CH ƯƠ NG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ C«ng t¸c kÕ to¸n
NGUYªn VẬT LIỆU TRONG c¸c DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1 Sự cần thiết phải tổ chức kế toán Nguyên vật liệu trong doanh
nghiệp sản xuất.
1.1.1 Vị trí, vai trò của Nguyên vật liệu.
Đặc điểm của Nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động và là một trong ba yếu tố của quá
trình sản xuất, là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể của sản phẩm.
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động, nhưng không phải bất kỳ đối tượng
nào cũng là nguyên vật liệu mà chỉ trong điều kiện đối tượng lao động do lao động
làm ra thì nó mới trở thành nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh không giữ
nguyên được hình thái vật chất ban đầu, chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh
doanh và giá trị của nguyên vật liệu được chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm
mới tạo ra hoặc vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Vị trí của Nguyên vật liệu trong sản xuất.
Nguyên vật liệu là cơ sở vật chất hình thành nên sản phẩm mới. Việc cung
cấp nguyên vật liệu có kịp thời hay không sẽ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của
doanh nghiệp. Song khi có nguyên vật liệu thì để sản xuất có hiệu quả hay không,
sản phẩm làm ra có đạt tiêu chuẩn hay không còn phụ thuộc vào chất lượng nguyên
vật liệu. Như vậy trong sản xuất không chỉ tuân theo quy trình công nghệ mà còn
phải chú trọng đến chất lượng quản lí nguyên vật liệu.
Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất. Từ
đó cho thấy tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất quan trọng đến việc hạ
giá thành. Doanh nghiệp nên tập trung quản lí nguyên vật liệu một cách chặt chẽ từ
khâu mua, bảo quản, dự trữ, sử dụng nhằm hạ thấp chi phí nguyên vật liệu.
Về mặt giá trị thì nguyên vật liệu là tài sản dự trữ thuộc tài sản lưu động, do
vậy việc tăng tốc độ vốn kinh doanh không thể tách rời việc dự trữ sử dụng nguyên
vật liệu một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Từ vị trí quan trọng của nguyên vật liệu càng cho thấy ý nghĩa của kế toán
nguyên vật liệu. Kế toán nguyên vật liệu tốt là điều kiện giúp cho doanh nghiệp
hoạt động hiệu quả hơn.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lí
nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất.
1.1.2 Đặc điểm, yêu cầu quản lí Nguyên vật liệu.
Như trên đã thấy được đặc điểm và vị trí quan trọng của nguyên vật liệu
trong quá trình sản xuất, do đó yêu cầu tất yếu đặt ra là chúng ta phải quản lí
nguyên vật liệu. Đây là công tác không thể thiếu được của mọi nền sản xuất xã hội,
nhưng do trình độ sản xuất khác nhau nên phạm vi, mức độ, phương pháp quản lí
cũng khác nhau. Muốn giảm chi phí sản xuất, hạ được giá thành thì phải quản lí
chặt chẽ nguyên vật liệu ở các khâu mua, dự trữ và bảo quản và sử dụng nguyên
vật liệu. Đó là yếu tố khách quan và là yêu cầu trong kinh doanh của nền kinh tế
thị trường nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong khâu thu mua nguyên vật liệu phải quản lí về khối lượng, quy cách,
chủng loại, giá mua, thuế GTGT được khấu trừ và chi phí mua. Đồng thời phải
thực hiện kế hoạch mua theo đúng tiến độ, thời gian phù hợp với kế hoạch sản xuất
kinh doanh của doanh nghiêp.
Trong quá trình bảo quản nguyên vật liệu phải tổ chức tốt kho tàng bến bãi,
xây dựng và thực hiện tốt chế độ bảo quản đối với từng thứ nguyên vật liệu, tránh
hư hỏng, mất mát, hao hụt nhằm đảm bảo an toàn cho nguyên vật liệu cả về số
lượng, chất lượng và cả về giá trị.
Trong khâu sử dụng nguyên vật liệu cần phải tổ chức tốt việc ghi chép, phản
ánh tình hình xuất dùng và sử dụng nguyên vật liệu. Trên cơ sở đó so sánh với định
mức, dự toán chi phí, đánh giá hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu. Từ đó tìm biện
pháp sử dụng nguyên vật liệu, hạ thấp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tăng
thu nhập và tích lũy cho doanh nghiệp.
Trong khâu dự trữ đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được định mức tối đa,
tối thiểu nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường không
bị ngưng trệ do thiếu nguyên vật liệu hoặc gây tình trạng ứ đọng vốn do dự trữ quá
nhiều.
1.1.3 Nhiệm vụ của kế toán doanh nghiệp.
Kế toán là công cụ phục vụ cho việc quản lí kinh tế tài chính của doanh
nghiệp trong đó kế toán nguyên vật liệu đóng vai trò trong công tác quản lí và sử
dụng nguyên vật liệu. Kế toán nguyên vật liệu giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp
nắm bắt được tình hình vật tư để chỉ đạo tiến độ sản xuất. Hạch toán nguyên vật
liệu có kịp thời, đầy đủ thì ban lãnh đạo mới nắm bắt được đầy đủ, toàn diện tình
hình thu mua, nhập xuất, dự trữ vật liệu. Tính chính xác của hạch toán nguyên vật
liệu ảnh hưởng đến tính chính xác, kịp thời của hạch toán giá thành.
Xuất phát từ yêu cầu quản lí nguyên vật liệu và xuất phát từ vị trí của kế
toán đối với công tác quản lí tài chính trong doanh nghiệp sản xuất. Nhiệm vụ của
kế toán nguyên vật liệu được thể hiện:
- Tổ chức đánh giá, phân loại nguyên vật liệu phù hợp với các nguyên tắc,
yêu cầu quản lí thống nhất của nhà nước và yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
- Tổ chức chứng từ, tài khoản, sổ kế toán phù hợp với phương pháp kế toán
hàng tồn kho và phương pháp kế toán chi tiết nguyên vật liệu của doanh nghiệp để
ghi chép, phân loại tổng hợp số liệu về tình hình hiện có và sự biến động của
nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh, cung cấp số liệu kịp thời để
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
- Tham gia kiểm kê nguyên vật liệu, xử lí kết quả kiểm kê theo quyết định
của cấp có thẩm quyền nhằm đảm bảo sự chính xác trung thực của thông tin kế
toán.
- Thực hiện việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch mua, dự
trữ và sử dụng nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.2 Tổ chức kế toán NVL trong quá trình sản xuất.
1.2.1 Phân loại, đánh giá nguyên vật liệu.
1.2.1.1 Phân loại nguyên vật liệu.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, nguyên vật liệu bao gồm nhiều loại, thứ
với nội dung kinh tế, công dụng, tính chất hóa học và yêu cầu quản lí khác nhau.
Vì vậy để quản lí chặt chẽ từng loại, thứ nguyên vật liệu phục vụ cho công tác
quản trị doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành phân loại nguyên vật liệu.
● Phân loại NVL theo nội dung kinh tế và yêu cầu quản trị trong DNSX.
- Nguyên vật liệu chính: Là đối tượng tạo nên thực thể của sản phẩm. Đối
với thành phẩm mua ngoài với mục đích để tiếp tục gia công chế biến được coi là
nguyên vật liệu chính.
- Vật liệu phụ: Là những loại vật liệu khi sử dụng chỉ có tác dụng phụ có thể
làm tăng chất lượng sản phẩm, hoàn chỉnh sản phẩm hoặc đảm bảo cho công cụ,
dụng cụ hoạt động được bình thường.
- Nhiên liệu: Là những thứ có tác dụng cung cấp nhiệt lượng trong quá trình
sản xuất sản phẩm, tạo điều kiện cho quá trình chế toạ sản phẩm diễn ra bình
thường, Nhiên liệu có thể tồn tại ở thể lỏng, thể rắn và thể khí.
- Phụ tùng thay thế: Là các loại phụ tùng, chi tiết được sử dụng để thay thế,
sửa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, công cụ, dụng cụ sản xuất...
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm những vật liệu, thiết bị,
công cụ, khí cụ, vật kết cấu dùng cho công tác xây dựng cơ bản.
- Vật liệu khác: Là những loại vật liệu chưa được xếp vào các loại trên
thường là những vật liệu được loại ra từ quá trình sản xuất hoặc phế liệu thu hồi từ
thanh lí TSCĐ.
Ngoài ra tùy thuộc vào yêu cầu quản lí và hạch toán chi tiết của doanh
nghiệp mà trong từng loại nguyên vật liệu trên chia thành từng nhóm, từng thứ.
Cách phân loại này là cơ sở để xác định định mức tiêu hao, định mức dự trữ cho
từng loại, từng thứ nguyên vật liệu là cơ sở để hạch toán chi tiết được nguyên vật
liệu trong doanh nghiệp.
● Phân loại NVL theo nguồn hình thành
- Nguyên vật liệu nhập từ bên ngoài: Do mua ngoài, nhận vốn góp liên
doanh, nhận biếu tặng…
- Nguyên vật liệu tự chế: Là do doanh nghiệp tự sản xuất.
● Phân loại NVL theo mục đích, công dụng:
- Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất kinh doanh gồm:
+ Nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất chế tạo sản phẩm.
+ Nguyên vật liệu dùng cho quản lí ở các phân xưởng, dùng cho bộ phận bán
hàng, bộ phận quản lí doanh nghiệp.
- Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu khác:
+ Nhượng bán;
+ Đem góp vốn liên doanh;
+ Đem quyên tặng;
1.2.1.2 Đánh giá NVL.
Đánh giá nguyên vật liệu là xác định giá trị của nguyên vật liệu ở những thời
điểm nhất định và theo những nguyên tắc quy định.
♦ Nguyên tắc đánh giá Nguyên vật liệu.
Khi đánh giá nguyên vật liệu phải tuân thủ theo những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc giá gốc: Vì nguyên vật liệu là hàng tồn kho nên theo chuẩn
mực 02-hàng tồn kho thì nguyên vật liệu phải được đánh giá theo nguyên tắc giá
gốc. Giá gốc của nguyên vật liệu bao gồm: chi phí mua, chi phí chế biến và các
chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc mua nguyên vật liệu.
- Nguyên tắc thận trọng: Khi giá trị thuần có thể thực hiện được của nguyên
vật liệu thấp hơn giá gốc thì phải tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được. Giá
trị thuần có thể thực hiện được là giá bán ước tính của nguyên vật liệu trong kỳ sản
xuất, kinh doanh bình thường trừ đi chi phí ước tính để hoàn thành sản phẩm và chi
phí ước tính để tiêu thụ chúng.
Thực hiện nguyên tắc thận trọng bằng cách lập dự phòng giảm giá nguyên
vật liệu, kế toán đã ghi sổ theo giá gốc và phản ánh khoản dự phòng giảm giá
nguyên vật liệu.
- Nguyên tắc nhất quán: Các phương pháp kế toán áp dụng đánh giá nguyên
vật liệu phải đảm bảo tính nhất quán, tức là kế toán đã áp dụng phương pháp nào
thì phải nhất quán trong suốt niên độ kế toán. Doanh nghiệp có thể thay thế phương
pháp đã chọn, nhưng phải đảm bảo phương pháp thay thế cho phép trình bày thông
tin kế toán một cách trung thực và hợp lý hơn, đồng thời phải giải thích được ảnh
hưởng của sự thay đổi đó.
♦ Đánh giá nguyên vật liệu.
Xác định trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho.
Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho được xác định theo từng
nguồn nhập:
Nhập kho do mua ngoài: Trị giá vốn thực tế nhập kho bao gồm giá mua, các
loại thuế không được hoàn lại, chi phí vận chuyển, bốc xếp trong quá trình mua
hàng và các chi phí liên quan khác có liên quan đến mua nguyên vật liệu, trừ đi các
khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua do không đúng quy cách,
phẩm chất.
Trường hợp mua nguyên vật liệu vào được sử dụng cho đối tượng chịu thuế
GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thì giá mua là giá chưa có thuế GTGT.
Trường hợp nguyên vật liệu mua vào được sử dụng cho các đối tượng không
chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hoặc sử dụng cho mục đích phúc lợi,
các dự án… thì giá mua bao gồm cả thuế GTGT.
Nhập do tự sản xuất: Trị giá vốn thực tế nhập kho là giá thành sản xuất của
nguyên vật liệu gia công chế biến.
Nhập do thuê ngoài gia công chế biến: Trị giá vốn thực tế nhập kho là trị giá
vốn thực tế của vật liệu xuất ngoài thuê gia công chế biến cộng (+) các chi phí vận
chuyển bốc dỡ khi giao nhận.
Nhập nguyên vật liệu do góp vốn liên doanh: Trị giá nguyên vật liệu nhập
kho là giá do hội đồng liên doanh thỏa thuận cộng các chi phí khác phát sinh khi
tiếp nhận nguyên vật liệu.
Nhập nguyên vật liệu do được cấp: Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu
nhập kho là giá ghi trên biên bản giao nhận cộng các chi phí phát sinh khi nhận.
Nhập nguyên vật liệu do được biếu tặng, được tài trợ: Trị giá vốn thực tế
nhập kho là giá trị hợp lí cộng các chi phí khác phát sinh.
Xác định trị giá vốn thực tế của NVL xuất kho.
Nguyên vật liệu được nhập kho từ các nguồn khác nhau, ở nhiều thời điểm
khác nhau nên có những giá khác nhau. Do đó khi xuất kho nguyên vật liệu tuỳ
thuộc vào đặc điểm hoạt động, yêu cầu, trình độ quản lí và điều kiện trang bị
phương tiện kỹ thuật tính toán ở từng doanh nghiệp mà lựa chọn các phương pháp
để xác định trị giá vốn xuất kho.
Theo chuẩn mực 02 – hàng tồn kho thì có 4 phương pháp xác định trị giá
vốn xuất kho
● Phương pháp giá đích danh: Theo phương pháp này khi xuất kho nguyên
vật liệu thì căn cứ vào số lượng xuất kho thuộc lô nào và đơn giá thực tế của lô đó
để tính trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho.
Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có ít mặt hàng hoặc
mặt hàng ổn định và nhận diện được.
● Phương pháp bình quân gia quyền sau mỗi lần nhập hoặc cuối kỳ: Theo
phương pháp này, giá trị của từng loại nguyên vật liệu được tính theo giá trị trung
bình của từng loại nguyên vật liệu tương tự tồn kho đầu kỳ và giá trị từng loại
nguyên vật liệu nhập kho trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo trung
bình cả kỳ hoặc mỗi khi nhập một lô hàng về, phụ thuộc vào tình hình của doanh
nghiệp.
● Phương pháp nhập trước, xuất trước: Áp dụng dựa trên giả định là nguyên
vật liệu được mua trước, sản xuất trước thì được xuất trước, và nguyên vật liệu còn
lại cuối kỳ là nguyên vật liệu được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo
phương pháp này thì giá trị của hàng xuất kho sẽ được tính theo giá trị của lô hàng
nhập kho tại thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của nguyên vật liệu tồn kho
được tính theo giá trị của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn
tồn kho.
● Phương pháp nhập sau, xuất trước: Áp dụng trên giả định là nguyên vật
liệu được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, nguyên vật liệu còn lại
cuối kỳ là nguyên vật liệu được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp
này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá trị của lô hàng nhập sau hoặc gần
sau cùng, giá trị của nguyên vật liệu tồn kho được tính theo giá trị của hàng nhập
kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
1.2.2 Kế toán chi tiết Nguyên vật liệu.
Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu là việc hạch toán kết hợp với thủ kho và
phòng kế toán trên cơ sở các chứng từ nhập, xuất kho; nhằm đảm bảo theo dõi số
hiện có và tình hình biến động của từng nhóm, loại, thứ tự nguyên vật liệu cả về số
lượng và giá trị. Các doanh nghiệp phải tổ chức hệ thống chứng từ, mở các sổ kế
toán chi tiết và vận dụng các phương pháp hạch toán chi tiết nguyên vật liệu phù
hợp để góp phần tăng cường quản lí nguyên vật liệu. Kế toán chi tiết nguyên vật
liệu phải được đồng thời tiến hành hai nơi: kho và phòng tài vụ. Tuỳ theo điều kiện
cụ thể mà doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong ba phương pháp sau:
- Phương pháp ghi thẻ song song.
- Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển
- Phương pháp ghi sổ số dư.
Nhìn chung, dù áp dụng phương pháp nào trong các phương pháp trên.
doanh nghiệp đều phải tiến hành theo dõi tình hình nhâp-xuất-tồn ở kho và ở
phòng tài vụ trên các cơ sở chứng từ nhập-xuất, có thể khái quát nội dung kế toán
chi tiết vật liệu ở các phương pháp trên như sau:
● Tại kho: Cả ba phương pháp trên đều hạch toán giống nhau. Theo đó kế
toán lập thẻ kho và giao cho thủ kho theo dõi, ghi chép hàng ngày tình hình nhập-
xuất vật liệu, căn cứ vào chứng từ nhập-xuất để ghi chỉ tiêu số lượng. Mỗi thẻ kho
được mở chi tiết cho một loại vật liệu.
● Tại phòng kế toán:
1. Phương pháp “ghi thẻ song song”.
Phương pháp này về cơ bản hạch toán như ở kho nhưng ngoài việc theo dõi
chỉ tiêu số lượng còn theo dõi cả chỉ tiêu giá trị. Hàng ngày, hoặc định kỳ (3-5
ngày) kế toán sẽ kiểm tra việc ghi chép của thủ kho, đồng thời căn cứ vào chứng từ
gốc để theo dõi, ghi chép trên “sổ chi tiết vật liệu”. Sổ chi tiết vật liệu được mở cho
từng loại vật liệu.
2. Phương pháp “sổ đối chiếu luân chuyển”.
Phương pháp này theo dõi cả chỉ tiêu số lượng và tình hình nhập-xuất vật
liệu nhưng được ghi định kỳ trên “Sổ đối chiếu luân chuyển”
3. Phương pháp sổ số dư.
Phương pháp này theo dõi chỉ tiêu giá trị của vật liệu nhập kho, xuất kho và
ghi định kỳ theo từng nhóm, từng thứ vật liệu trên “Bảng luỹ kế nhập (xuất) vật
liệu.
Mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm và phạm vi áp dụng riêng, song ta có
thể thấy: Đối với phương pháp thẻ song song có ưu điểm là việc ghi chép đơn giản
dễ kiểm tra, đối chiếu, nhưng có nhược điểm là việc ghi chép giữa thủ kho và kế
toán còn trùng lặp nhau về chỉ tiêu số lượng, khối lượng ghi chép còn nhiều. Do đó
nó chỉ thích hợp với những doanh nghiệp có ít chủng lại vật tư, hàng hóa; việc
nhập - xuất diễn ra không thường xuyên. Đặc biệt trong điều kiện doanh nghiệp đã
làm kế toán máy thì phương pháp này vẫn áp dụng cho những doanh nghiệp có
nhiều chủng loại vật tư hàng hóa diễn ra thường xuyên. Vì vậy xu hướng phương
pháp này sẽ được áp dụng ngày càng rộng rãi.
So với phương pháp ghi thẻ song song thì phương pháp đối chiếu luân
chuyển có ưu điểm là giảm bớt khối lượng ghi chép của kế toán do chỉ ghi một lần
vào cuối tháng nhưng vẫn không khắc phục được hạn chế phương pháp ghi thẻ
song song là vẫn còn ghi trùng lặp giữa kho và phòng kế toán về chỉ tiêu số lượng,
mặt khác việc kiểm tra, đối chiếu giữa thủ kho và kế toán chỉ được tiến hành vào
cuối tháng nên hạn chế tác dụng của kiểm tra kế toán. Do đó trên lý thuyết thì
phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có vật tư ít, không có điều
kiện ghi chép, theo dõi tình hình nhập - xuất hàng ngày còn thực tế thì thường ít áp
dụng phương pháp này.
Còn phương pháp ghi sổ số dư có nhiều ưu điểm hơn cả so với hai phương
pháp trên, khắc phục được sự ghi chép trùng lặp giữa thủ kho và phòng kế toán, nó
còn giảm bớt được khối lượng ghi chép kế toán, công việc được tiến hành đều
trong tháng. Cho nên phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp sản xuất có
khối lượng các nghiệp vụ xuất nhiều, thường xuyên, nhiều loại chủng loại vật liệu