Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Tiểu luận Đảng cộng sản Việt Nam ra đời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.25 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – QUÁ TRÌNH SÀNG
LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC
VIỆT NAM
LỚP A04, NHĨM …
HỌC KÌ 201, NĂM HỌC 2020-2021
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT

Họ và tên đệm

Tên

Tp. Hồ Chí Minh – 2020

MSSV


MỞ ĐẦU
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải
qua rất nhiều chặng đường gian lao và thử thách, nhưng vẫn
trường tồn và phát triển. Một trong những yêu tố cốt lõi và chi phối
đời sống tinh thần của dân tộc, đó chính là “lịng nồng nàn” yêu
nước của dân tộc Việt Nam. Nhưng chỉ có lịng u nước khơng vẫn
chưa đủ, nếu u nước mà khơng có đường lối, khơng có phương
pháp đúng đắn thì cũng thất bại. Mà để có thể định hướng, dẫn lối
người u nước thì địi hỏi người lãnh đạo, định hướng và đưa ra
được phương hướng đúng đắn. “Lãnh đạo” ấy được nhắc đến chính


là Đảng cộng sản Việt Nam. Vậy điều gì đã làm cho Đảng ta có thể
nhận được sự tín nhiệm tuyệt đối từ nhân dân như vậy?
Có thể nói sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sứ
mệnh lịch sử. Để làm rõ được sứ mệnh ấy và trả lời cho câu hỏi đề
ra ở trên. Nhóm chúng em tiến đến thực hiện đề tài “ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA
LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM.”


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................0
NỘI DUNG................................................................................................................................2
I.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ
XX ...........................................................................................................................................2
1.1 BỐI CẢNH THẾ GIỚI...................................................................................................2
1.2 BỐI CẢNH TRONG NƯỚC...........................................................................................3
1.2.1
Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.................................3
1.2.2
Sự thay đổi tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam...................4
II. QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM..................................................................................5
2.1 PHONG TRÀO YÊU NƯỚC THEO HỆ TƯ TƯỞNG PHONG KIẾN......................................5
2.1.1
Phong trào Cần Vương...................................................................................5
2.1.2
Khởi nghĩa Yên Thế........................................................................................9
2.1.3
Phong trào đấu tranh của đồng bào miền núi..............................................14

2.1.4
Kết luận........................................................................................................16
2.2 PHONG TRÀO YÊU NƯỚC THEO HỆ TƯ TƯỞNG TƯ SẢN...........................................16
2.2.1
Phan Bội Châu và xu hướng vũ trang bạo động..........................................17
2.2.2
Phan Chu Trinh và xu hướng cải cách.........................................................20
2.2.3
Việt Nam quốc dân Đảng..............................................................................22
2.2.4
Phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại các thế lực tư bản nước
ngồi, chống độc quyền, địi cải cách dân chủ...........................................................23
2.2.5
Phong trào yêu nước của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị.......................23
2.3 PHONG TRÀO YÊU NƯỚC THEO HỆ TƯ TƯỞNG VƠ SẢN...........................................25
2.3.1
Vai trị của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển của phong trào yêu nước
theo hệ tư tưởng vô sản..............................................................................................25
2.3.1.1 Con đường xây dựng cách mạng vô sản ở Việt Nam......................................25
2.3.2
Sự phát triển phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản........................29
III. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM................................................31
3.1 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN.........31
3.1.1
Hội nghị thành lập Đảng..............................................................................31
3.1.2
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.......................................................33
3.2 GIÁ TRỊ CỦA SỰ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ
ĐẦU TIÊN..............................................................................................................................
37

KẾT LUẬN.............................................................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................45

1


NỘI DUNG
I.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

I.1

Bối cảnh thế giới
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do

cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Các đế quốc đua nhau xâm lược các nước
châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh. Sự xâm lược và bóc lột thực dân làm cho nhân dân
các thuộc địa rất khổ cực. Mâu thuẫn giữa các đế quốc với các dân tộc thuộc địa và
mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau rất gay gắt.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đã dẫn đến chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 - 1918); để lại cho nhân dân thế giới những hậu quả rất nặng nề. Thực dân
Pháp trút gánh nặng, tăng cường bóc lột, đàn áp cách mạng các nước thuộc địa.
Đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin (1870 - 1924) đã bảo vệ và phát triển học thuyết
Mác, đưa ra lý luận về đảng vô sản kiểu mới của giai cấp công nhân, về cách mạng
vô sản trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc; về nhiệm vụ kinh tế và chính trị trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội... Sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thúc đẩy phong
trào cách mạng thế giới phát triển.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 làm rung chuyển thế
giới, thức tỉnh hàng triệu người, mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc và giải

phóng dân tộc.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản, trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng
thế giới được thành lập, thúc đẩy sự ra đời các đảng cộng sản và dẫn đến cao trào
cách mạng thế giới (1919 - 1923). Tháng 7/1920. V.I Lênin gửi tới tới các Đảng
Cộng sản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa. Tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc được đọc và tìm thấy ở bản Luận cương của Lênin
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

2


Cuộc cách mạng Tân Hợi (10/1911) ở Trung Quốc, công cuộc Canh tân đất
nước của Nhật Bản cuối thế kỷ XIX; phong trào “bất bạo động” của Đảng Quốc Đại
ở Ấn Độ lãnh đạo những năm đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng đến tư tưởng, thu hút sự
quan tâm của nhiều người yêu nước Việt Nam.
I.2

Bối cảnh trong nước

I.2.1 Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình
nhà Nguyễn ký Hiệp ước Pba kỳ với atơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở tồn
Việt Nam.
Về chính trị, Pháp sử dụng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi
quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố mọi sự chống đối; Sử dụng chính sách “chia để
trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau; duy trì triều đình
phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính
trị và bóc lột kinh tế. Qua đó cho thấy nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn
áp, bóc lột, cuộc sống vơ cùng khổ cực.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần

thứ nhất (1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy
Việt Nam là trọng điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà
phê, chè...) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận
nhiều và nhanh; Xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển
các cơ sở công nghiệp chế biến; Độc quyền ngoại thương; Ngân hàng Đơng Dương
của Pháp độc quyền tài chính; đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân;
Thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự
phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc
địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.

3


Về văn hố, thực dân Pháp thực hiện chính sách nơ dịch văn hố; xố bỏ hệ
thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế; Pháp mở
nhà tù, trại giam nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ
nạn cờ bạc, rượu chè, hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả là
hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thơng tin tiến bộ từ bên ngồi.
I.2.2 Sự thay đổi tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam
Việt Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Trong đó có các giai cấp như:
Giai cấp địa chủ: đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét,
vừa có tinh thần dân tộc chống Pháp, số it địa chủ lớn trở thành tay sai, chỗ dựa của
thực dân Pháp là đối tượng của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc
lột, cuộc sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản : Gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh,
sinh viên... phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp
bênh nên hăng hái đấu tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.

Giai cấp tư sản: Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở
thành tay sai của chúng. Bộ phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản
nước ngồi chèn ép nên có tinh thần dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp cơng nhân: Có tính chất tiên tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và
tính chất quốc tế. Giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc,
vừa lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã
nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị độc lập. Cơng nhân Việt Nam đa số xuất
thân từ nông dân, bị bần cùng hố nên có quan hệ gần gũi với nơng dân, rất thuận
lợi cho liên minh công nông. Trong các giai cấp ở Việt Nam lúc đó "Chỉ có giai cấp
cơng nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn
đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào

4


vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và
đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”'.
Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp va giữa nhân dân Việt Nam (đa số là nông dân)
với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau địi hỏi đồng
thời giải quyết. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã
hội Việt Nam nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh
nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
II.

Quá trình sàng lọc của lịch sử dân tộc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản

Việt Nam
II.1


Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến

II.1.1 Phong trào Cần Vương
II.1.1.1

Nguyên nhân bùng nổ phong trào Cần Vương

Sau hai Hiệp ước Hácmăng (1883) và Patơnốt (1884), Pháp đã hoàn thành về
cơ bản cuộc xâm lược Việt Nam, thiết lập chế độ bảo hộ ở Bắc Kì và Trung Kì.
Phái chủ chiến trong triều đình Huế, đại diện là Tơn Thất Thuyết mạnh tay hành
động, phế bỏ những ông vua thân Pháp, đưa Hàm Nghi lên ngơi, bí mật xây dựng
sơn phịng, tích trữ lương thảo và vũ khí để chuẩn bị chiến đấu.
Đêm ngày 4 rạng ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn cơng Pháp tại
đồn Mang Cá, tồ Khâm sứ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Pháp phản
công, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra sơn phịng Tân Sở (Quảng Trị).
Ngày 13-7-1885, ơng đã nhân danh nhà vua xuống chiếu Cần vương kêu gọi văn
thân cùng nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước.
Ở Quãng Trị một thời gian, để tránh sự truy lùng ráo riết của quân Pháp, Tôn
Thất Thuyết lại đưa Hàm Nghi ra sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê, Hà Tĩnh). Tại
đây, ngày 20-9-1885, chiếu Cần Vương lần thứ hai được phát ra.1

1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), lịch sử 11 nâng cao, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 246.

5


II.1.1.2

Nội dung và ý nghĩa của chiếu Cần Vương


Chiếu Cần Vương tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, sự
phản bội của một số quan lại, tính bất hợp pháp của triều đình Đồng Khánh do Pháp
mới dựng lên và khích lệ sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước quyết tâm kháng
chiến đến cùng.2
Chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cùng tham gia chống Pháp, khôi phục nền
độc lập, khôi phục chế độ phong kiến có vua là người tài giỏi. Từ đó thổi bùng ngọn
lửa yêu nước, vốn đang âm ỉ cháy trong quần chúng nhân dân và nhanh chóng biến
thành một phong trào lớn kéo dài hơn 10 năm, tới cuối thế kỷ 19 mới bị dập tắt.
II.1.1.3

Các giai đoạn phát triển của phong trào Cần Vương:

Giai đoạn 1: từ giữa năm 1885 đến tháng 11-1888, phong trào phát triển theo
chiều rộng và diễn ra khắp cả nước. Đặc điểm của giai đoạn này là phong trào còn
đặt dưới sự chỉ huy thống nhất đến một trình độ nhất định của Hàm Nghi và Tôn
Thất thuyết.3
Nhiều văn thân sĩ phu và nhân dân yêu nước đã hưởng ứng chiếu Cần Vương
qua việc tập hợp các nghĩa binh, xây dựng lên căn cứ. Họ cùng nhau đấu tranh
mạnh mẽ đầy quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên địa bàn rộng lớn
thuộc Bắc và Trung Kì.
Ở Bắc Kì có nhiều cuộc khởi nghĩa được biết đến như Khởi nghĩa Cai Kinh ở
Bắc Giang, khởi nghĩa Đốc Tít ở Đơng Triều, khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích, khởi
nghĩa Tạ Hiện ở Thái Bình và Nam Định, khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuận ở Hưng
Yên và Hải Dương, khởi nghĩa Đinh Công Tráng và Phạm Bành ở Thanh Hóa, khởi
nghĩa của Phan Đình Phùng và Lê Ninh ở Hương Khê-Hà Tĩnh…
Tại khu vực Trung Kì, nổi bật là khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm
Tuân ở Quảng Bình, khởi nghĩa của Trần Quang Dự, Nguyễn Duy Hiệu và Nguyễn
Hàm ở Quảng Nam, khởi nghĩa của Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi, khởi nghĩa Mai
Xuân Thưởng ở Bình Định….
2 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), lịch sử 11 nâng cao, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 246.


3

Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 68.

6


Tới cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi
đã bị bắt (11-1888), sự kiện này gây tâm lí hoang mang trong hàng ngủ các sỉ phu
văn thân yêu nước.4
Sau khi bị bắt nhà vua đã hiên ngang cự tuyệt mọi sự dụ dỗ của Pháp, chấp
nhận đi đày ở Angieri, giai đoạn thứ nhất của khởi nghĩa Cần Vương kết thúc.
Giai đoạn 2: từ cuối năm 1888 đến năm 1896, Phong trào phát triển theo chiều
sâu, quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn.
Ở giai đoạn này, mặc dù khơng có sự lãnh đạo từ triều đình kháng chiến nhưng
phong trào Cần Vương vẫn quy tụ nhiều văn thân sĩ phu yêu nước và phát triển
thành nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, có trình độ tổ chức cao hơn, duy trì cuộc chiến đấu
dẻo dai trong nhiều năm cuối thế kỉ XIX.
Một số cuộc khởi nghĩa lớn như cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình
Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa
Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuận chỉ huy….
Trong giai đoạn này, xuất hiện nhiều khởi nghĩa lớn nhưng thực dân Pháp
cũng tăng cường càn quét mạnh. Do đó, để duy trì và phát triển hoạt động, các
nghĩa quân phải chuyển địa bàn hoạt động đến nhiều vùng khác, từ đồng bằng lên
trung du và miền núi.
Cuối năm 1895 - đầu năm 1896, với việc chấm dứt tiếng súng chống Pháp trên
núi Vụ Quang trong khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương coi như kết
thúc.5
II.1.1.4


Đặc điểm của phong trào Cần Vương

Phạm vi hoạt động: Giai đoạn đầu của phong trào Cần Vương diễn ra trên
phạm vi rộng khắp cả nước, đặc biệt ở Bắc – Trung Kì, giai đoạn sau chuyển trọng
tâm dần về vùng núi và trung du.

4

Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam - tập 2, Nxb.

Giáo Dục, Hà Nội, 69.

5

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), lịch sử 11 nâng cao, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 249.

7


Quy mơ lớn (hàng trăm cuộc khởi nghĩa) nhưng cịn nhỏ lẻ, tự phát, mang tính
địa phương cũng như thiếu sự liên kết chặt chẽ thành phong trào tòan quốc.
Lãnh đạo bao gồm văn thân, sĩ phu yêu nước.
Lực lượng tham gia gồm đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông
dân.
Mục tiêu của phong trào Cần Vương là chống đế quốc và phong kiến đầu
hàng, giải phóng dân tộc.
Tính chất nổi bật: Yêu nước, chống xâm lược trên lập trường phong kiến.
2.1.1.5 Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của phong trào Cần Vương
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của

các sĩ phu văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp, tiêu biểu là: Khởi
nghĩa Bãi Sậy (1883–1892) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên; Khởi nghĩa Ba
Đình (1886–1887) của Đinh Cơng Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn, Thanh Hóa; Khởi
Nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892) của Tống Duy Tân, Cao Điển ở Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa; Khởi nghĩa Hương Khê (1885–1896) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở
Hương Khê, Hà Tĩnh.
2.1.1.6 Nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương
Phong trào Cần Vương thất bại bởi vì phong trào mang tính tự phát, chỉ có
một mục tiêu nhỏ lẽ; Các lãnh tụ của phong trào chỉ có uy tín tại địa phương nơi
xuất thân, đồng thời lại chống lại mọi sự thống nhất phong trào; Thiếu sự quy tụ và
đường lối lãnh đạo: Phong trào Cần Vương vẫn chưa hội tụ và tập hợp được thành
một khối thống nhất, chưa có phương hướng hoạt động cũng như đường lối chiến
lược rõ ràng; Quan hệ với nhân dân: Các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần
Vương không lấy được sự tin tưởng từ dân chúng bởi gốc rễ chưa xuất phát từ nơng
dân, cịn đi cướp bóc của nhân nhân.; Mâu thuẫn tôn giáo: Xung đột với Công giáo
với sự tàn sát vô cớ khiến nhiều giáo dân phải tự vệ bằng cách kết nối thông đồng
với thực dân Pháp; Mâu thuẫn sắc tộc: Sự sai lầm trong chính sách sa thải các quan
chức Việt, cho dân tộc thiểu số quyền tự trị khiến các sắc dân này đã đứng về phía
Pháp. Điều này khiến cho các dân tộc thiểu số cắt đường liên lạc của quân Cần

8


Vương, người Thượng đã bắt vua Hàm Nghi; Trang bị vũ khí thơ sơ; Lực lượng
cách mạng nhỏ lẽ, địa phương, quá chênh lệch so với Pháp; Tinh thần chiến
đấu: Nhiều thủ lĩnh phản bội nhanh chóng đầu hàng bng bỏ vũ khí khi nhận thấy
sự bất lợi cho cuộc khởi nghĩa.
II.1.2 Khởi nghĩa Yên Thế
II.1.2.1


Nguyên nhân bùng nổ

Tình hình suy sụp của nông nghiệp Việt Nam dưới thời Nguyễn đã làm cho
nhiều nông dân nhiều vùng đồng bằng Bắc Kì buộc phải bỏ làng mạc đi nơi khác
kiếm sống. Trong đó có một số người đã lên Yên Thế. Từ giữa thế kỉ XIX, họ bắt
đầu lập ra một số làng mạc và tổ chức làm ăn, chống lại các thế lực đe dọa từ bên
ngoài tới.
Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng Bắc Kì, n Thế trở thành
đối tượng bình định đầu tiên của chúng. Để bảo vệ cuộc sống của mình, nơng dân
n Thế đã nổi dậy chống Pháp. Phong trào bắt đầu bùng nổ từ năm 1884 và kéo
dài mãi tới năm 1913.6
II.1.2.2

Các giai đoạn của cuộc khởi nghĩa

Giai đoạn 1: từ năm 1884 đến năm 1892. Giai đoạn này, các toán nghĩa qn
cịn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự phối hợp và chỉ huy thống nhất. Lúc bấy giờ xuất
hiện hàng chục toán nghĩa quân của Đề Nắm, Bá Phức, Thống Luận, Tổng Tài, Đề
Thuật, Đề Chung... Mỗi thủ lĩnh cầm đầu một toán quân và làm chủ một vùng7.
Tới cuối năm 1889, lực lượng của Đề Thám gồm khoảng 500 quân được huấn
luyện chu đáo. Đề Thám liên kết với lực lượng của Lương Tam Kỳ, một chỉ huy
quân Cờ đen, và thủ lĩnh người Thái Đèo Văn Trị. Ngoài căn cứ địa Yên Thế, Đề
Thám còn tổ chức đồn điền tại Phủ Lạng Thương, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc Yên
và Bắc Giang.

6

Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam - tập 2, Nxb.

Giáo Dục, Hà Nội, 86.


7 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 87.

9


Trong giai đoạn này, tuy phong trào chưa được thống nhất vào một mối, nhưng
nghĩa quân vẫn hoạt động có hiệu quả. Tháng 11-1890, nghĩa quân Đề Thám đã
giành thắng lợi trong trận chống càn ở Cao Thượng. Từ đầu đến cuối tháng 121890, ba lần quân Pháp tấn công vào Hố Chuối, nhưng cả ba lần chúng đều bị nghĩa
quân Đề Thám đánh bại. Đến cuối năm 1891, nghĩa quân đã làm chủ hầu hết vùng
Yên Thế, mở rộng hoạt động sang cả Phủ Lạng Thương. Năm 1891, quân Pháp lại
tấn công Hố Chuối, nghĩa quân Đề Thám phải rút lên Đồng Hom. Tranh thủ thời cơ,
chúng tiến nhanh vào vùng Nhã Nam, rồi vừa tổ chức các cuộc càn quét, vừa xây
dựng các đồn bốt để bao vây nghĩa quân.
Nhằm ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, nghĩa quân đã lập một
cụm cứ điểm gồm 7 hệ thống cơng sự ở phía bắc n Thế do Đề Nắm, Đề Thám,
Bá Phức, Đề Tâm, Đề Tuất, Đề Chung, Tổng Tài chỉ huy. Lúc này, Đề Nắm là một
trong những thủ lĩnh có uy tín nhất của nghĩa quân Yên Thế. Tháng 3 - 1892, Pháp
huy động hơn 2.200 quân bao gồm nhiều binh chủng (công binh, pháo binh...) do
tướng Voarông (Voiron) chỉ huy ào ạt tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Do tương
quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch chiến đã phải rút
khỏi căn cứ. Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu rõ rệt. Khó khăn ngày càng nhiều,
một số thủ lĩnh ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có Đề Nắm bị
giết vào tháng 4 - 1892.
Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành
thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân Yên Thế.8 Tuy gặp khó khăn, nhưng thế mạnh của
qn n Thế là thơng thuộc địa hình và cơ động, giúp họ thốt được vòng vây của
quân Pháp.
Giai đoạn 2: từ năm 1893 đến năm 1897. Trong giai đoạn này, nghĩa quân đã
hai lần đình chiến với Pháp, lần thứ nhất vào tháng 10 - 1894, lần thứ hai vào tháng

12-1897.
Sau khi Đề Nắm hi sinh, Đề Thám đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào n
Thế. Ơng đã khơi phục những tốn qn cịn sót lại ở n Thế và các vùng xung
8 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 88.

10


quanh, rồi tiếp tục hoạt động. So với giai đoạn trước, số lượng nghĩa quân tuy có
giảm, nhưng địa bàn hoạt động lại mở rộng hơn.
Năm 1894, nghĩa quân trở về Yên Thế tiến hành xây dựng lại căn cứ Hố
Chuối, đồng thời mở rộng hoạt động ra các vùng thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang. Lúc
này, các phong trào Bãi Sậy, Ba Đình, cũng như các đội quân kháng chiến của Đốc
Ngữ, Đề Kiều đều đã tan rã, nên thực dân Pháp có điều kiện tập trung lực lượng đàn
áp khởi nghĩa n Thế. 9
Về phía nghĩa qn, tuy có giành được một số thắng lợi, nhưng lực lượng cũng
suy yếu rõ rệt. Trong tình hình đó, Đề Thám thấy cần phải hịa hỗn với Pháp để
tranh thủ thời cơ củng cố lực lượng. Tháng 10-1894, cuộc thương lượng giữa nghĩa
quân Yên Thế và thực dân Pháp kết thúc.Theo đó, phía Pháp trả 15.000 francs tiền
chuộc, họ phải rút khỏi Yên Thế và để Đề Thám kiểm soát 4 tổng Nhã Nam, Mục
Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng, với quyền thu thuế trong 3 năm. Trong thời gian này,
Đề Thám tới sống ở đồn Phồn Xương và cho cày cấy với quy mơ lớn. Ơng cũng
được Kỳ Đồng hỗ trợ, tuyển mộ người cho ông từ thành phần phu từ một đồn điền
của Pháp do Kỳ Đồng quản lý.
Năm 1895, Đề Thám tham gia tổ chức đánh Bắc Ninh, và từ chối trả lại những
vũ khí mà ơng chiếm được tại đây cho phía Pháp. Tới tháng 11-1895, thiếu tá
Gallieni đưa một pháo thuyền chở quân lên uy hiếp, buộc Đề Thám đầu hàng,
nhưng nghĩa quân Đề Thám đã chống đỡ quyết liệt. Để tránh những cuộc đụng độ
lớn với quân Pháp, Đề Thám chủ trương chia nghĩa quân thành những toán nhỏ
phân tán hoạt động trong rừng và ở các làng mạc. Nghĩa quân phải di chuyển hoạt

động trong bốn tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phúc Yên.
Trước sự truy lùng và vây quét ráo riết của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân
ngày càng suy yếu. Để bảo tồn lực lượng, Đề Thám lại xin giảng hịa với Pháp lấn
thứ hai. Thực dân Pháp lúc này cũng muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai
thác thuộc địa. Vì vậy, tháng 12-1897, hiệp ước hịa hỗn giữa thực dân Pháp và
nghĩa quân Đề Thám đã được ký kết với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ hơn,
9 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 88.

11


nghĩa quân phải nộp cho Pháp tất cả vũ khí và phải bãi binh. Đề Thám bề ngoài tỏ
ra là phục tùng, nhưng bên trong vẫn ngầm củng cố lực lượng.10
Giai đoạn 3: từ năm 1898 đến năm 1908. Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa
quân Yên Thế vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu. Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa
quân vừa sản xuất tự túc lương ăn, vừa tăng cường sắm sửa vũ khí, ra sức luyện tập.
Nhờ vậy, lực lượng nghĩa quân ở Phồn Xương tuy không đông (khoảng 200 người),
nhưng rất thiện chiến. Đồng thời, Đề Thám còn mở rộng quan hệ giao tiếp với các
nhà yêu nước ở Bắc và Trung Kì,
Tại Yên Thế, nghĩa quân Hồng Hoa Thám đã hai lần đón tiếp nhà u nước
Phan Bội Châu. Giữa năm 1906, Châu Trinh cũng lên Yên Thế gặp Đề Thám. Đề
Thám còn lập một căn cứ gọi là đồn Tú Nghệ dành cho các nghĩa sĩ miền Trung ra
huấn luyện quân sự. Về phía Pháp, trong thời gian này chúng đã ráo riết lập đồn,
bốt, mở đường giao thông..., tạo mọi điều kiện cần thiết để đánh đòn quyết định vào
căn cứ nghĩa quân Yên Thế.11
Giai đoạn 4: từ năm 1909 đến năm 1913. Năm 1908, Đề Thám tham gia cuộc
nổi dậy của lính khố xanh tại Bắc Ninh, Nam Định và Nhã Nam, khiến một sĩ quan
Pháp bị giết. Tới 27-7-1908, xảy ra vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội có sự tham
gia của Đề Thám. Cuộc binh biến này được chuẩn bị rất chu đáo, theo đó nghĩa
quân sẽ bắn phá đồn binh Pháp tại Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Quân đội 108, Hà

Nội) bằng đại bác nhằm vô hiệu hóa đồn này. Các đồn binh tại Sơn Tây và Bắc
Ninh sẽ bị chặn đánh, không cho tiếp cứu Hà Nội. Qn Đề Thám chờ ngồi thành
Hà Nội, chờ tín hiệu từ trong thành, sẽ đánh Gia Lâm và cắt đường xe lửa và điện
thoại. Tuy nhiên cuộc binh biến thất bại, quân Đề Thám phải rút về, 24 người tham
gia cuộc binh biến bị Pháp xử tử, 70 người bị xử tù chung thân.
Nhân cơ hội này, thực dân Pháp chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt nghĩa
quân. Tháng 1-1909, dưới quyền chỉ huy của đại tá Batay (Bataille), khoảng 15.000
quân cả Pháp và ngụy đã ào ạt tấn công vào Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ,
10 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 89.
11 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 89.

12


vừa chuyển dần xuống Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, rồi rút sang Tam Đảo, Thái
Nguyên. Trên đường di chuyển, nghĩa quân vẫn tổ chức đánh trả quyết liệt, gây cho
địch những thiệt hại nặng nề. Điển hình là trận chặn giặc ở đồn Hom, Yên Thế
(ngày 30 tháng 1 năm 1909); trận núi Hàm Lợn ở Tam Đảo, Phúc Yên (ngày 15
tháng 3 năm 1909).
Trước các cuộc vây quét tiêu diệt gắt gao của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân
ngày càng giảm sút. Đến cuối năm 1909, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, hoặc sa
vào tay giặc, như Cả Trọng, Cả Huỳnh, Cả Tuyển (con Nguyễn Thiện Thuật), Ba
Biều, bà Ba Cẩn... Có một số người ra hàng như: Cả Dinh, Cai Sơn... Từ 29-1 tới
11-11 năm 1909, quân Đề Thám thua 11 trận quan trọng, bị quân Pháp vây hãm tại
Yên Thế. Bà Ba Cẩn bị bắt, bị đày đi Guyana. Đến đây, phong trào coi như đã thất
bại về cơ bản12.
Do lực lượng giảm sút, nhiều người bỏ trốn, Đề Thám phải nhờ đến Lương
Tam Kỳ hỗ trợ. Tuy nhiên, ngày ngày 10 tháng 2 năm 1913, Đề Thám bị hai tên thủ
hạ Lương Tam Kỳ giết hại tại một khu rừng cách chợ Gồ 2 km, nộp đầu cho Pháp
lấy thưởng. Sự kiện này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào khởi nghĩa

Yên Thế.
II.1.2.3

Nguyên nhân thất bại của khởi nghĩa Yên Thế

Khởi nghĩa Yên Thế thất bại , nguyên nhân vì tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám
(chủ hịa) khơng hợp với nhiều nghĩa quân (chủ chiến). Nhiều nghĩa quân đã bị trói
buộc vào tình trạng tá điền khơng cơng cũng gây nên sự rạn nứt trong nội bộ của
nghĩa quân. Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lòng dân do đơi khi nghĩa qn vẫn
cướp bóc, sách nhiễu dân chúng. Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để giữ một
vùng đất nhỏ độc lập với chính quyền của Pháp, chỉ phù hợp với nông dân lưu tán
cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn hút được các thành phần xã hội khác ở Việt Nam
lúc đó. Khởi nghĩa cịn thiếu sự cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại
thời điểm Việt Nam lúc bấy giờ khiến cho lực lượng chênh lệch rất nhiều so với

12 Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 90.

13


Pháp. Ngoài ra, việc Pháp cấu kết với lực lượng phong kiến cũng là một trong
nguyên nhân khiến cuộc khởi nghĩa thất bại.
II.1.3 Phong trào đấu tranh của đồng bào miền núi
II.1.3.1

Diễn biến của phong trào

Các vùng trung du và miền núi là nơi thực dân Pháp tiến hành bình định muộn
hơn. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược nơi đây bùng nổ sau
phong trào vùng đồng bằng, nhưng tồn tại bền bỉ và kéo dài hơn (phong trào diễn ra

đồng thơi với cuộc xâm lược, bình định của Pháp).
Ở Nam Kì, trong cuộc khởi nghĩa của Trương Định, đồng bào Khơme, Stiêng,
Mơnông đã tham gia rất tích cực…Sau đó người Khơme, ở Cao Miên và một số dân
tộc thiểu số ở Việt Nam đã kề vai sát cánh chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Trương
Quyền và Pu Cum Pao.
Ở miền Trung, phong trào đấu tranh vũ trang của đồng bào thiểu số rất sôi nổi.
Đáng chú ý có đội nghĩa quân người Mường do Hà Văn Mao cầm đầu. Hà Văn Mao
tham gia chiến đấu tại căn cứ Ba Đình, sau khi Ba Đình bị vỡ thì rút lên căn cứ Mã
Cao để tiếp tục chiến đấu. Tháng 4-1887, Hà Văn Mao bị giết, lực lượng chống
Pháp ở miền núi Thanh Hóa lại được tập hợp dưới ngọn cờ của Cầm Bá Thướt, một
tù trưởng người Thái ở vùng Thường Xuân (Thanh Hóa).13
Địa bàn hoạt động của đội nghĩa quân do Cầm Bá Thước phụ trách chủ yếu ở
vùng rừng núi Tây Thanh Hóa với căn cứ trung tâm Trịnh Vạn. Ơng cịn phối hợp
tác chiến với nghĩa quân Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân ở Vĩnh Lộc, nhất là vào giai
đoạn cuối của cuộc khởi nghĩa. Sau khi căn cứ Hùng Lĩnh bị phá vỡ, ông lại gia
nhập nghĩa quân Hương Khê (Hà Tĩnh) và đứng đầu quân thứ Thanh Hóa (Thanh
Thứ). Năm 1895, ông bị Pháp bắt, phong trào đấu tranh chống Pháp ở miền núi
Thanh Hóa mới hồn tồn tan rã.

13

Đinh Xn Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam - tập 2,

Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 90.

14


Ở Tây Nguyên, khi quân Pháp kéo lên bình định, các tù trưởng M’Trang Guh,
Ama Wal, Ama Kol, Ama Jhao đã kêu gọi nhân dân rào làng đánh Pháp. Cuộc đấu

tranh kéo dài suốt từ năm 1889 đến năm 1905 mới chấm dứt.
Ở vùng Tây Bắc (Bắc Bộ), đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Mông đã tập
hợp dưới ngọn cờ chống Pháp của Ngơ Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp. Nghĩa quân
đã xây dựng căn cứ ở Lai Châu, Sơn La và hoạt động mạnh trên vùng lưu vực sông
Đà.
Trong những năm 1884-1890, xuất hiện nhiều thủ lĩnh người Thái như Đèo
Văn Trì, Nơng Văn Quang, Cầm Văn Thanh, Cầm Văn Hoan…Đáng chú ý là đồng
bào Dao, Thái ở Sơn La, Yên Bái do Đèo Chính Lục, Đặng Phúc Thành, Bàn Văn
Siêu đứng đầu đã tổ chức nhiều trận phục kích qn Pháp ở Tun Quang, Hà
Giang. Đồng bào Mơng do Hà Quốc Thượng lãnh đạo cũng nổi dậy chống Pháp từ
năm 1894 đến 1896.
Ở vùng Đông Bắc (Bắc Bộ) bùng nổ một số phong trào chống Pháp của người
Dao, người Hoa. Tiêu biểu là đội nghĩa quân của Lưu kỳ (người Hoa). Đội quân này
hoạt động mạnh ở vùng Móng Cái, Đơng Triều, có lúc tràn xuống vùng đồng bằng
quấy rối quân Pháp. Sau khi Lưu Kỳ mất (đầu 1892), phong trào chống Pháp ở vùng
Đông Bắc mới bị dập tắt.14
II.1.3.2

Ý nghĩa lịch sử

Nhìn chung, phong trào chống Pháp của đồng bào miền núi bùng nổ khá kịp
thời, phát triển mạnh mẽ và được duy trì tương đối dài, ,vì vậy đã trực tiếp góp phần
làm chậm q trình xâm lược và bình định của thực dân Pháp lên các vùng sâu,
vùng xa, đồng thời để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báo cho các phong trào
đấu tranh yêu nước sau này.
II.1.3.3

Nguyên nhân thất bại của phong trào

Do thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp ngày càng kết hợp chặt chẽ đàn áp

quân sự với mua chuộc chính trị, các tốn nghĩa qn của đồng bào miền núi lại

14

Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam - tập 2,

Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 91.

15


hoạt động riêng lẽ, thiếu liên kết phối hợp với nhau nên dễ bị tiêu diệt. Sự chênh
lệch về lực lượng, vũ khí, kỹ thuật chinh chiến giữa đồng bào miền núi và Pháp.
Phong trào đấu tranh lẻ tẻ, tự phát, chưa có sự liên kết với nhau để tạo thành một
phong trào mang tính tồn quốc, từ đó dễ dàng bị kẻ thù tập trung lực lượng đàn áp.
II.1.4 Kết luận
Nguyên nhân thất bại chung của các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng
phong kiến là các phong trào diễn ra nhỏ lẻ, tự phát, không thống nhất nên chênh
lệch về mặt lực lượng với Pháp, vũ khí cịn thơ sơ nên dễ dàng bị lực lượng của
thực dân Pháp đàn áp. Khuynh hướng đấu tranh theo tư tưởng phong kiến khơng
cịn phù hợp với thời điểm lúc bấy giờ nữa. Thêm vào đó, các phong trào quá phụ
thuộc vao người lãnh đạo, dẫn đến khi người lãnh đạo bị bắt hoặc hi sinh thì phong
trào đều tan rã và thất bại. Lãnh đạo còn thiếu kinh nghiệm, đề ra đường lối đấu
tranh chưa hợp lí. Chỉ hơ hào cổ động không quan tâm đến vận động quần chúng,
khơng chủ động xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
Tuy thất bại nhưng những phong trào đấu tranh theo tư tưởng phong kiến đã
tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc
Việt Nam. Những cuộc khởi nghĩa diễn ra liên tiếp, tuy thất bại nhưng gây cho Pháp
những tổn thất nặng nề, từ đó làm chậm quá trình bình định và khai thác nước ta.
Thất bại của các phong trào chống thực dân Pháp đã chỉ ra rõ sự bế tắc trong đường

lối và cách thức chiến đấu trong công cuộc giành độc lập cho đất nước. Để từ đó ta
đút kết ra nhiều kinh nghiệm chiến trường, và tìm ra hướng đi mới giải cứu đất
nước.
II.2

Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Đầu thế kỷ XX, ý thức hệ tư tưởng tư sản phương Tây đã xâm nhập vào Việt

Nam. Phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Một số sĩ phu yêu nước, tiến bộ đã
tiếp thu trào lưu tư tưởng này với mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường
tư bản chủ nghĩa. Về mặt phương pháp, có sự phân hóa thành 2 xu hướng, tiêu biểu là
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.

16


II.2.1 Phan Bội Châu và xu hướng vũ trang bạo động
Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San), hiệu là Sào Nam, sinh ngày 26-121867 trong một gia đình nhà nho nghèo ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là
người thông minh, năm 16 tuổi đỗ đầu xứ,năm 33 tuổi đã đỗ đầu kì thi Hương ở Nghệ
An. Phan Bội Châu là “Bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20
triệu con người trong vịng nơ lệ tơn sùng”15
Ngay từ rất sớm ơng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Ông là
người cầm đầu một phong trào yêu nước cách mạng theo xu hướng bạo động mang
tính chất tư sản để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập dân tộc.
Có thể chia q trình hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu làm hai thời kỳ:
Thời kỳ Duy Tân Hội và Phong trào Đông Du (1904-1908). Tháng 5 năm 1904,
Phan Bội Châu lập ra Duy Tân Hội

16


tại Quảng Nam với mục tiêu cổ động phong

trào, tổ chức lực lượng chống thực dân Pháp giành độc lập, thiết lập chế độ quân chủ
lập hiến.
Về xây dựng lực lượng, ơng nói tới “mười hạng người đồng tâm” (các nhà hào
phú; các quan lại tại chức; các con nhà quyền quý; giáo đồ Thiên chúa giáo; lính tập;
hội đảng; thông ngôn, ký lục, bồi bếp; giới phụ nữ; con em các gia đình bị giặc tàn
sát; những người đi du học). Đến năm 1906, ơng đã thấy vai trị của tầng lớp người
lao động nghèo khổ nhưng vẫn chưa thấy vai trị của cơng nơng.
Ơng hy vọng dựa vào Nhật để đánh Pháp. Năm 1905, ông sang Nhật cầu viện,
tổ chức đưa gần 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật để học khoa học kỹ thuật và
quân sự (còn gọi là phong trào Đông Du). Con đường cứu nước của ông Phan Bội
Châu là phương pháp mang người, mang của đến đất Phù Tang cầu cứu nghĩa cử
“đồng văn”, “đồng chủng”, chạy đông, chạy tây, dĩ ngoại, đột nội, cuối cùng chỉ khởi
sự được mấy lần.

15 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Sđd, tr. 70
16 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007) lịch sử 11 nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 268

17


Do Pháp cấu kết với Nhật, tháng 9-1908, Nhật đã trục xuất Ông và thanh niên
Việt Nam ra khỏi nước Nhật.
Thời kỳ Việt Nam Quang Phục hội (1912-1918). Sau khi bị trục xuất khỏi nước
Nhật, Phan Bội Châu cùng một số thanh niên yêu nước Việt Nam tiếp tục hoạt động ở
nước ngồi, mong muốn tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, giải phóng dân tộc.
Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công (1911), Phan Bội Châu từ Thái Lan sang
Trung Quốc thành lập Việt Nam Quang Phục hội tại Quảng Đơng (1912). Ơng từ bỏ

lập trường qn chủ lập hiến chuyển sang lập trường dân chủ tư sản đánh đuổi thực
dân Pháp, thành lập cộng hoà dân quốc Việt Nam, cải tổ Việt Nam Quang Phục hội
17

thành Việt Nam Quốc dân đảng theo con đường của Tôn Dật Tiên.
Trong thời kỳ từ 1914 đến 1918, Hội đã có một số hoạt động về quân sự dọc

đường biên giới Việt-Trung.Với chủ trương đẩy mạnh hoạt động vũ trang, bạo động
muốn làm một việc gì đó “kinh thiên động địa” để “đánh thức đồng bào”, kêu gọi
“hồn nước”, Hội đã tổ chức được hai vụ ám sát( giết tuần phủ Nguyễn duy Hàn và hai
trung tá Pháp).
Nhưng trong thời kỳ này, thực dân Pháp điên cuồng khủng bố đàn áp và có
những hành động quỷ quyệt nên nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra bị thất bại. Ở Huế (khởi
nghĩa Duy Tân) do Thái Phiên và Trần Văn Cao chỉ huy bùng nổ vào tháng 5 năm
1916 đã bị bóp nghẹt từ trong trứng nước. Cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên (tháng 8
năm 1917 đến tháng 1 năm 1918) do Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo
đã chiếm giữ được thành phố nhưng cuối cùng bị đánh bật ra khỏi tỉnh lỵ.Ông Phan
bội Châu cũng bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt ở Quảng Đông và giam giữ đến năm
1916.Sau đó, Ơng bị kết án khổ sai chung thân. Việt Nam Quang Phục hội cũng tan rã
trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù.
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, thực dân Pháp buộc phải
“ân xá” và đưa Ơng về “an trí” tại Huế dưới sự kiểm soát chặt chẽ của mật thám.
Cuộc đời của ông Phan Bội Châu thật hào hùng, với bầu nhiệt huyết cách mạng, ông
17 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007) lịch sử 11 nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 268

18


đã bơn ba khắp nơi mong tìm được một con đường đi tới cho dân tộc, nhưng rồi cuối
đời đành sống cô quạnh trên bến Ngự, suy ngẫm than thở về đời mình: “Than ơi, lịch

sử của tơi là lịch sử một trăm lần thất bại mà không một thành công”. Ngày 29 tháng
10 năm 1940, ông tạ thế. Về con đường cứu nước của ông Phan Bội Châu, Nguyễn Ái
Quốc nhận xét: “Dựa vào tên đế quốc này để đánh tên đề quốc khác chẳng khác gì
đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Nguyên nhân thất bại của Phan Bội Châu:
Thứ nhất, ngay từ đầu ông đã sai lầm về mặt tư tưởng. Việc xác định kháng
Pháp bằng cách dựa vào Nhật của ông là điểm sai trọng yếu. Vì bản chất đế quốc
mà Nhật sẽ bất chấp tất cả, bất chấp cả thứ tinh thần châu Á mà ông tin Nhật sẽ tôn
trọng. Rốt cuộc, cái mà đế quốc Nhật muốn lúc đó là vấn đề bành trướng lãnh thổ
hơn là tình bang giao với các nước lân bang. Kết quả là, để có viện phí chi trả trong
cuộc chiến Nga Nhật, Nhật đã phải vay từ Pháp và chấp nhận yêu cầu tôn trọng các
nước thuộc địa của Pháp mà Pháp đưa ra. Từ đó, họ tiến hành trục xuất các thanh
niên trong phong trào Đông Du về nước, không chấp nhận thỉnh cầu giúp đỡ từ phía
Phan Bội Châu. Những điều này đã được các chí sĩ đương thời như Lương Khải
Siêu, Phan Châu Trinh nhìn thấu, nhưng Phan Bội Châu lại bị ánh hào quang của
chiến thắng 1905 của Nhật Bản làm lu mờ.
Thứ hai, Phan Bội Châu đã sai trong việc chủ trương cứu nước bằng con
đường bạo động. Tình cảnh bấy giờ ở nước ta sau cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào chỗ mê muội, nghèo nàn, dốt nát. Nếu như chỉ độc
một con đường bạo động vũ trang mà hy vọng có thể cứu nước là hồn tồn sai lầm.
Bởi chính việc thu phục nhân tâm, cơng cuộc “khai dân trí”, chấn hưng đất nước mà
Phan Châu Trinh từng nói đến mới là điều cần làm trước. Chỉ khi nào tập hợp được
một lực lượng to lớn là toàn thể nhân dân, trên dưới đồng lịng thì lúc đó, làm cách
mạng bằng con đường bạo động vũ trang mới nên tiến hành. Còn nếu chỉ bạo động
xảy ra lẻ tẻ ở một vài nơi, với sự ít ỏi về số lượng sẽ nhanh chóng bị dập tắt. Mà

19


tiêu biểu là sự đàn áp của thực dân Pháp lên những người làm hoạt động ám sát

trong hoạt động của Việt Nam Quang Phục Hội.
Thứ ba, Phan Bội Châu đã sai trong việc chủ trương cứu nước bằng con đường
dân chủ tư sản từ đó thiết lập nền cộng hịa. Vì thời điểm đó, cuộc khai thác thuộc
địa của thực dân pháp đã dần tạo ra sự chuyển biến giai cấp. Đông đảo trong xã hội
bấy giờ là giai cấp nông dân và công nhân. Trong khi cuộc cách mạng này lại đem
lại quyền lợi cho giai cấp tư sản. Về cơ bản, nó chỉ tiếp tục thay thế sự bóc lột từ
giai cấp phong kiến qua giai cấp tư sản. Tinh thần dân chủ là điểm tiến bộ lớn nhất
trong con đường này.
II.2.2 Phan Chu Trinh và xu hướng cải cách
Phan Chu Trinh (1872-1926) quê ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Năm 1900 ơng đỗ cử nhân, năm 1901 đỗ phó bảng. Phan Chu
Trinh cũng là một nhà yêu nước nhiệt thành. Ông lên án gay gắt tội ác của thực dân
Pháp và quan lại phong kiến, những kẻ theo Ông là đớn hèn, để đất nước ta rơi vào
tay thực dân Pháp. Chịu ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ tư sản và nhiều nhà
dân chủ tư sản Pháp, Ấn Độ, Phan Chu Trinh chủ trương dựa vào Pháp để tiến hành
cải cách, phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Ơng nói: “Bất bạo động, bạo
động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại tất vong”. Đó là lời tuyên bố của ông Phan
Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này, trong thư “Thất trảm” gửi vua
Khải Định khi Khải Định sang Pháp (1922), ông Phan Chu Trinh viết: “ Mau mau
quay đầu mà thoái vị đi, đem chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực
tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau này”. Chủ trương của Ơng
là dựa vào Pháp để tiến hành cải cách, thực hiện khai thơng dân trí, nâng cao dân
quyền, làm cho dân giàu, nước mạnh rồi mới tính đến giải phóng dân tộc.
Những hoạt động chủ yếu của Phan Chu Trinh:18
Về kinh tế: Chủ trương lập ra các hội buôn, kinh doanh hàng dệt vải, lâm sản,
giao thương với nước ngoài.
18 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007) lịch sử 11 nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 270

20



Về văn hoá: Mở trường dạy học theo lối mới, dạy chữ quốc ngữ, tiếng Pháp,
toán, lịch sử..., tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết cổ động dân quyền, dân chủ, đời sống
mới... diễn ra rất sôi nổi.
Từ năm 1906 đến năm 1908, Phan Chu Trinh cùng với Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp tiến hành cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ. Cuộc vận động đó đã
lơi cuốn phong trào đấu tranh chống sưu, thuế của nông dân Trung Kỳ. Phong trào
chống thuế bắt đầu từ huyện Đại Lộc, Quảng Nam (1908), sau đó lan rộng ra khắp
miền Trung.
Ở Bắc Kỳ (tháng 3 năm 1907), Lương Văn Can, Nguyễn Quyền cho mở trường
Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm vào việc cổ động lịng u nước, bài xích
chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế giễu hủ nho, cường
hào... Thực dân Pháp cho rằng: Đây là cái lị phiến loạn, vì vậy đến tháng 11 năm
1907, chúng đã quyết định đóng cửa trường.
Dù theo phương hướng bất bạo động, thực dân Pháp vẫn không chấp nhận
phương pháp ơn hồ của ơng Phan chu Trinh. Phong trào Duy Tân nhanh chóng thất
bại. Các trường học bị đóng cửa, các hội bn, kinh doanh bị cấm hoạt động... Chúng
cầm tù Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và hàng trăm người yêu nước khác tại
Côn Đảo. Năm 1911, được ra tù, ông sang Pháp. Năm 1925, được Pháp cho về nước,
ông lâm bệnh và mất ngày 24 thàng 3 năm 1926 tại Sài Gòn.
Cũng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh tự thừa nhận: “Tôi ngựa đã hết nước
kiệu, bây giờ thân tôi như chim lồng cá chậu và càng già thì gió dễ lay, người già thì
lẫn, cảnh tơi như hoa sắp tàn, vì quốc sự gia phong mà hối tâm càng phải gào cho hả
dạ, may ra có tỉnh giấc hồn mê”. Hạn chế của ông Phan Chu Trinh là phản đối bạo
động muốn dựa vào Pháp để chống chế độ phong kiến, cách làm đó chẳng khác gì
“xin giặc rủ lịng thương”.
Ngun nhân thất bại trong phòng trào Duy Tân của Phân Chu Trinh: Các đề
nghị cải cách của Phong trào Duy Tân còn tản mạn, xa rời thực tế, khơng phù hợp với
hồn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Hơn thế, các đề nghị này không đáp ứng được


21


nguyên vọng của các tầng lớp nhân dân, do đó khơng được nhân dân ủng hộ. Do triều
đình Huế bảo thủ, từ chối mọi cải cách và không muốn đổi mới. Điều này khiến cho
xã hội Việt Nam lẫn quẫn trong bế tắc của xã hội thực dân nữa phong kiến, đồng thời
cũng khiến các cải cách của phong trào Duy Tân xa rời thực tế.
II.2.3 Việt Nam quốc dân Đảng
Việt Nam quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài sáng lập. Đây
là một Đảng chính trị theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Nhóm hạt nhân đầu tiên là
Nam Đồng Thư Xã, một nhà xuất bản tiến bộ do Phạm Tuấn Tài sáng lập đầu năm
1927. Mục tiêu của Việt Nam quốc dân Đảng là: đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi
vua, thực hiện dân quyền.
Về tổ chức: Việt Nam quốc dân Đảng chia làm 3 cấp nhưng chưa bao giờ trở
thành hệ thống trong cả nước. Địa bàn hoạt động chủ yếu trong một số địa phương ở
Bắc Kỳ, không phát triển thành phong trào rộng lớn trong cả nước.
Thành phần đảng viên rất phức tạp (sinh viên, công chức, tư sản, thân hào, địa
chủ, phú nơng, binh lính Việt Nam trong qn đội Pháp...), tổ chức lỏng lẻo, ít có cơ
sở trong quần chúng. Sau sự kiện giết tên trùm mộ phu Ba Danh (9-2-1929) tại Hà
Nội, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, khủng bố.Hàng loạt đảng viên bị bắt, nhiều cơ
sở đảng bị vỡ. Nhiều cán bộ quan trọng của các cơ sở đảng bị bắt. Bị động trước tình
thế, các yếu nhân của Đảng đã quyết định khởi nghĩa với phương châm “không thành
công cũng thành nhân”. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng nổ ra đêm 92-1930 ở Yên Bái và một vài địa phương ở Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình đã bị
thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt. Nguyễn Thái Học cùng nhiều đồng chí của ơng
đã bị giết hại tại Yên Bái.Cuộc khởi nghĩa đó biểu thị tính chất hăng hái bồng bột
nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản và trí thức.Vai trị của Việt Nam quốc dân Đảng
trong phong trào dân tộc vừa mới nhen nhóm đã vĩnh viễn chấm dứt. Nó phản ánh
tính chất non yếu và không vững chắc của phong trào dân tộc dân chủ tư sản Việt
Nam.


22


Nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái là do lúc này, thực dân Pháp
còn mạnh, bản thân Việt Nam Quốc dân Đảng còn non kém về nhiều mặt, tổ chức
chưa chặc chẽ, còn lỏng lẽo. Bên cạnh đó, cuộc khởi nghĩa nổ ra chưa có sự chuẩn bị
kĩ càng dẫn đến bị động về nhiều mặt. Mặc dù bị thất bại, cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã
góp phần cổ vũ lịng u nước và chí căm thù giặc của nhân dân ta.
II.2.4 Phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại các thế lực tư bản nước
ngồi, chống độc quyền, địi cải cách dân chủ
Giai cấp tư sản Việt Nam sinh ra trong quá trình khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp, tiềm lực kinh tế nhỏ yếu, lại bị thực dân Pháp và tư sản mại bản Hoa Kiều
cạnh tranh. Vì vậy, năm 1919 đã dấy lên phong trào “tẩy chay các chú” ở Sài Gòn,...
Năm 1923, nổ ra cuộc đấu tranh chống sự độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn.
Cuộc đấu tranh đó đã lơi cuốn đơng đảo thanh niên, trí thức, tư sản và tiểu tư sản ở
Sài Gòn vùng lên đấu tranh, được một số tỉnh Nam Kỳ ủng hộ, có tiếng vang lớn đến
chính giới Pháp.
Năm 1924 Đảng lập hiến do Bùi Quang Chiêu đứng đầu được thành lập. Phần
lớn đảng viên và cán bộ chủ chốt của Đảng này đều có quốc tịch Pháp.
Mục tiêu của họ là xin nhà cầm quyền Pháp ban cho một bản hiến pháp; một
chế độ tự trị trong khuôn khổ của chế độ thực dân.
Chính sách của Đảng Lập Hiến là hợp tác Pháp-Việt. Năm 1925, Đảng Lập Hiến
đưa ra tập “Dân nguyện” gửi đến tồn quyền Đơng Dương Va-ren địi một số quyền
tự do dân chủ. Bùi Quang Chiêu còn sang Pháp vận động chính phủ Pháp ban hành
một số cải cách dân chủ cho Đông Dương nhưng đã thất bại. Cuối cùng Đảng Lập
Hiến đã chuyển sang lập trường chính trị phản động, bắt tay với thực dân Pháp.
II.2.5 Phong trào yêu nước của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị
Đó là phong trào đấu tranh sơi sục địi trả lại tự do cho ơng Phan Bội Châu năm
1925; phong trào tổ chức đám tang cho ông Phan Chu Trinh tháng 3 năm 1926. Đây
là một dịp biểu dương lòng yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc và dân chủ của đông


23


×