Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Chính sách kinh tế của chính phủ malaysia đối với sự phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.54 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

HỒNG THỊ GIANG

CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ
MALAYSIA
(ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TỘC NGƢỜI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành:

Châu Á học

HÀ NỘI 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HỒNG THỊ GIANG

CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ MALAYSIA
(ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TỘC NGƢỜI)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học
Mã số: 60 31 50


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS MAI NGỌC CHỪ

Hà Nội 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng
bố trong bất kì cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Giang


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tơi đã hồn thành luận văn
Thạc sĩ Châu Á học với đề tài “Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia
đối với sự phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc ngƣời”.
Để thực hiện đƣợc luận văn, ngồi sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tơi
cịn nhận đƣợc sự quan tâm, giúp đỡ của các thày cơ, bạn bè và gia đình.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến GS.TS Mai Ngọc Chừ - ngƣời
đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tơi rất nhiều trong q trình làm luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Sau đại học, Ban
chủ nhiệm khoa Đông Phƣơng học, các thày cô giáo Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Lãnh đạo Viện Nghiên
cứu Đông Nam Á và Phịng Nghiên cứu Hải đảo nơi tơi làm việc đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình và những ngƣời thân,
xin cảm ơn anh em, bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi thực hiện thành công
luận văn này.

Hà Nội ngày 31/12/2011
Hoàng Thị Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục tiêu của luận văn
4. Nhiệm vụ
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
6. Bố cục của luận văn
CHƢƠNG 1 Tổng quan về Malaysia và các tộc ngƣời chính

ở Malaysia
1.1 Đôi nét về đất nƣớc, con ngƣời và lịch sử Malaysia
1.1.1 Đất nƣớc
1.1.2 Con ngƣời và lịch sử Malaysia
1.2 Các tộc ngƣời chính ở Malaysia
1.2.1 Tộc ngƣời Malay
1.2.2 Tộc ngƣời Hoa
1.2.3 Tộc ngƣời Ấn
1.2.4 Các tộc ngƣời khác
CHƢƠNG 2 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia

đối với sự phát triển xã hội
2.1 Cơ sở hoạch định các chính sách kinh tế
2.2 Chính sách kinh tế mới
2.2.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu của Chính sách

kinh tế mới


2.2.2 Nội dung của Chính sách kinh tế mới
2.3 Chính sách phát triển Quốc gia
2.3.1 Nguyên nhân ra đời của Chính sách phát triển Quốc gia
2.3.2 Nội dung và mục tiêu của Chính sách phát triển Quốc gia
2.4 Các chính sách kinh tế đối với sự phát triển xã hội ở Malaysia
2.4.1 Tình hình Malaysia sau khi giành độc lập
2.4.2 Malaysia sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới
và Chính sách phát triển Quốc gia
CHƢƠNG 3 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia
đối với việc giải quyết mâu thuẫn tộc ngƣời
3.1 Khái quát về mâu thuẫn tộc ngƣời ở Malaysia
3.2 Tình hình kinh tế của ba tộc ngƣời chính ở Malaysia
3.2.1 Kinh tế của tộc ngƣời Malay
3.2.2 Kinh tế của tộc ngƣời Hoa
3.3.3 Kinh tế của tộc ngƣời Ấn
3.3 Những mâu thuẫn giữa các tộc ngƣời về vấn đề kinh tế
3.3.1 Những mâu thuẫn từ trƣớc khi độc lập
3.3.2 Những mâu thuẫn từ sau ngày độc lập
3.4 Một số chủ trƣơng, đƣờng lối, biện pháp và thành tựu
giải quyết vấn đề mâu thuẫn tộc ngƣời
3.4.1 Chủ trƣơng, đƣờng lối, biện pháp
3.4.2 Thành tựu
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BCIC

Cộng đồng công nghiệp và thƣơng mại bản địa

CPI

Chỉ số giá tiêu dùng

DAP

Đảng hành động dân chủ

FELCRA

Cơ quan thâm canh và phục hoá đất đai liên bang

FELDA

Cơ quan phát triển đất liên bang

FIDA

Uỷ ban phát triển nông nghiệp liên bang

GDP

Tổng sản phẩm quốc gia

GNP


Tổng sản phẩm quốc dân

HICOM

Công ty công nghiệp nặng

HQLI

Chỉ số đo chất lƣợng cuộc sống

MARA

Tổ chức phát triển cơng nghiệp ngồi khu vực nông thôn

MCA

Hiệp hội ngƣời Hoa Malaysia

MIC

Đại hội ngƣới Ấn Malaysia

MIDA

Uỷ ban phát triển cơng nghiệp Malaysia

NAP

Chính sách nơng nghiệp quốc gia


NDP

Chính sách phát triển quốc gia

NEP

Chính sách kinh tế mới

OPP1

Kế hoạch triển vọng lần thứ nhất

OPP2

Kế hoạch triển vọng lần thứ hai

OPP3

Kế hoạch triển vọng lần thứ ba

PIM

Đảng Islam toàn Malaysia

UMNO

Tổ chức dân tộc thống nhất Melayu



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1

Số người Hoa nhập cư vào Malaysia qua một số năm

Bảng 1.2

Tỷ lệ người Hoa trong cơ cấu dân cư của từng nước
Đông Nam Á năm 2000

Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6

Mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Malaysia
Mục tiêu phân phối lại lao động theo các ngành kinh tế
Chỉ tiêu phân bố lại lao động theo nghề nghiệp
Cơ cấu lại tỷ lệ vốn cổ phần
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaysia


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chính sách phát triển quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, vấn đề tộc ngƣời và
tơn giáo ln là những đề tài nóng hổi trong mọi thời đại. Hiện nay, song
song với sự gia tăng của khu vực hóa, tồn cầu hố, thế giới tiến tới một

ngơi nhà chung, thì xu hƣớng địa phƣơng hố, ly khai dân tộc, mâu thuẫn
sắc tộc do những đặc điểm khác nhau về lịch sử, văn hố, tơn giáo, tín
ngƣỡng, trình độ phát triển kinh tế... cũng có chiều hƣớng phát triển mạnh ở
nhiều nơi, trong đó có khu vực Đơng Nam Á. Các q trình và xu hƣớng
trên đã và đang làm tổn thƣơng đến chủ quyền quốc gia – dân tộc, đến sự ổn
định chính trị, phát triển kinh tế, hài hoà dân tộc và xã hội ở mỗi nƣớc, khu
vực và trên thế giới. Chính vì vậy, việc nhận thức đúng đắn và đƣa ra những
chính sách hợp lý để giải quyết những vấn đề trên là điều thật cần thiết và
cấp bách đối với mỗi quốc gia.
Malaysia cũng khơng nằm ngồi tình trạng đó. Là một quốc gia đa
dân tộc, đa tôn giáo, bị chia cắt thành nhiều vùng miền lãnh thổ, sau khi
giành đƣợc độc lập dân tộc vẫn là một đất nƣớc nghèo nàn với nền nông
nghiệp lạc hậu, phụ thuộc khá sâu sắc vào tƣ bản nƣớc ngồi trƣớc khi tiến
hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố, thì việc xố đói giảm nghèo, tăng
trƣởng kinh tế, phát triển xã hội đi đôi với việc giải quyết mâu thuẫn tộc
ngƣời, đem lại sự công bằng cũng là một vấn đề trọng tâm đầy thách thức
trong chính sách của chính phủ Malaysia. Với sự khác nhau về ngơn ngữ,
văn hố, tơn giáo, đặc biệt là sự chênh lệch về trình độ, địa vị kinh tế giữa
ngƣời bản địa và những ngƣời nhập cƣ (Hoa, Ấn) mà ở Malaysia đã xảy ra
cuộc xung đột sắc tộc đỉnh điểm vào năm 1969. Có thể nói, kinh tế giữ vai
trò quan trọng nhất trong sự phát triển xã hội. Và vì vậy sự khác biệt về mặt
1


kinh tế cũng là một ngun nhân, nếu khơng nói là nguyên nhân quan trọng
nhất, làm cho những mâu thuẫn sắc tộc trở nên gay gắt và nóng bỏng hơn
bao giờ hết. Mâu thuẫn lớn thì gây ra nội chiến, mâu thuẫn nhỏ hơn thì gây
ra sự tranh chấp phân quyền về kinh tế, chính trị... Dù diễn ra dƣới bất kỳ
hình thức nào, mức độ nào thì mâu thuẫn sắc tộc cũng để lại những hậu quả
hết sức nặng nề.

Việc giải quyết vấn đề này quả thực không hề đơn giản bởi khơng thể
có một hay một số giải pháp chung để giải quyết hữu hiệu mọi xung đột sắc
tộc ở những quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, đứng trƣớc tình trạng đó, với
nhiều khó khăn và thách thức, song Malaysia đã nhận thức đƣợc cái gốc của
vấn đề đối với dân tộc mình và đƣa ra những chính sách kinh tế hợp lý. Với
sự ra đời của Chính sách kinh tế mới – NEP năm 1971 và Chính sách phát
triển quốc gia – NDP năm 1991, Malaysia đã thu đƣợc nhiều thành tựu to
lớn. Malaysia đƣợc coi là một trong số ít nƣớc giải quyết rất thành cơng bài
toán gắn kết thành tựu phát triển kinh tế với việc giải quyết ổn thoả các mâu
thuẫn sắc tộc, đem lại sự cơng bằng, hồ hợp dân tộc, làm nền tảng cho sự
phát triển phồn thịnh của đất nƣớc.
Nhƣ vậy, việc phát triển xã hội và giải quyết những mâu thuẫn, đặc
biệt là mâu thuẫn về kinh tế dẫn đến những mâu thuẫn về sắc tộc đang tồn
tại trong mỗi quốc gia là một vấn đề vơ cùng khó khăn và phức tạp. Do đó,
việc nghiên cứu Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia sẽ có ý nghĩa rất
lớn đối với các nƣớc đang tồn tại những mâu thuẫn hay có nguy cơ nảy sinh
mâu thuẫn. Nó sẽ là bài học tham khảo cho các nƣớc đa dân tộc, đa tôn giáo
trên con đƣờng phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với Việt Nam, những thành công của Malaysia trong quá trình
phát triển kinh tế, giải quyết những bất bình đẳng trong mâu thuẫn tộc ngƣời
sẽ là những bài học quý báu để chúng ta có thể tham khảo trong quá trình
2


Đổi mới và xây dựng đất nƣớc. Đặc biệt, trong bối cảnh của nền kinh tế khu
vực hố, tồn cầu hoá, quan hệ giữa nƣớc ta với các nƣớc trong khu vực và
trên thế giới ngày càng đƣợc mở rộng thì việc vừa phát triển kinh tế vừa giải
quyết mâu thuẫn tộc ngƣời không chỉ nhằm vào mục tiêu đảm bảo và phát
huy tình đồn kết, thống nhất giữa các dân tộc, xây dựng và phát triển đất
nƣớc mà còn góp phần đảm bảo an ninh khu vực và quốc tế nói chung,

ASEAN nói riêng.
Vì lẽ đó, Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia (đối với sự phát
triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người) đã đƣợc chọn làm đề tài cho
luận văn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong cuốn “Nghiên cứu về lịch sử - một cách thức diễn giải”, tác giả
Arnold Toynbee đã từng viết: “Tại sao chúng ta phải nghiên cứu lịch sử?
Chắc chắn loài người sẽ đi đến chỗ tự diệt vong, nếu chúng ta không tạo
được một cộng đồng giống như một đại gia đình. Vì thế nên chúng ta phải
học cách hiểu lẫn nhau. Có nghĩa là học để hiểu lịch sử của những dân tộc
khác, bởi vì con người khơng chỉ sống với hiện tại, mà cịn sống trong một
thứ dòng chảy thời gian của tinh thần, nhớ lại q khứ và nhìn về tương lai
ở phía trước với niềm hy vọng hoặc nỗi lo âu”. Đó là tầm quan trọng của
việc nghiên cứu lịch sử mà Arnold Toynbee muốn gửi gắm đến chúng ta. Do
đó, việc nghiên cứu về đất nƣớc Malaysia nói chung, về chính sách kinh tế
của chính phủ Malaysia nói riêng đã đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới và Việt Nam quan tâm.
Trƣớc hết, có thể kể đến những cơng trình về thơng sử Malaysia của
các học giả nƣớc ngoài, chẳng hạn: “Malaysia” (của Jonh Gullick),
“Malaysia” (Johannes, Harald Stephen và Annabelle Morgan), “A History of
3


Malaysia” (Barbarra Watson và A. Leonard), v.v. Những cơng trình bàn về
những vấn đề kinh tế - xã hội nhƣ: “Managing the Malaysia Economy:
Challenges & Prospect” (Ramon V. Navaratman), “Malaysia in Stransition:
Politics and Society” (Abdul R. Baginda), “Social Transformation, the State
and the Middle Classes” (Abdul R. Embong), “The Malay – Their Problems
and Future” (S. Husin Ali), “ Malaysia - The Making of a Nation” (Cheah
boon Kheng), “Whither Malaysia ‘s New Economic Policy” (K.S. Jomo),

v.v.
Ở Việt Nam, trong những thập niên gần đây đã xuất hiện khá nhiều
cơng trình nghiên cứu về Malaysia nói chung và kinh tế Malaysia nói riêng.
Những cơng trình tiêu biểu có thể kể đến là: “Malaysia – Lịch sử, văn hóa
và những vấn đề hiện đại”, “Malaysia trên đường phát triển” (Phạm Đức
Thành), “Kinh tế Malaysia” (Đào Lê Minh và Trần Lan Hƣơng), v.v. Ngoài
ra, việc nghiên cứu về Malaysia còn đƣợc thể hiện trong những cuốn sách
bàn về ASEAN và Đông Nam Á. Thuộc lĩnh vực này có thể nhắc đến: “Đặc
điểm con đường phát triển kinh tế - xã hội của các nước ASEAN” (Phạm
Đức Thành chủ biên), “Một số vấn đề về sự phát triển của các nước
ASEAN” (Vũ Dƣơng Ninh), “ASEAN – những vấn đề và xu hướng” (Phạm
Nguyên Long chủ biên), “Đông Nam Á trên đường phát triển” (Phạm
Nguyên Long chủ biên), “Các con đường phát triển của ASEAN” (Phạm
Nguyên Long chủ biên), “Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở
Đông Nam Á” (Phạm Thị Vinh chủ biên), “Xã hội dân sự ở Malaysia và
Thái Lan” (Lê Thị Thanh Hƣơng chủ biên), v.v.
Việc nghiên cứu về Malaysia còn đƣợc đăng tải trong các bài viết trên
các tạp chí khoa học. Liên quan đến đề tài mà chúng tơi quan tâm, có thể kể
đến: “Nhà nƣớc và hoạt động kinh tế ở Malaixia” (Nguyễn Văn Hà, Nghiên
cứu Đơng Nam Á, số 2/2001), “Nhân tố chính sách trong phát triển kinh tế
4


của Malaixia” (Nguyễn Hồ, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 2/1995), “Tính
cách dân tộc Malaixia trong sự phát triển đất nƣớc” (Đức Ninh, Nghiên cứu
Đông Nam Á, số 2/1996), “Con đƣờng phát triển kinh tế của Malaixia và
những kinh nghiệm” (Tất Tố, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6/1994),
“Một vài đặc điểm về sự phát triển kinh tế – xã hội của Malaixia” (Nguyễn
Khắc Thân, Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, số 2/1999,


“Chiến lƣợc

phát triển kinh tế tri thức của Malaixia” (Hoàng Giáp, Hoài Anh, Kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương, số 5/2001), “Một vài kinh nghiệm của Malaysia
trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và tôn giáo”, (Lý Tƣơng
Vân, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2009), v.v.
Gần đây một số đề tài luận văn, khóa luận của học viên cao học và
sinh viên cũng đã bắt đầu đề cập đến những vấn đề kinh tế - xã hội của
Malaysia. Có thể nêu tên một số đề tài đƣợc thực hiện tại Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội: “Chính sách kinh
tế mới với vấn đề hòa hợp dân tộc ở Malaysia, giai đoạn 1971 – 1990” (Lý
Tƣờng Vân, 2002), “Tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở Malaysia, giai
đoạn 1957 – 2000” (Lê Thị Thu Hồng, 2003), “Mahathir Mohamad với vấn
đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia” (Lê Thị Huyền, 2005), “Một vài khía
cạnh của vấn đề dân tộc ở Malaysia” (Nguyễn Thị Hoa, 2009).
Nhƣ vậy, cho đến nay, ở nƣớc ngoài cũng nhƣ Việt Nam, đã có khá
nhiều cơng trình nghiên cứu về Malaysia và kinh tế Malaysia. Tuy nhiên,
vẫn chƣa có một cơng trình chun khảo nào mang tính hệ thống và tồn
diện về chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia với vấn đề phát triển xã
hội và giải quyết mâu thuẫn tộc ngƣời. Do đó, thơng qua luận văn này,
ngƣời viết muốn đƣợc đóng góp cơng sức nhỏ bé của mình góp phần đƣa ra
một cái nhìn sâu sắc và tồn diện hơn về những thành công mà Malaysia đã
đạt đƣợc trong thời gian qua.
5


3. Mục tiêu của luận văn
Thông qua những điều đƣợc trình bày trong luận văn, ngƣời viết
muốn làm sáng tỏ con đường phát triển kinh tế - xã hội của Malaysia thơng
qua việc thực thi các chính sách kinh tế hướng đến việc vừa tăng trưởng

kinh tế bền vững vừa ổn định trật tự xã hội trong hoàn cảnh của một quốc
gia đa tộc ngƣời, đa ngôn ngữ và đa tơn giáo điển hình.
4. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục tiêu nêu trên, những nhiệm vụ chính dƣới đây cần
đƣợc đặt ra để giải quyết:
- Chỉ ra đƣợc tính chất phức tạp của Malaysia với tƣ cách là một quốc
gia mang tính melting pot điển hình,
- Nêu bật đƣợc những thành tựu của Malaysia trong việc thực thi các
chính sách kinh tế vì mục tiêu tăng trƣởng bền vững,
- Làm sáng tỏ những thành tựu của Malaysia trong việc thực thi các
chính sách kinh tế vì mục tiêu giải quyết các mâu thuẫn tộc ngƣời,
- Bƣớc đầu chỉ ra những bài học mà các quốc gia đa tộc ngƣời có thể
tham khảo (cả những bài học thành công và bài học chƣa thành cơng).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phƣơng pháp
nghiên cứu khu vực học với cách tiếp cận liên ngành. Ngoài ra, các phƣơng
pháp truyền thống của khoa học xã hội & nhân văn nhƣ tổng hợp, phân tích
tƣ liệu, so sánh, đối chiếu cũng đƣợc vận dụng triệt để trong quá trình làm
việc.

6


6. Bố cục của luận văn
Luận văn đƣợc trình bày theo một trật tự kết cấu nhƣ sau:
Mở đầu
Chƣơng 1: Tổng quan về Malaysia và các tộc ngƣời chính ở Malaysia
Chƣơng 2: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với việc
phát triển xã hội
Chƣơng 3: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với việc

giải quyết mâu thuẫn tộc ngƣời
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia (đối với sự phát triển xã
hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người) là một đề tài thú vị nhƣng không dễ
thực hiện đối với một học viên cao học mà kiến thức còn hạn chế và kinh
nghiệm nghiên cứu chƣa nhiều. Luận văn, vì vậy, chắc chắn sẽ khơng tránh
khỏi nhiều thiếu sót. Ngƣời viết mong nhận đƣợc sự quan tâm, chỉ dẫn và
góp ý của các thày cô và đồng nghiệp.

Chƣơng 1:

TỔNG QUAN VỀ MALAYSIA VÀ CÁC
TỘC NGƢỜI CHÍNH Ở MALAYSIA

7


1.1 Đôi nét về đất nƣớc, con ngƣời và lịch sử Malaysia
1.1.1 Đất nước
Liên bang Malaysia là một quốc gia khơng lớn lắm, nằm ở trung tâm
Đơng Nam Á, có diện tích tƣơng đƣơng với Việt Nam là 329.758 km2. Đây
là quốc gia có hình dạng lƣỡi liềm nằm gần đƣờng xích đạo – giữa tọa độ
1o– 7o vĩ Bắc và trải dài từ 100

o

đến 119 o kinh đông. Lãnh thổ Malaysia

đƣợc chia làm hai phần: miền Tây và miền Đơng Malaysia. Miền Tây (cịn

đƣợc gọi là phần bán đảo) nằm trên bán đảo Melaka có diện tích 131.794
km2 (chiếm 40% diện tích cả nƣớc), bao gồm 11 bang: Perlis, Kedah,
Penang, Perak, Selangor, Melaka, Johor, Negeri Sembilan, Pahang,
Trengganu và Kelantan. Hiện nay, ở các bang miền Tây có trên 50% dân số
là cƣ dân bản địa nói tiếng Melayu (Malay), hay các ngôn ngữ cùng họ
Melayu khác. Trong số cƣ dân bản địa đó, ngƣời Melayu chiếm tới trên
90%. Do đó, các bang miền Tây thƣờng đƣợc gọi là các bang Melayu và từ
năm 1963 trở về trƣớc Malaysia đƣợc gọi là Malaya. Vùng lãnh thổ phía
Đơng của Malaysia bao gồm 2 bang là Sabah và Sarawak nằm ở phía Bắc
đảo Kalimantan (hay còn gọi là đảo Borneo) với diện tích 201.600 km2
(chiếm 60% diện tích cả nƣớc). Hai vùng lãnh thổ này của Malaysia đƣợc
chia cắt bởi vùng biển thuộc Thái Bình Dƣơng. Malaysia có chung biên giới
với các quốc gia khác trong cùng khu vực: Phía Bắc là Thái Lan, phía Nam
là Singapore, cịn ở phía Đơng thì có chung biên giới với Indonesia và
Brunei. Là quốc gia hải đảo nên Malaysia có đƣờng bờ biển khá dài, khoảng
5.000 km.
Vị trí địa lý của Malaysia vơ cùng quan trọng, không chỉ nằm trên
tuyến đƣờng biển nối liền các trung tâm kinh tế Âu – Á mà cịn có ý nghĩa
đặc biệt trong việc hình thành quốc gia đa dân tộc, là nơi gặp gỡ và giao lƣu
của nhiều nền văn minh cổ đại, nhất là nền văn minh Ấn Độ; là nơi dừng
8


chân của các thƣơng gia Ấn Độ, Trung Quốc, các đế quốc ở Trung Cận
Đông và đế quốc La Mã ngay từ những thế kỷ đầu cơng ngun.
Về địa hình, lãnh thổ Malaysia thuộc loại hình khơng bằng phẳng. Ở
vùng bán đảo, núi thƣờng không cao (khoảng 1000-2000m) và đồng bằng
duyên hải cũng không rộng. Các dãy núi thƣờng bị đứt đoạn và tập trung chủ
yếu ở miền Bắc và miền Trung. Về phía Nam, địa hình có phần thấp hơn. Ở
đây có dãy núi Kerbau cao 2.132m. Dãy núi này kéo dài từ phía Thái Lan và

chia lãnh thổ Malaysia thành 2 phần từ Bắc xuống Nam. Phần phía Đơng
rộng hơn phần phía Tây.
Ở vùng phía Đơng, địa hình đƣợc kiến tạo nhiều đồi núi. Các dãy núi
ở đây thƣờng trải dài từ phía Tây Bắc hƣớng xuống phía Đơng Nam. Ở phía
Đơng Bắc (thuộc lãnh thổ bang Sabah) có đỉnh núi Kinabalu cao 4.175m, là
đỉnh núi cao nhất ở Malaysia. Đồng bằng duyên hải ở đây thấp, nhiều nơi
sình lầy.
Malaysia có nhiều sơng ngịi. Do đặc điểm của lãnh thổ và địa hình
nên sơng ngịi ở đây đều ngắn. Ở vùng phía Tây có các con sơng chính là
Pahang (dài 320 km), Perak (270 km), Kelantan, Johor. Vùng phía Đơng
Malaysia, ở Sarawak có các sơng Rajing (560 km), Baram (500 km), Lupar
(227 km) và nhiều con sông khác. Cịn ở Sabah có con sơng lớn nhất là
Kinabatangan (560 km) chảy ra biển Sulu.
Nằm gần đƣờng xích đạo nên khí hậu Malaysia chịu ảnh hƣởng của
gió mùa nóng, ẩm quanh năm, với độ ẩm khơng khí khá cao. Nhiệt độ trung
bình từ 250C đến 280C với mức dao động hàng tháng khơng đáng kể (1,40C),
độ ẩm trung bình là 80%. Lƣợng mƣa hàng năm ở vùng duyên hải bán đảo
Melaka từ 2.000 – 2.500 mm, còn ở vùng núi là 3.500 – 5.000 mm; Ở vùng
Bắc Kalimantan, lƣợng mƣa trung bình hàng năm có ít hơn. Malaysia có 2

9


mùa rõ rệt: mùa mƣa và mùa khô, bị chi phối bởi gió mùa Đơng Bắc từ
tháng 10 đến tháng 4 và gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9.
Khí hậu nhiệt đới đã đem lại cho Malaysia một thế giới thực vật vơ
cùng phong phú. Có đến 70% diện tích lãnh thổ của Malaysia là rừng nhiệt
đới xanh tốt quanh năm. Giới thực vật có đến 15.000 lồi, trong đó có 6.000
lồi thân cây cứng cho nhiều loại gỗ có giá trị cơng nghiệp cao.
Bên cạnh hệ thực vật phong phú, động vật ở Malaysia cũng hết sức đa

dạng. Ngoài những giống tiêu biểu nhƣ gấu Malay, tê giác hai sừng, ở đây
cịn có nhiều lồi thú khác nhƣ: voi, các loại hổ, báo, trăn, rắn và gần 500
loại chim muông.
Về mặt thổ nhƣỡng, Malaysia chủ yếu là đất đỏ và laterit, thích hợp
cho nhiều loại cây trồng có giá trị cao, đặc biệt là cao su. Đã từ lâu, hình ảnh
về những dãy đồn điền cao su xanh bạt ngàn là những cảnh sắc quen thuộc
và đặc trƣng của Malaysia. Bên cạnh cây cao su, Malaysia cịn có nhiều loại
cây cơng nghiệp quan trọng khác nhƣ: dầu cọ, dừa... Những năm gần đây,
chúng đóng vai trị khơng nhỏ trong q trình chuyển dịch kinh tế.
Mặt khác, có thể nói, thiên nhiên cũng ƣu đãi cho đất nƣớc này nhiều
tài nguyên quý giá. Bên cạnh dầu mỏ, hơi đốt, ở đây cịn có sắt, boxit,
manggan, vàng và đặc biệt là thiếc. Trữ lƣợng thiếc lớn (khoảng 12.000 tấn),
đứng thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và luôn đứng ở hàng chủ đạo trong khu
vực về sản lƣợng khai thác.

1.1.2 Con người và lịch sử Malaysia
Malaysia là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và nhiều nền văn
hóa. Thành phần dân tộc của Malaysia tƣơng đối phức tạp. Ngƣời Malay bao
10


gồm ngƣời bản xứ với tên gọi theo tiếng Melayu là Bumiputera và những cƣ
dân lâu đời ở đây nhƣ các tộc ngƣời Semang, Senoi, Jakun (ở bán đảo
Melaka), Dusue, Marut, Iban, Katasan...(ở Bắc Kalimantan). Về cơ bản,
Malaysia gồm ba cộng đồng dân tộc chính: cộng đồng ngƣời Malay (gồm
bản thân ngƣời Malay và các tộc ngƣời bản địa khác), cộng đồng ngƣời Hoa
và cộng đồng ngƣời Ấn. Giữa các tộc ngƣời này có sự khác biệt trong sinh
hoạt cũng nhƣ trong hoạt động kinh tế.
Trong lúc đa phần ngƣời bản địa làm nghề nông, sống tập trung ở các
bang nông nghiệp lạc hậu về kinh tế nhƣ Kedah, Kalantan, Trenganu, Perlis

cũng nhƣ ở các vùng nông nghiệp lạc hậu khác ở Sarawak và Sabah, nằm
dải theo thung lũng các con sơng và vùng dun hải ở phía bắc và đơng bắc
bán đảo Melaka thì đa phần cƣ dân ngƣời Hoa lại sinh sống ở phía tây và
phía nam bán đảo Melaka và ở các thành phố lớn, các trung tâm khai thác
thiếc. Ngƣời Hoa không những chỉ là những nhà tƣ sản cỡ lớn và vừa nắm
giữ nhiều xí nghiệp, hầm mỏ, công ty vận tải, ngân hàng, các đồn điền cao
su... mà cịn chiếm số đơng trong giai cấp vơ sản cơng nghiệp và khai
khống. Họ có ảnh hƣởng lớn đến nền kinh tế quốc gia. Cộng đồng ngƣời
Ấn ở Malaysia thì sinh sống cả ở vùng nơng thơn lẫn thành thị, nhƣng vùng
tập trung chính là ở bờ biển phía tây – nơi có nhiều đồn điền cao su. Ngƣời
Ấn có đại diện trong tầng lớp đại, trung và tiểu tƣ sản, nhiều ngƣời trong số
họ là công nhân, phu đồn điền, nông dân.... Tuy vậy, vai trị của họ khơng
lớn so với ngƣời Malay và ngƣời Hoa. Hơn nữa, so với ngƣời Hoa, ngƣời
Ấn có phần hòa nhập với cƣ dân bản địa mạnh hơn nhờ một phần ngƣời
Islam trong cƣ dân ngƣời Ấn đồng hóa với ngƣời Malay.
Về tơn giáo, ở Malaysia có nhiều tơn giáo khác nhau. Nếu nhƣ hầu hết
ngƣời Malay theo Islam thì đa phần ngƣời Hoa theo Phật giáo hay Đạo giáo,
ngƣời Ấn theo Hindu giáo, một số khác theo Phật giáo và đạo Sikh. Trong
11


cộng đồng ngƣời Hoa và ngƣời Ấn cũng có một bộ phận rất nhỏ theo Islam.
Sau này, Thiên chúa giáo cũng có mặt ở đây và nó có ảnh hƣởng chủ yếu ở
một bộ phận ngƣời Châu Âu, ngƣời dân địa phƣơng ở Sarawak và Sabah
cũng nhƣ ở một bộ phận ngƣời Hoa và ngƣời Ấn. Ở Malaysia, Islam đƣợc
coi là quốc giáo và tiếng Melayu (Bahasa Melayu) đƣợc coi là ngơn ngữ
chính thức của quốc gia. Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, các ngôn
ngữ khác nhƣ tiếng Hoa, tiếng Tamil, tiếng Anh cũng đƣợc sử dụng khá phổ
biến.
Hiện nay, ở đất nƣớc này, ngoài những thành phần dân tộc chính hợp

thành cƣ dân Malaysia nhƣ đã trình bày ở trên, cịn có nhiều ngƣời nƣớc
ngồi đang sinh sống và làm việc tại đây trong các lĩnh vực khác nhau.
Chính điều này đã góp phần tạo nên một bức tranh đa dạng về tộc ngƣời, về
văn hóa, về tơn giáo và ngôn ngữ ở Malaysia.
Ở Malaysia, số ngƣời giàu chiếm khoảng 19% dân cƣ tồn lên bang.
Số dân có mức sống trung bình, đủ sức tự lo cho mình đầy đủ các nhu cầu
thiết yếu của cuộc sống chiếm tỷ lệ 60% dân số, còn lại khoảng 21% là dân
nghèo, thu nhập thấp, không đủ trang trải mọi nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, học
hành, thuốc men khi đau ốm. Do đó, trong chiến lƣợc phát triển quốc gia đến
năm 2020, chính phủ Malaysia buộc phải có những biện pháp thích hợp để
giải quyết vấn đề này, có nghĩa là làm sao để giảm thiểu tỷ lệ dân nghèo
xuống mức thấp nhất và tăng tỷ lệ ngƣời khá giả. Và chính phủ Malaysia đã
chọn biện pháp đẩy nhanh q trình đơ thị, xây dựng các khu dân cƣ mới,
phát triển các hệ thống giao thông, giải tỏa các khu xóm lao động sống chật
chội, nghèo khổ. Chính phủ đã yêu cầu các công ty kinh doanh muốn đầu tƣ
địa ốc, kinh doanh hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông... phải xây dựng
những khu nhà ở mới, đầy đủ tiện nghi cho dân nghèo về ở, đồng thời phải
có đƣợc dự án tốt đảm bảo cho các hộ đến chỗ ở mới có đƣợc nguồn thu
12


nhập ổn định cao hơn ở nơi cƣ trú cũ. Các công ty khi đảm bảo hội đủ các
điều kiện đó thì mới đƣợc chính phủ phê duyệt, đồng ý cho giải tỏa nhà dân
để xây dựng các đô thị hay khu cơng nghiệp mới.
Ngồi ra, chính phủ cịn u cầu các công ty, nhà máy chuyên sản
xuất các thiết bị điện tử, đồ chơi hàng ngày, phải sản xuất đủ máy lạnh, tủ
lạnh, truyền hình màu, điện thoại...với tiêu chuẩn chất lƣợng tƣơng đối tốt và
quan trọng là giá rẻ chỉ bằng 50% giá thị trƣờng để trang bị cho các căn hộ
mới xây. Chính phủ trích từ ngân sách để trả tiền cho các công ty, nhà máy
về số hàng hóa và miễn thuế về lơ hàng này cho họ. Chính phủ cịn áp dụng

hình thức cho các hộ mua vay trả góp tồn bộ căn hộ và các tiện ích bên
trong. Do vậy, khi đến thăm Malaysia, chúng ta rất khó nhận thấy sự chênh
lệch về mức sống giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo.
Mặc dù là liên bang nhƣng Malaysia khơng theo chế độ cộng hịa mà
theo mơ hình qn chủ lập hiến, nghĩa là nƣớc có vua cai trị nhƣng quyền
lực tối cao không nằm trong tay vua mà là Hiến pháp. Hiến pháp đầu tiên
của nhà nƣớc Malaysia độc lập (Hiến pháp năm 1957) quy định: Vua (Yang
di – Pertuan Agong) là ngƣời đứng đầu Liên bang, hay đứng đầu Nhà nƣớc
đƣợc bầu lên từ những ngƣời đứng đầu các tiểu vƣơng quốc (Sultan) theo
nhiệm kỳ 5 năm. Trƣớc đây, nhà Vua có quyền bác bỏ các dự luật, có thể
giải tán nghị viện, nhƣng theo Hiến pháp sửa đổi năm 1994 thì quyền hạn
của Vua bị hạn chế và chỉ đóng vai trị cố vấn cho Thủ tƣớng. Nhà Vua lập
ra Hội đồng cai trị gồm những ngƣời đứng đầu các bang. Hội đồng làm tham
mƣu trong việc bầu Hội đồng thẩm phán, Hội đồng bầu cử, Ủy ban công
vụ... Nghị viện của Malaysia tổ chức theo lƣỡng viện, gồm có thƣợng viện
và hạ viện. Thƣợng viện có 69 thành viên, trong đó có 40 ngƣời là những
ngƣời đứng đầu các đơn vị hành chính (bang) thƣờng do Vua chỉ định và 29
ngƣời đƣợc bầu từ các bang. Mỗi bang đƣợc chọn ra 2 nghị sĩ làm thành
13


viên của Hội đồng lập pháp với nhiệm kỳ 3 năm. Hạ viện hay Viện dân biểu
(gồm 192 thành viên) đƣợc lựa chọn từ các khu vực bầu cử trong nƣớc với
nhiệm kỳ 5 năm. Nhà Vua có thể giải tán Hạ viện sớm hơn nếu nhƣ có yêu
cầu của Thủ tƣớng chính phủ. Ngƣời đứng đầu chính phủ là Thủ tƣớng đƣợc
nhà Vua bổ nhiệm ngƣời của đảng nào có nhiều ghế nhất trong Hạ viện. Thủ
tƣớng lập ra Hội đồng bộ trƣởng. Hiện nay, Malaysia có 25 bộ trƣởng trong
Nội các chính phủ. Ngƣời đứng đầu 9 tiểu vƣơng quốc miền Tây Malaysia
theo chế độ cha truyền con nối đƣợc tham gia lựa chọn Vua cho toàn nƣớc
Malaysia. Còn 4 thống đốc bang gồm Sarawak, Sabah, thành phố Melaka và

đảo Penang, do nhà Vua chỉ định, không đƣợc bầu làm vua.
Ở Malaysia, Tổ chức tộc ngƣời Malay thống nhất (gọi tắt là UMNO)
là đảng phái chính trị mạnh nhất, có uy tín nhất và là hạt nhân chính trong
mặt trận quốc gia (một liên minh chính trị giữa UMNO, Hiệp hội ngƣời Hoa
Malaysia và Đại hội ngƣời Ấn) đang cầm quyền tại quốc gia này hơn một
thập kỷ qua. Hạt nhân chính của Mặt trận quốc gia nói chung, của UMNO
nói riêng là tầng lớp trí thức và các nhà doanh nghiệp. Dƣới thời cầm quyền
của Thủ tƣớng Mahathir, Mặt trận quốc gia – liên minh cầm quyền giữa trí
thức ngƣời Malay bản địa với các thƣơng gia ngƣời Hoa trở nên chặt chẽ và
có hiệu quả hơn. Đây là một đặc điểm chính trị hết sức nổi bật, có tác động
sâu sắc đến sự phát triển kinh tế và liên kết dân tộc ở Malaysia trong 2 thập
kỷ qua. Đối lập với Mặt trận quốc gia là Đảng Islam toàn Malaysia (PIM) và
Đảng Dân chủ hành động Malaysia (DAP). PIM đấu tranh vì một xã hội
Malaysia Islam, bào trừ các sắc tộc không phải là Islam và cƣ dân bản địa.
DAP thì lại đấu tranh vì một xã hội dân chủ theo mơ hình các nƣớc Bắc Âu.
Những năm gần đây, hai đảng phái đối lập này phát triển khá mạnh, đặc biệt
là DAP. Tuy nhiên, nhìn chung, chế độ chính trị của Liên bang Malaysia
trong mấy chục năm qua là tƣơng đối ổn định. Sự liên kết ngày càng gia tăng
14


giữa các đảng phái chính trị, giữa các tộc ngƣời trên nền tảng cùng có lợi và
cùng phát triển là xu hƣớng chủ đạo trong đời sống kinh tế, chính trị của
Malaysia. Đây là một trong những yếu tố then chốt giúp Malaysia hòa hợp
và phát triển, đi đến chủ nghĩa tƣ bản hiện đại ở nƣớc này.
Về lịch sử, trƣớc khi thực dân phƣơng Tây xâm chiếm và cai trị, tại
đất nƣớc này đã từng tồn tại và chứng kiến sự thịnh vƣợng của các tiểu
vƣơng quốc Islam. Islam đã chiếm đƣợc địa vị độc tôn, trở thành quốc đạo
từ thế kỷ XV và nơi đây cũng trở thành trung tâm truyền bá Islam lớn nhất ở
Đông Nam Á. Sang đầu thế kỷ XVI (1511) thực dân Bồ Đào Nha đánh

chiếm thành phố Melaka và cai trị ở đây hơn một thế kỷ. Đến năm 1641, Hà
Lan liên minh với tiểu vƣơng quốc Johor cƣớp lại thành phố Melaka từ tay
Bồ Đào Nha. Nhƣng đến những năm 80 của thế kỷ XVII, thực dân Anh đã
chiếm lại thành phố Melaka và đảo Penang. Cùng với đảo Penang và
Singapore, Melaka trở thành Cụm cƣ dân vùng eo biển thuộc Anh. Đến cuối
thế kỷ XIX, toàn bộ Malaysia ngày nay đã trở thành thuộc địa của Anh.
Chính sách khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu mà thực dân Anh
thi hành đã không làm cho nƣớc này trở thành một nƣớc có nền kinh tế phát
triển. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp chiếm tới
40% tổng thu nhập nội địa (GDP), khu vực chế biến, chế tạo chỉ chiếm hơn
10%. Hầu hết những ngành kinh tế chủ đạo có khả năng xuất khẩu nhƣ
ngành xuất khẩu thiếc, cao su, dầu cọ, dừa, chè...đều do tƣ bản Anh kiểm
soát.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, Malaysia bị Nhật chiếm đóng.
Lúc đầu, sự xuất hiện của quân đội Nhật đã gặp phải sự phản kháng mạnh
mẽ của nhân dân Malaya. Tuy nhiên, do chính sách “chia để trị” của quân
phiệt Nhật mà các cộng đồng cƣ dân của Malaya đã không thống nhất đƣợc
lực lƣợng để kháng Nhật, thậm chí cịn nhen nhóm lịng hận thù và đố kị lẫn
15


nhau, đặc biệt là giữa ngƣời Melayu và ngƣời Hoa. Vì vậy, họ đã khơng đƣa
cuộc kháng chiến của mình đến thắng lợi hoàn toàn.
Chiến tranh kết thúc, tháng 9 năm 1945, dƣới danh nghĩa giải giáp
quân đội Nhật, quân đội Anh đã chiếm lại Malaya. Họ đã mau chóng tiến
hành các biện pháp nhằm ổn định tình hình và lập kế hoạch thành lập một
thể chế chính trị mới ở Malaya, gọi là Liên hiệp Malaya. Cuối tháng 1 năm
1946, bất chấp mọi sự phản đối của mọi tầng lớp nhân dân Malaya, chính
phủ Anh đã tuyên bố “ Sách trắng”, trong đó có đề cập đến Hiến pháp của
Liên hiệp Malaya. Liên hiệp Malaya bao gồm 9 bang Melayu, Penang và

Melaka, cịn Singapore đƣợc cơng bố là thuộc địa riêng của Anh. Những
ngƣời đứng đầu các bang Melayu giữ nguyên địa vị của mình nhƣng thực
chất chủ quyền nằm trong tay ngƣời Anh. Các công dân Liên hiệp Malaya
đều có quyền bình đẳng, khơng phân biệt thành phần dân tộc và tôn giáo.
Tuy nhiên, dƣới sự lãnh đạo của Tổ chức dân tộc thống nhất Melayu
(UMNO), nhân dân Malaya đã đấu tranh quyết liệt, do đó kế hoạch thành lập
Liên hiệp Malaya của Anh đã không thành hiện thực. Cuối cùng, vào năm
1948, tất cả các bang Melayu và Cụm dân cƣ eo biển đƣợc thống nhất thành
Liên bang Malaya dƣới sự bảo hộ của Anh, theo sự thỏa thuận giữa Anh và
các nhà lãnh đạo Melayu và UMNO.
Năm 1957, Liên bang Malaya trở thành quốc gia độc lập, là thành
viên của Khối thịnh vƣợng chung thuộc Anh (British Commonwealth of
Nation).
Năm 1963, Liên Bang Malaysia ra đời, bao gồm Liên bang Malaya,
Singapore, Sabah và Sarawak với thủ đô là Kuala Lumpur (thuộc bang
Selangor). Đến năm 1965, Singapore tách khỏi Liên bang, trở thành quốc
gia độc lập. Năm 1974, bang Sabah trao đảo Labuan cho chính phủ Liên
bang. Kuala Lumpur và Labuan trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc
16


Liên bang, gọi là Lãnh thổ Liên bang. Nhƣ vậy, hiện nay Liên bang
Malaysia bao gồm 13 bang (Johor, Kedah, Kelantan, Melaka, Negeri
Sembilan, Pahang, Perlis, Perak, Pulau Pinang, Sabah, Sarawak, Selangor,
Trengganu) và phần lãnh thổ Liên bang (Kuala Lumpur và Labuan).
1.2 Các tộc ngƣời chính ở Malaysia
Là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và nhiều nền văn hóa,
Malaysia thực sự là một điểm đến với tên gọi là “ Châu Á thu nhỏ”. Đến
với đất nƣớc này, ngƣời ta sẽ thấy đƣợc sự kết hợp đa dạng của ba nền văn
hóa cổ xƣa nhất Châu Á, đó là văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ với nền

văn hóa bản địa của cƣ dân Malay. Có rất nhiều ngƣời đến từ những quốc
gia khác đã chọn Malaysia là nơi học tập, làm việc và kinh doanh. Ở
Malaysia có sự hài hịa khi Bahasa Melayu là quốc ngữ nhƣng tiếng Anh,
tiếng Quan Thoại và tiếng Tamil vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi. Islam là quốc
giáo nhƣng Hiến pháp thừa nhận sự tự do thờ bái và tín ngƣỡng đối với tất
cả các tộc ngƣời. Các tôn giáo khác nhƣ Thiên Chúa giáo, Ấn giáo, Phật
giáo và những tôn giáo khác cũng đƣợc ngƣời dân sùng bái tự do. Chính sự
nhấn mạnh về việc chia sẻ quyền lợi giữa những nhóm chủng tộc, đảm bảo
sự chung sống dung hịa trong xã hội đa sắc tộc, chính phủ Malaysia đã làm
mọi ngƣời biết đến đất nƣớc mình nhƣ một quốc gia kiểu mẫu về hịa bình
và ổn định.
1.2.1 Tộc người Malay
Nhắc tới các tộc ngƣời ở Malaysia, trƣớc tiên chúng ta phải nhắc đến
tộc ngƣời bản địa Malay. Đây là tộc ngƣời lớn nhất tại Malaysia.
Có thể nói, nhìn bề ngồi, việc nhận ra ngƣời Malay là khơng khó. Họ
có làn da nâu, thân hình vừa phải nhƣng dẻo dai và có tính cách ơn hịa, nhẹ
17


×