trưng và nguồn gốc ra đời các “hiện tượng tôn giáo mới”; phong trào tôn giáo mới
ở một số nước trên thế giới; vai trò xã hội của tôn giáo mới và nhận định, dự báo
về xu hướng biến đổi chung của “hiện tượng tôn giáo mới trên thế giới”. Hầu hết
các nhà nghiên cứu đều thể hiện quan điểm của mình ở các bài báo ngắn, cịn ít các
cơng trình nghiên cứu mang tính chun khảo về "hiện tượng tôn giáo mới" trên
thế giới. Tuy nhiên, đây là nguồn tư liệu cung cấp luận cứ khoa học quan trọng và
là căn cứ lý thuyết xác đáng để tác giả luận án kế thừa, tham khảo, nghiên cứu và
phân tích để rút ra những kết luận khoa học trong luận án của mình.
1.1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tơn giáo mới” ở Việt Nam
- Tạ Chí Đại Trường: Thần Người và Đất Việt, Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà
Nội, năm 2006. Trong tác phẩm này, tác giả đã có những nghiên cứu bước đầu về
các “hiện tượng tơn giáo mới” xuất hiện ở miền Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Tuy tác giả không gọi là “đạo lạ” hay “hiện tượng tôn giáo mới” mà dùng
thuật ngữ “phong trào các Ông đạo”. Thực chất trong bối cảnh đó, những hiện
tượng đó cũng chính là “đạo lạ” hay “hiện tượng tôn giáo mới”. Tác giả cũng chỉ
ra những đặc điểm cơ bản của chúng là: chiều hướng và những kết quả tập hợp
thần linh mới, tác giả có nhắc tới “Hội Long Hoa” [135; tr. 288], cho rằng, các
Ơng đạo là “những dịng tiên tri tản mạn”, “sự hội tụ các dòng tiên tri: các giáo
phái”, là nhân tố tích cực đặt cơ sở cho những tơn giáo mới [135; tr.293].
- Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo, Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí

Minh với các hoạt động khoa học nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới”:
Tọa đàm: “Tơn giáo mới ở Thành phố Hồ Chí Minh lý luận và thực tiễn”,
Trương Văn Chung và Ngô Văn Lệ chủ trì, ngày 26 tháng 5 năm 2012. Cuốn kỷ
yếu tập hợp các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về những vấn đề lý
luận và thực tiễn tôn giáo mới ở thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung các bài viết đã
9


khái quát và phần nào cho chúng ta thấy bức tranh “tôn giáo mới” đang diễn ra sôi
động và phức tạp trên địa bàn thành phố, những khó khăn và vấn đề đặt ra cho công
tác quản lý Nhà nước về tôn giáo trong bối cảnh hiện nay. Đề tài “Hiện tượng tơn
giáo mới và những vấn đề về chính sách và công tác tôn giáo ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay”, do Trương Văn Chung chủ nhiệm năm 2014 cũng đề cập đến
những vấn đề lý luận và tổng quan về tơn giáo, văn hóa, dân tộc ở thành phố Hồ Chí
Minh; một số tơn giáo mới ở thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề về chính
sách, luật pháp và cơng tác tơn giáo đối với tơn giáo mới ở thành phố Hồ Chí Minh.
Hội thảo khoa học Quốc tế: Chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo
mới ở Việt Nam và Thế giới. Kỷ yếu với 20 bài viết của giới nghiên cứu trong nước
và quốc tế về hai chủ để chính là chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo
mới. Các bài viết đưa ra những ý kiến tranh luận sôi nổi về sự tác động của chủ
nghĩa hậu hiện đại đối với phong trào tôn giáo mới trên thế giới và Việt Nam. Đặc
biệt chú ý, đó là các bài viết: Một số nhận định về “hiện tượng tôn giáo mới” ở
Việt Nam của tác giả Đỗ Quang Hưng (trang 70); Về tiếp cận hướng nghiên cứu
tôn giáo mới của tác giả Ngô Văn Lệ (trang 124); Vấn đề “tôn giáo mới” ở Hoa
Kỳ của tác giả Nguyễn Quang Hưng (trang 207); Hiện tượng tôn giáo mới phát
sinh từ Kitô giáo ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Hồng Dương (trang 256);
Tình hình tơn giáo mới ở Việt Nam của tác giả Trương Văn Chung, Nguyễn Thoại
Linh (trang 279); Về thuật ngữ “Tôn giáo mới”, tác giả Trương Văn Chung (trang
298); Đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo mới tại Việt Nam, Nguyễn Văn
Phương (trang 345); Bước đầu nghiên cứu Nhất Quán Đạo tại Thành phố Hồ Chí

Minh, Trần Hồng Hảo, Phạm Thị Bích Ngọc (trang 353). Các bài viết này là
những nghiên cứu, nhận định đánh giá một cách khách quan về “hiện tượng tôn
giáo mới” ở nước ta trong những năm gần đây. Cơng trình đã được xuất bản thành
sách, Nxb Tơn giáo cấp phép, năm 2014.
- Tác giả Đặng Nghiêm Vạn, trong bài viết “Diễn trình tơn giáo qua lịch sử
nhân loại”, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 02, năm 1999 (trang 15-16), đã khái
quát về sự vận động của tôn giáo nhân loại, bước đầu đề cập đến các “hiện tượng
tơn giáo mới”, ơng gọi đó là “tơn giáo bồng bềnh” và nằm trong tiến trình vận
động đó, mang tính cực đoan, phản văn hóa…[151; tr.16]. Và bài viết: “Những
10


điều mới xuất hiện trong đời sống tôn giáo hiện nay”, tác giả phân tích nguyên
nhân mang tính thời đại của “hiện tượng tơn giáo mới”, xem đó là “cơn đau đẻ dữ
dội”, “kéo dài hàng thế kỷ”[150; tr.3].
- Tác giả Đỗ Quang Hưng với nhiều bài viết về vấn đề này: “Hiện tượng tôn
giáo mới” mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 5, năm
2001; Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và “hiện tượng tơn giáo mới”, mấy vấn đề lí
thuyết và thực tiễn (Phần 1), Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 3, trang 3 - 15, và Mối
quan hệ giữa tín ngưỡng và “hiện tượng tơn giáo mới”, mấy vấn đề lý thuyết và thực
tiễn (Phần 2), Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, trang 20 - 27, năm 2011… Tác giả
cho rằng, đây là một vấn đề lớn, phức tạp thu hút nhiều sự trao đổi, tranh luận trong
giới học thuật, mang tính cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Thơng qua các bài viết
của mình, tác giả đặt ra những vấn đề có tính chất phương pháp luận và nguyên tắc
tiếp cận “hiện tượng tôn giáo mới”. Tác giả cũng chỉ ra cách phân loại về “hiện
tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam, trên cơ sở những xu hướng cơ bản của “hiện tượng
tôn giáo mới”, sự thách thức của vấn đề này đối với văn hóa, pháp lý, tác giả đề
nghị: cần có sự nghiên cứu đầy đủ hơn về hiện tượng này làm cơ sở khoa học cho
việc đưa ra thái độ ứng xử thích hợp, góp phần hồn thiện hơn chính sách đổi mới về
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay [68; tr. 243].

Kỷ yếu đề tài nhánh: “Những hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta – Thực
trạng và xu hướng”, thuộc đề tài cấp Nhà nước: “Xu hướng phát triển tôn giáo
hiện nay ở nước ta và những vấn đề đặt cho công tác lãnh đạo, quản lý”, do tác giả
Đỗ Quang Hưng làm chủ nhiệm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung
tâm khoa học về tín ngưỡng và tơn giáo, tháng 12 năm 2001, là tập các báo cáo về:
“Hiện tượng tôn giáo mới”: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, một số kiến nghị và
giải pháp (28 trang – tác giả Đỗ Quang Hưng); Hiện tượng vấn đề “Tôn giáo mới”
ở Việt Nam hiện nay (36 trang – tác giả Đỗ Quang Hưng); Vấn đề “Tôn giáo mới”
ở Châu Âu, một số biến chuyển của đời sống tôn giáo đương đại (28 trang – Tác
giả Nguyễn Kim Hiền) và “Tôn giáo mới” trong các cơng trình nghiên cứu của các
học giả Trung Quốc (26 trang – tác giả Trần Nghĩa Phương). Đề tài là một cơng
trình nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn về “hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam” trong giai đoạn những năm 2001 trở về trước.
11


- Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn (2011): Về “hiện tượng tơn giáo mới”, Tạp
chí Nghiên cứu Tơn giáo, Số 12, trang 9 - 22, năm 2011; Về “hiện tượng tôn giáo
mới”, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 1, trang 11 - 19, năm 2012. Trong các bài
viết này, tác giả đã có những tìm hiểu, cắt nghĩa về mặt thuật ngữ “hiện tượng tôn
giáo mới” theo các phương pháp tiếp cận, lý giải về “hiện tượng tôn giáo mới” ở
Việt Nam. Theo đó, tác giả cho rằng, “hiện tượng tơn giáo mới” tại Việt Nam
đang trỗi dậy, vì vậy đối với các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý các vấn đề pháp
luật, khoa học cần có sự chuẩn bị về mặt lý thuyết trên cơ sở thực tiễn của xã hội
[127; tr.11].
- Tác giả Nguyễn Hồng Dương, trong “Tơn giáo trong mối quan hệ văn hóa
và phát triển ở Việt Nam”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2004, có đề cập
đến “Hiện tượng tơn giáo mới” (trang 336 - 345). Tác giả đưa ra 4 nguyên nhân
chính xuất hiện “hiện tượng tơn giáo mới” ở Việt Nam. Sự chuyển đổi từ xã hội
truyền thống sang xã hội công nghiệp làm phá vỡ yếu tố truyền thống trong khi giá

trị mới chưa định hình rõ nét hoặc vẫn không được phần đông xã hội chấp nhận là
nguyên nhân nội tại phát sinh các tôn giáo mới; Sự đổi mới tồn diện của Đảng,
Nhà nước trong đó có vấn đề tôn giáo, một số người đứng ra lợi dụng, lập tôn giáo
mới; Các hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngồi du nhập vào; Đời sống kinh tế
khó khăn, sự nhận thức xã hội của một bộ phận những người theo tơn giáo mới cịn
hạn chế. Tác giả cũng đưa ra sự phân loại “hiện tượng tôn giáo mới” phát sinh từ
trong nước (loại dựa vào giáo lý, nghi lễ Phật giáo; loại dựa vào Đạo giáo và Đạo
Mẫu; loại dựa vào Phật giáo và Đạo giáo).
Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu về một vài “hiện tượng tơn giáo mới có
nguồn gốc từ Kitơ” như: Đạo Hà Mịn, Dương Văn Mình qua bài viết: “Hiện tượng
tơn giáo mới phát sinh từ Kitô giáo ở nước ta hiện nay” trong Hội thảo khoa học
Quốc tế, tháng 6 năm 2013 của Trung tâm nghiên cứu Tôn giáo, Trường Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong bài viết: “Một số vấn đề về tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên
cứu Tơn giáo, số 8, năm 2010 (trang 20 - 26), tác giả cũng cho rằng, khi xem xét
tôn giáo mới ở Việt Nam phải đặt trong dịng chảy tơn giáo từ lịch sử đến hiện tại.
12


“Hiện tượng tôn giáo mới” luôn diễn biến phức tạp vì vậy việc quản lý chúng như
thế nào đối với các cơ quan chức năng hiện vẫn đang lung túng do cách nhìn nhận
và chưa có văn bản chế tài [28; tr.26].
- Tác giả Mai Thanh Hải, với các bài viết: “Ngày tận thế và hiện tượng “các
tôn giáo cực đoan”, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 3, năm 2000; “Các “đạo” của
nông dân Châu thổ sông Cửu Long: từ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa
đến Đạo Lành và Đạo Ơng Nhà Lớn”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 01, năm
2008. Trong các bài viết của mình, trên cơ sở chỉ ra các tơn giáo mà theo tác giả là
cực đoan ở trong nước: Long Hoa Di Lặc, đạo Phạ Tốc, Thanh Hải Vô Thượng Sư,
Cánh Cửa Thiên Đàng, Giáo Hội Thánh Linh,… Mối liên hệ giữa thuyết tận thế và
các tôn giáo cực đoan này, tác giả chỉ ra nguyên nhân của nó xuất phát từ mặt trái

của khoa học kỹ thuật hiện đại và xã hội công nghiệp, khiến cho một bộ phận quần
chúng nhân dân có tâm lý hoang mang, vơ vọng, bất lực. Mặc dù không sử dụng
thuật ngữ “hiện tượng tôn giáo mới”, nhưng tác giả đã chỉ ra đặc điểm của tôn
giáo, giáo phái này là: tái chế giáo lý truyền thống hoặc dung hợp nhiều giáo lý với
nhiều niềm tin và tính thế tục mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là tôn giáo cứu thế [47;
tr.67].
- Ngô Văn Lệ: Về hướng tiếp cận nghiên cứu các hiện tượng tôn giáo mới,
Tạp chí Dân tộc học, số 4, năm 2013 (trang 3 - 10). Đáng lưu ý trong bài viết này,
tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về cách tiếp cận hướng nghiên cứu các hiện
tượng tôn giáo mới cần phải lưu ý đến điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội cũng
như mối quan hệ đa chiều của chính cộng đồng cư dân đó, nghĩa là trở về với bản
chất của vấn đề tôn giáo là một hiện tượng văn hóa, xã hội, đặt “hiện tượng tơn
giáo mới” trong một không gian xã hội nhất định với các mối quan hệ đa chiều
[86; tr. 9-10].
- Những “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam, in trong cuốn Nghiên
cứu Tơn giáo, tín ngưỡng, chặng đường 20 năm (1991-2011), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, năm 2011 cũng có các bài viết của tác giả, đề cập
đến sự phân loại bước đầu (gồm 3 nhóm: Xuất phát từ các tơn giáo chủ lưu;
Hồn tồn độc lập; Pha trộn tôn giáo - khoa học) và một số đặc điểm của “hiện
13


tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam (Phần lớn các “hiện tượng tôn giáo mới” trên
thế giới và Việt Nam, đều đưa ra những tiên tri dự báo về ngày tận thế với mốc
chủ yếu là năm 2000; tính chất phức tạp, chắp vá của giáo lý; tính bất ổn định)
[154; tr.791 – 815].
- Ngồi ra cịn một số luận văn, luận án nghiên cứu về hiện tượng tôn giáo
mới như: Võ Minh Tuấn: Bước đầu nghiên cứu “hiện tượng tôn giáo mới” và xu
thế hiện nay, luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành CNDVBC & DVLS,
Trường Đại học KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội. Phạm Thị Bích Ngọc, Nhất Quán

Đạo - Hiện tượng tôn giáo mới ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Triết
học, Đại học KHXH&NV, ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh. Lê Thị Vân Anh, Tín
ngưỡng, tơn giáo ở Vĩnh Phúc - thực trạng, đặc điểm và những vấn đề đặt ra, Luận
án Tiến sĩ, năm 2014; Đới Thị Kim Thoa, “Hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Học viện chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2008…
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu về “hiện tượng tơn giáo mới” ở Việt
Nam đã ít nhiều khái quát một cách khá đầy đủ về diện mạo và thực trạng của
“hiện tượng tôn giáo mới” ở nước ta nói chung và ở các địa phương cũng như một
số ảnh hưởng của chúng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và thái độ xã hội đối
với các “hiện tượng tôn giáo mới”. Các quy phạm pháp luật đối với “hiện tượng
tôn giáo mới” và hiệu quả thực tiễn của nó cũng như giải pháp đối với vấn đề
nghiên cứu đặt ra. Chúng tôi nghiên cứu về “Hiện tượng tôn giáo mới” ở một số
tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ từ phương diện tiếp cận của CNDVBC& CNDVLS
sẽ có sự kế thừa, phát triển các kết quả nghiên cứu trên để rút ra những hệ luận giá
trị về mặt nhận thức và thực tiễn, dự đoán xu hướng và đề xuất những giải pháp
khoa học phù hợp với xu hướng biến đổi và tình hình mới của các “hiện tượng tơn
giáo mới” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
1.2.1. Các đề tài, cơng trình nghiên cứu các cấp
- Phạm Xuân Tiên: Đạo lạ Hoàng Thiên Long tại xã Hồng Quang, huyện
Ứng Hòa, thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp, Đề tài Viện Nghiên cứu
14


phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, năm 2011. Đây là cơng trình nghiên cứu dựa
trên sự khảo sát để phân tích, đánh giá về thực trạng và tổ chức, hoạt động của đạo
lạ (“hiện tượng tôn giáo mới”) Hồng Thiên Long tại xã Hồng Quang, huyện Ứng
Hịa, thành phố Hà Nội. Qua đó, các tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cường công tác tơn giáo đối với đạo lạ Hồng Thiên Long tại địa phương. Từ

việc phân tích lý thuyết, tác giả cũng đưa ra một số tiêu chí để nhận biết, phân biệt
ranh giới giữa “hiện tượng tôn giáo mới” (đạo lạ) với “tôn giáo hợp pháp” (tôn
giáo được cấp phép tư cách pháp nhân hoạt động) và tín ngưỡng dân gian truyền
thống. Theo tác giả, đạo lạ là những hiện tượng và cơ sở tín ngưỡng khơng thuộc
các tơn giáo đã được nhà nước Việt Nam công nhận, không phải là tín ngưỡng dân
gian truyền thống hay đương đại của địa phương và của dân tộc Việt Nam. Trong
nội dung và hình thức tổ chức hoạt động có pha trộn các yếu tố của một số tơn
giáo, tín ngưỡng dân gian truyền thống. Thường do người đúng đầu tự xưng, tự đặt
tên và viết kinh sách, in sao, truyền bá trái phép [144; tr.26]. Khi nhận xét về ảnh
hưởng của đạo lạ đối với người dân, tác giả cho rằng: Người dân có sự phản ứng,
lên án hoặc e ngại đối với các hiện tượng đạo lạ (phi truyền thống); Phản ứng văn
hóa rất khiêm nhường, phần lớn các đạo lạ đều có vẻ “khơng bình thường” trong
con mắt đơng đảo người dân Việt Nam; Nhận thấy bản chất các đạo lạ đều giống
nhau ở chỗ muốn tìm một giải pháp cho vấn đề khó khăn và rất phổ biến là “tôn
giáo - bệnh tật”, lừa bịp bằng chữa bệnh theo tâm linh, không cần thuốc [144;
tr.40]. Trong đề tài, trên cơ sở cách nhìn nhận, đánh giá từ góc độ của quản lý Nhà
nước đối với các “hiện tượng tôn giáo mới”, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất các
tiêu chí phân biệt “tơn giáo hợp pháp” với các tơn giáo, tín ngưỡng dân gian truyền
thống: Có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức giáo hội, đội ngũ giáo sỹ,
chức sắc và tín đồ, cơ sở thờ tự được Nhà nước công nhận.
- Báo cáo khoa học tổng kết đề tài: Vấn đề đạo lạ trên địa bàn thủ đô Hà
Nội hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Mã số 01X-11/04-2012-2, Chủ nhiệm đề
tài, tác giả Ngô Hữu Thảo, Ủy ban Mặt trậnn giáo do con người sáng tạo ra, bản thân những người này cảm thấy
được nhu cầu cần phải có tơn giáo và họ hiểu được những nhu cầu cần có tơn giáo
của quần chúng, còn các đại biểu của các trường phái triết học thì thường là khơng
có như vậy...” [24; tr.438 – 439].
Cần lưu ý rằng, khi C.Mác coi tôn giáo là tình cảm của thế giới vơ tình, là
tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần, là hạnh phúc ảo tưởng mà con
người cần có trong cái thế giới khơng có hạnh phúc thật sự, có nghĩa là ơng nói
đến sự khơng hồn thiện của xã hội lồi người, một xã hội cần có tơn giáo và

159


ngược lại, tôn giáo đã đáp ứng yêu cầu của con người trong xã hội ấy. Đây là quan
điểm gợi mở cho những định hướng quan trọng trong công tác tôn giáo: vấn đề
không nằm ở bản thân tôn giáo mà là ở đời sống hiện thực, ở cái xã hội khơng
hồn thiện như là tiền đề làm nảy sinh tơn giáo. Điều đáng nói là, tình trạng khơng
hồn thiện của xã hội lồi người vẫn cịn tiếp tục tồn tại trong xã hội hiện đại; bởi,
cho đến nay, sự áp bức giai cấp và đói nghèo vẫn cịn, đây là nỗi lo sợ của hàng tỉ
người trong khi một bộ phận ít hơn nhiều lại đang sống trong thừa thãi. Vì thế, nhu
cầu tơn giáo là một phạm trù có tính lịch sử.
Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác thừa nhận nhu cầu tôn giáo
của một con người, của một nhóm người là có thật, khách quan. Nhưng đó chỉ là
nhu cầu tinh thần, là nhu cầu được an ủi, nhu cầu lấy lại sự cân bằng về tâm lý, nhu
cầu cần có một niềm tin vào sự cứu vớt của một sức mạnh siêu nhiên nào đó xuất
phát từ chính cuộc sống của họ. Đây là quan điểm khoa học thể hiện sự đánh giá
đúng mức nhu cầu tơn giáo của con người.
Từ đó có thể thấy, rõ ràng, việc con người sáng tạo ra tơn giáo nói chung
cũng như các “hiện tượng tơn giáo mới” nói riêng là nhằm thỏa mãn nhu cầu của
mình. Nhu cầu đó có thật, nhưng đó là một nhu cầu thuộc về đời sống tinh thần của
con người, hoàn tồn khơng phải là nhu cầu tối thượng đứng trên các nhu cầu khác
và khơng phải là nhu cầu có tính chất bẩm sinh. Nhu cầu này chỉ xuất hiện ở những
nhóm người nhất định trong xã hội, nảy sinh trong những điều kiện kinh tế - xã
hội, chính trị nhất định và nhất là nó có thể chỉ xuất hiện ở những giai đoạn nhất
định của đời người. Nó thường xuất hiện ở “những con người đau khổ và yếu
đuối” sống trong thế giới “khơng có trái tim”, hay trong cái trật tự xã hội khơng có
tinh thần. “Hiện tượng tơn giáo mới” xuất hiện có lẽ nên được xem như là một nhu
cầu tinh thần tất yếu cần được “bù đắp” của những “người bên ngoài lề xã hội”,
những nhóm “dễ bị tổn thương” trong xã hội hiện nay, nhóm người chưa tìm thấy
sự thỏa mãn nhu cầu tinh thần từ những tôn giáo truyền thống và họ buộc phải tìm

đến với “nhu cầu tinh thần tạm thời” mà các “hiện tượng tôn giáo mới” mang lại.
Gọi là “nhu cầu tinh thần tạm thời” cũng có nghĩa là chỉ sự bất ổn định, và sự mờ
nhạt của nó mà các “hiện tượng tơn giáo mới” mang lại, nó khác với các “nhu cầu

160


tinh thần có tính ổn định” trong các tơn giáo vốn có truyền thống, có lịch sử tồn tại
lâu đời. Điều này cho phép chúng ta dễ hiểu vì sao các “hiện tượng tôn giáo mới”
bùng phát như “cỏ mọc sau mưa giữa mùa nắng hạn” rồi lại lụi tàn. Nghĩa là
dường như phần lớn xét về bản chất, các “hiện tượng tôn giáo mới” giống như
“những cơn khát dài” được thỏa mãn, rồi cũng phổ biến có nhiều “hiện tượng tơn
giáo mới” đã bị chìm vào lãng qn.
Nhu cầu tơn giáo là một nhu cầu có tính lịch sử, xã hội. Điều này, trong
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta cũng khẳng định tại Nghị quyết số 24NQ/TW ngày 16 tháng 10 năm 1990 và 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003,
trong đó khẳng định:
“Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình
thường theo đúng pháp luật. Các tơn giáo hoạt động trong khn khổ pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật....” [34; tr.42 – 46].
Sự xuất hiện và tham gia của một số nhóm người trong xã hội đối với các
“hiện tượng tôn giáo mới” hiện nay ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh những nhu cầu
về tinh thần, cần được bù đắp thì cũng khơng ít những người tham gia mang tính
chất a dua, tị mị là chính chứ không hề xuất phát từ nội tâm, xem xét nó nhu một
nhu cầu thực tại, cần thiết. Chính điều đó tạo nên sự “mù mờ’, “mơ hồ” và những
hiểu biết không đến nơi đến chốn về bản chất của các “hiện tượng tôn giáo mới”,
do vậy họ dễ dàng bị lợi dụng và dẫn đến niềm tin mù quáng.

Thực tế đó địi hỏi cơng tác quản lý hoạt động tôn giáo ở Việt Nam cần phải
phân loại được những “hiện tượng tơn giáo mới” nói chung, cũng như khi đề đạt
chính sách, ứng xử đối với “hiện tượng tơn giáo mới” nào đó cần phải cẩn trọng,
coi nhu cầu bức thiết của người dân và những hành vi tham gia các nhóm “tơn giáo
mới” đó là gì, phân tích khách quan những ảnh hưởng hai mặt của vấn đề đối với
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…Việc phân định này, dù chỉ là tương
đối, sẽ giúp cho công tác quản lý Nhà nước đối với các “hiện tượng tôn giáo mới”

161


có tính khoa học, khơng áp đặt và tránh được xu hướng ứng xử cực đoan, góp phần
một mặt, tạo điều kiện thỏa mãn nhu cầu chính đáng của người dân; mặt khác, có
các biện pháp thiết thực đấu tranh với các hiện tượng lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo
cũng như các hiện tượng tiêu cực khác ẩn chứa bên trong vỏ bọc của các nhóm
“tơn giáo mới” hiện nay.
Bảy là, lựa chọn con đường xem xét các “hiện tượng tơn giáo mới” trên
phương diện văn hóa để có thể đưa các “hiện tượng tơn giáo mới” khơng mang
tính phản văn hóa, đạo đức, chính trị và xã hội đi vào sinh hoạt ổn định trong
sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo bình thường theo pháp luật của người dân đồng
bằng Bắc Bộ.
Xem xét để đưa các “hiện tượng tôn giáo mới” vào sinh hoạt ổn định trong
đời sống tín ngưỡng, tơn giáo, được hoạt động bình thường trên tinh thần pháp luật
của Đảng và Nhà nước là một vấn đề không hề đơn giản trong cả nghiên cứu lý
luận lẫn thực tiễn. Chưa có một nhóm “tơn giáo mới” nào trực tiếp thừa nhận việc
họ đối lập với văn hoá truyền thống. Tuy vậy, về những biểu hiện cụ thể trong đời
sống thì có nhiều “hiện tượng tơn giáo mới” đã và đang phá vỡ các giá trị văn hoá
cổ truyền, ảnh hưởng trái với đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Cũng cần phải tiếp tục nghiên cứu thứ “văn hố của các hiện tượng tơn giáo mới”
ấy với nhiều chiều kích của nó và trên thực tế ở nhiều quốc gia, nhiều khu vực, nó

đã và đang có ảnh hưởng lớn theo các hướng có cả tích cực và tiêu cực. Nếu đã
thừa nhận có sự tồn tại của “văn hóa tơn giáo” thì vấn đề “văn hóa của các hiện
tượng tơn giáo mới” hiện nay lẽ nào lại không được đặt ra?
Mặt khác, cũng cần thấy rằng, một số “hiện tượng tôn giáo mới” khơng chỉ
xung đột, đối lập hồn tồn với văn hố bản địa, đạo đức, lối sống, phong tục, mà
những người truyền bá cũng đã và đang tìm kiếm con đường “đi vào văn hóa, gần
hơn với văn hóa bình dân”. Chúng tơi đã tiến hành đối thoại với nhiều tín đồ theo
các “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Họ thừa nhận
rằng, cách ứng xử cực đoan của “hiện tượng tôn giáo mới” mà mình đang theo
trong một số thời điểm là có thật, cũng có sự lợi dụng sự suy giảm của văn hố tín
ngưỡng phong tục bản địa, vay mượn, xun tạc, đả kích tơn giáo truyền thống.
Nhưng họ cũng cho rằng sự suy thoái các giá trị văn hoá bản địa, tín ngưỡng, tơn

162


giáo truyền thống là một tất yếu trong bối cảnh tự do, tín ngưỡng tơn giáo như hiện
nay. Đây là nguyên nhân khiến cho các “hiện tượng tôn giáo mới” có xu hướng
xích lại gần và có mối quan hệ mật thiết, tấn công, hội nhập vào các tôn giáo, tín
ngưỡng truyền thống và văn hố dân tộc. Đơi khi là “tơn giáo truyền thống hóa”
hay “tín ngưỡng dân gian hóa” các “hiện tượng tơn giáo mới” sẽ diễn ra để phù
hợp với nhu cầu của tín đồ, lơi kéo tín đồ. Ví dụ như: Phật Mẫu Địa Cầu, Tâm
Linh Hồ Chí Minh, Đồn 18 Phú Thọ, Tổ Tiên Chính Giáo…
Có thể nói rằng trong tương lai gần, giải quyết vấn đề “hiện tượng tơn giáo
mới” ở Việt Nam nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, khi phương diện
chính trị đã được bình ổn trong khn khổ luật pháp tôn giáo của Nhà nước được
ban hành thông qua những điều lệ, bộ luật tơn giáo hồn chỉnh, thì vấn đề “hiện
tượng tơn giáo mới” lại có thể vận động theo chiều hướng biến đổi phức tạp hơn,
bất ổn định hơn, tạm thời hơn trái ngược xu hướng của các tôn giáo truyền thống .
Ảnh hưởng của “hiện tượng tơn giáo mới” ở nước ta nói chung và đồng bằng Bắc

Bộ nói riêng đối với đời sống văn hố xã hội của một bộ phận quần chúng nhân
dân là điều rất đáng lưu tâm, không chỉ trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài.
4.3.2. Một số khuyến nghị
1. Về phía Đảng, Nhà nước Việt Nam: Ban Bí thư, Bộ Chính trị cần có chủ
trương chung về nhận thức và giải pháp đối với vấn đề “hiện tượng tôn giáo mới”.
Trên cơ sở đó chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước xác định tiêu chí, phân
loại cụ thể đối với từng loại hình “tơn giáo mới”, “đạo lạ” để có chính sách, biện
pháp giải quyết phù hợp. Đối với một số đạo lạ là tà đạo, căn cứ vào Pháp lệnh tín
ngưỡng, tơn giáo và các nghị định hướng dẫn các cấp chính quyền cần có văn bản
chỉ đạo nghiêm cấm hoạt động. Xử lý nghiêm các đối tượng cầm đầu lợi dụng
danh nghĩa tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động tôn giáo trái pháp luật, thu lợi bất
chính, tuyên truyền mê tín dị đoan, gây mất ổn định an ninh, chính trị, trật tự an
tồn xã hội; gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Hệ thống chính trị các cấp cần tập trung
quán triệt và triển khai thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về tơn giáo và công tác tôn giáo; tuyên truyền, phổ biến
đến mọi tầng lớp nhân dân hiểu và chấp hành đúng. Quan tâm tới phát triển kinh tế
- xã hội, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân; xây dựng
163


mơi trường văn hóa lành mạnh. Chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ cộng đồng dân cư
(làng, bản, thơn, xóm, tổ dân phố) xây dựng và thực hiện được hương ước, quy
ước nếp sống văn hóa mới. Đề nghị cấp uỷ, chính quyền địa phương quan tâm tới
bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn)
tuỳ đặc điểm cụ thể mà có thể bố trí cán bộ chun trách hoặc kiêm nhiệm công
tác tôn giáo, xác định rõ chức năng và nhiệm vụ cụ thể. Đặc biệt chú ý xây dựng
đội ngũ cốt cán tơn giáo có nghiệp vụ, có trách nhiệm cao, nhanh chóng nắm bắt
những nơi có hoạt động của nhóm phái tơn giáo mới, đạo lạ, tà giáo báo cáo cơ
quan chức năng để kịp thời có biện pháp chỉ đạo, giải quyết. Thực hiện tốt công tác
vận động quần chúng.

2. Đảng và Nhà nước cần sớm có quan điểm, chủ trương, chính sách đối với
các vấn đề tơn giáo mới để có cơ sở pháp lý cho việc giải quyết của các địa
phương. Trên thực tế, một số “hiện tượng tôn giáo mới” đã xuất hiện khá lâu (trên
dưới 20 năm), mặc dù chính quyền địa phương kiên quyết đấu tranh dẹp bỏ, song
vẫn mặc nhiên tồn tại. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề Tin Lành trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên cho thấy: sau nhiều năm đấu tranh
loại bỏ song tình hình Tin Lành vẫn phát triển và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên,
sau khi có Chỉ thị 01 của Thủ tướng Chính phủ đã cơ bản ổn định tình hình, đưa
hoạt động của tơn giáo này đi vào chịu sự quản lý của chính quyền.
3. Cần có chương trình nghiên cứu một cách cơ bản, tổng thể nhằm đáng
giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học đối với “hiện tượng tơn giáo mới” để
có chính sách phù hợp. Khác với Tin Lành là tơn giáo có hệ thống giáo lý, giáo
luật rõ ràng và khá ổn định, các “hiện tượng tôn giáo mới” rất phức tạp về nguồn
gốc ra đời, giáo lý sơ sài, hỗn tạp, nghi lễ có sự vay mượn nên rất khó xác định
từng hiện tượng. Do đó, cần có chương trình nghiên cứu một cách cơ bản, tổng thể
nhằm đáng giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học đối với hiện tượng tơn
giáo trên cơ sở đó phân loại từng hiện tượng cụ thể để có biện pháp giải quyết phù
hợp. Đối với những “hiện tượng tơn giáo mới” đã có thời gian tồn tại lâu dài, có số
lượng tín đồ đơng, phạm vi ảnh hưởng rộng, hoạt động ổn định, có giáo lý, giáo
luật không trái với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa dân tộc, khơng trái
với chính sách, pháp luật, ảnh hưởng đến khối đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ
164


×