Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Phong cách thơ lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THU THỦY

PHONG CÁCH THƠ LƯU QUANG VŨ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI, 2008


MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................. 2
B. PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 8
Chƣơng 1. VẤN ĐỀ PHONG CÁCH VÀ PHONG CÁCH THƠ ..................... 8
1.1. Khái niệm Phong cách ................................................................................. 8
1.1.1. Phong cách tác giả .................................................................................. 11
1.1.1. Phong cách thời đại ................................................................................. 12
1.1.2. Phong cách thể loại ................................................................................. 14
1.2. Lƣu Quang Vũ - Một phong cách thơ........................................................ 15
Chƣơng 2. PHONG CÁCH THƠ LƢU QUANG VŨ THỂ HIỆN QUA CÁI
TƠI TRỮ TÌNH VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH HIỆN THỰC ........................ 19
2.1. Phong cách Lƣu Quang Vũ thể hiện qua Cái tơi trữ tình .......................... 21
2.1.1. Cái tôi tha thiết yêu thương, đắm đuối ................................................... 22
2.1.2. Cái tơi đa đoan và đầy biến động trong tình yêu ................................... 28
2.1.3. Cái tôi mâu thuẫn ................................................................................... 45
2.2. Phong cách Lƣu Quang Vũ thể hiện qua nội dung phản ánh hiện thực .... 49
2.2.1 Lƣu Quang Vũ trƣớc đất nƣớc và lịch sử ............................................... 49
2.2.2. Lƣu Quang Vũ trƣớc những vấn đề bức thiết của cuộc sống ................. 58
2.2.3. Lƣu Quang Vũ trong những cảm nhận về chiến tranh .......................... 62


Chƣơng 3. PHONG CÁCH THƠ LƢU QUANG VŨ QUA NHỮNG
PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN .......................................................................... 67
3.1. Giọng điệu.................................................................................................. 68
3.2. Cách cảm thụ đời sống............................................................................... 75
3.3. Thể thơ ....................................................................................................... 79
3.4. Những mơ tip hình ảnh lặp đi lặp lại. ........................................................ 85
3.4.1. Đất nước ................................................................................................ 86
3.4.2. Mưa ......................................................................................................... 88
3.4.3. Gió........................................................................................................... 91
3.4.4. Lửa .......................................................................................................... 95


3.4.5. Các loài hoa ........................................................................................... 97
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 102
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 104
E. PHỤ LỤC ................................................................................................... 107


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
1.1 Năm 2008 là dấu mốc kỉ niệm hai mƣơi năm ngày vợ chồng Lƣu
Quang Vũ, Xuân Quỳnh ra đi. Những cống hiến trong văn học nghệ thuật của
họ đã đƣợc nhà nƣớc ghi nhận bằng những giải thƣởng quí giá. Nhƣng sự ghi
nhận sâu sắc nhất về họ không phải là những giải thƣởng mà là dấu ấn ở trong
lòng khán giả, độc giả, những ngƣời đã từng xem kịch Lƣu Quang Vũ, đã từng
đọc văn, và yêu thơ của đôi vợ chồng tài hoa này.
1.2 Lƣu Quang Vũ mất đi, khi anh đang đứng trên đỉnh cao của lĩnh vực
sân khấu với tƣ cách nhà biên kịch. Nhƣng khi có một độ lùi thời gian nhất
định, ngƣời ta lại nhớ và nhắc nhiều đến một Lƣu Quang Vũ nhà thơ. Trong
dòng chung của thơ ca kháng chiến chống Mỹ, Lƣu Quang Vũ có một giọng

điệu riêng, đã định hình một phong cách rõ nét. Giữa dàn đồng ca của những
tiếng thơ cùng thế hệ, thời kì đầu Lƣu Quang Vũ đã góp một tiếng thơ sơi nổi,
tƣơi mới, mát lành, có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển và đổi mới của thơ
ca thời kì này.
1.3 Tuy nhiên, đã có một thời gian, những tập thơ của Lƣu Quang Vũ
đƣợc coi là không hợp với thời cuộc, bị coi là lạc điệu, bị đặt sang một bên lề
cuộc sống, không đƣợc công bố, công nhận. Đến sau này, nó mới đƣợc tập
hợp và biết tới. Có thể nói, những phần chƣa công bố, phần riêng lạc điệu ấy
mới chính là con ngƣời thật nhất, chân thành và tài hoa, tinh tế nhất của Lƣu
Quang Vũ, mà bạn đọc ít nhiều cịn chƣa biết tới.
Do đó, luận văn này ra đời xuất phát từ yêu cầu nhìn nhận và đánh giá
một cách tổng quát và hệ thống về những sáng tác của Lƣu Quang Vũ, cũng
thêm một lần nữa khẳng định Lƣu Quang Vũ nhƣ một cá tính thơ mạnh mẽ,
một phong cách thơ sắc nét trong thơ ca Việt Nam thời kì hiện đại.


2. Lịch sử vấn đề.
Chặng đƣờng thơ của Lƣu Quang Vũ trải dài từ những năm kháng chiến
chống Mỹ đến những năm tháng thời kì đất nƣớc đổi mới và dừng lại khi Lƣu
Quang Vũ qua đời năm 1988. Không kể đến những vần thơ sáng tác từ thuở
thiếu thời, Lƣu Quang Vũ đƣợc giới văn nghệ cũng nhƣ cả nƣớc biết tới với
tập thơ đầu tay in chung với Bằng Việt “Hƣơng cây - Bếp lửa” năm 1968. Khi
đó, Hoài Thanh nhận ra “năng khiếu của anh đã rõ” [35,22], Vƣơng Trí Nhàn
khẳng định Lƣu Quang Vũ là “một nhà thơ thuộc loại bẩm sinh” [35,63], cịn
nhà phê bình Lê Đình Kỵ thì cho rằng “Thơ Lƣu Quang Vũ có một điệu tâm
hồn riêng và khơng thiếu tâm tình” [35,29].
Tiếp sau “Hƣơng cây - Bếp lửa”, Lƣu Quang Vũ có “Mây trắng của
đời tơi” (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993) và một số tập thơ đã tƣơng đối
hoàn chỉnh “Cuốn sách xếp lầm trang”, “Cỏ tóc tiên”. Mới đây, năm 2008,
cuốn “Di cảo Nhật kí – Thơ” cũng vừa ấn hành.

Theo thời gian, mỗi tác phẩm của Lƣu Quang Vũ ra đời kéo theo một sự
chú ý, không chỉ của bạn đọc mà của giới phê bình nói chung. Nhìn chung,
Lƣu Quang Vũ nhận đƣợc nhiều thiện cảm và kì vọng, sự động viên khích lệ
cũng rất nhiều.
Vũ Quần Phƣơng sau khi “Đọc thơ Lƣu Quang Vũ” thì đặc biệt chú ý
đến giọng thơ Lƣu Quang Vũ, khẳng định đó là “một giọng thơ rất đắm
đuối”, “đắm đuối là bản sắc cảm xúc của Lƣu Quang Vũ”[35,36]. Phạm Xuân
Nguyên gọi Lƣu Quang Vũ nhƣ một “tâm hồn trở gió”, phát hiện ra thơ của
Lƣu Quang Vũ “bao trùm là gió và tình u” [35,77], từng chặng đƣờng thơ
Lƣu Quang Vũ là từng cơn gió, từng đợt gió, và khám phá thơ Lƣu Quang Vũ
với một biểu tƣợng gió đầy gợi cảm, khẳng định đó là một mơtip góp phần làm
nên phong cách thơ anh. Nguyễn Thị Minh Thái lại tìm đƣợc cảm giác “Đi
suốt chiều dài một đời thơ của Lƣu Quang Vũ, ta có cảm giác nhƣ vào một kho
báu. Ở những câu thơ ta nhặt vô tình nhất, cũng óng ánh một vẻ đẹp riêng…”
[35,95] và chỉ rõ thơ Lƣu Quang Vũ còn rất nhiều điều cần khám phá. Với
Huỳnh Nhƣ Phƣơng “Lƣu Quang Vũ thực sự là một nhà thơ của tuổi trẻ, một
tuổi trẻ luôn băn khoăn, dằn vặt, tra vấn về cuộc đời và tự tra vấn chính lịng
1


mình” [35,108]. Với Anh Ngọc, chỉ chiếm phân nửa trong tập “Hương cây Bếp lửa” cũng đủ để Lƣu Quang Vũ “có một vị trí vững vàng, bởi một hồn thơ
dào dạt, một tài thơ sắc sảo với vẻ hồn nhiên đến nhƣ là ngẫu hứng, với mạch
nguồn hình ảnh và từ ngữ đầy trực cảm và đột biến tuôn ra dƣờng nhƣ bất
tận”…[35,109]
“Lưu Quang Vũ thơ và đời” do Lƣu Khánh Thơ biên soạn đƣợc coi là
cuốn sách tổng hợp đầy đủ nhất về thơ Lƣu Quang Vũ. Những bài thơ tiêu
biểu nhất của Lƣu Quang Vũ đã đƣợc lƣu lại trong đó, cùng với nó là những
bài viết của những ngƣời thân, những bạn thơ cùng thế hệ, những đồng nghiệp
cũng nhƣ gia đình Lƣu Quang Vũ. Phần đời của Lƣu Quang Vũ cũng đƣợc chú
ý và giới thiệu với bạn đọc hầu hết những chặng đƣờng gian nan của Lƣu

Quang Vũ.
“Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật” cũng của Lƣu
Khánh Thơ chủ biên, xuất bản năm 2000, ra đời nhân dịp Lƣu Quang Vũ đƣợc
nhà nƣớc tặng giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cũng là một
cơng trình rất đáng chú ý. Cuốn sách chia làm 3 phần rõ rệt, phần 1 là những
bài viết giới thiệu bản sắc và sáng tạo nghệ thuật của Lƣu Quang Vũ ở lĩnh vực
thơ, kịch, văn xi. Riêng về thơ, có những bài viết của Hồi Thanh, Lê Đình
Kỵ, Vũ Quần Phƣơng, Phạm Xn Nguyên, Anh Ngọc, Hoàng Sơn… cho thấy
đánh giá của giới phê bình về Lƣu Quang Vũ từ rất nhiều góc độ, nhƣng tựu
trung, đều đã cho thấy một cái nhìn thiện cảm, kì vọng ở một cây bút thơ đang
hồi sung sức, có một giọng điệu riêng, một phong cách cần ghi nhận.
Cuốn “Đối thoại Tình yêu Xuân Quỳnh Lưu Quang Vũ”, ấn hành
năm 2007 lại nhìn ở một góc độ khác. Từ việc tuyển lựa những bài thơ đặc sắc
nhất của cả Xuân Quỳnh và Lƣu Quang Vũ, những bài viết của giới phê bình
về thơ của Lƣu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, và cả những bức thƣ thấm đẫm ân
tình của hai ngƣời, đã tạo nên một thế đối thoại rất thú vị, nhƣ là Xuân Quỳnh,
Lƣu Quang Vũ đã đối thoại với nhau qua những trang thơ, những vần thơ tình
u nồng nàn nóng bỏng. Nhƣng hơn thế nữa, là cuộc đối thoại xuyên suốt của
Xuân Quỳnh, Lƣu Quang Vũ với những bạn đọc trung thành, qua 20 năm vẫn
rất mực yêu mến tác phẩm của hai vợ chồng tài hoa này. Tuy trong mục phê
2


bình, đánh giá, vẫn là tuyển lựa những bài viết cũ, nhƣng tổng quan cuốn sách
đã cho thấy một Lƣu Quang Vũ, đời hơn, gần gũi hơn, và rõ ràng hơn với bạn
đọc.
Năm 2008, kỉ niệm 20 năm ngày mất của Lƣu Quang Vũ, Xuân Quỳnh,
cuốn “Di cảo Nhật kí – thơ” của Lƣu Quang Vũ đã đƣợc Lƣu Khánh Thơ
biên soạn, công bố một phần lớn những tác phẩm, cũng nhƣ bút tích của anh
trong tồn bộ khối lƣợng Di cảo đồ sộ. Tại cuốn sách này, có một phần lớn

thời lƣợng dành để đăng tải những trang nhật kí của Lƣu Quang Vũ của một
thời “hoa phƣợng” và những ngày tháng chuẩn bị “lên đƣờng”. Những trang
nhật kí khi đƣợc đăng tải trên báo Tuổi trẻ TPHCM đúng dịp những ngày cả
nƣớc kỉ niệm 20 ngày mất của Xuân Quỳnh, Lƣu Quang Vũ đã gây nên một
hiệu ứng đặc biệt trong cả nƣớc, nó vừa gợi lại cả hồi ức một thời kì đất nƣớc
“đau xót và hi vọng”, lại vừa tạo nên những xúc cảm lắng đọng khi tiếc nhớ về
hai con ngƣời tài hoa của nền nghệ thuật nƣớc nhà đã ra đi.
Đáng chú ý là 34 bài thơ “Những bông hoa không chết”, là phần thơ
viết trong khoảng 5 năm (1971 – 1975), một thời kì “gian khó, cơ đơn đến
cùng cực” của Lƣu Quang Vũ mà ít ngƣời biết tới. Những bài thơ này khi ra
đời, bản thân nó đã tự tách thành một dịng riêng, khơng thực sự hợp với
những địi hỏi của sách báo ngày đó nên khơng đƣợc in ấn, xuất bản. Chính
những bài thơ này, gợi mở một diện mạo thơ khác của Lƣu Quang Vũ, đắm
đuối, buồn đau, khốc liệt, một Lƣu Quang Vũ “tha thiết muốn vƣợt lên trên
nỗi mệt mỏi, hoài nghi để yêu thƣơng, để sống và viết”.
Cuốn sách cũng đã công bố những bài viết mới nhất về Lƣu Quang Vũ
trong chủ đề “Ngƣời trong cõi nhớ”, với những trang viết cảm động của Bùi
Vũ Minh, Anh Chi, Ngô Thảo. Đáng chú ý rất trong đó là bài viết của Anh Chi
“Lƣu Quang Vũ, mộng ƣớc, khổ đau và cái đẹp”, bài viết gợi nhiều những kỉ
niệm về cuộc đời Lƣu Quang Vũ, về những trang thơ hay, và có những nhận
định về thơ Lƣu Quang Vũ rất đáng chú ý. “Cá nhân tôi coi anh là một tài
năng khá đặc biệt của văn chƣơng Việt Nam nửa sau thế kỉ XX. Do cách anh
đi trên đƣờng đời, đƣờng thơ thật khác biệt so với bạn thơ cùng trang lứa,
cùng thời, nên anh là một số phận thơ khác biệt hẳn ra, có thể coi là cá
3


biệt”… “một giọng thơ dễ xâm chiếm lòng ngƣời”, một tiếng thơ có đủ “mộng
ƣớc, khổ đau và cái đẹp”, một “tứ thơ say đắm, nhiều nƣớc mắt và cũng thật
nồng nàn”…

Trong bài viết của Ngô Thảo, “Nhớ về Lƣu Quang Vũ - những khoảnh
khắc chợt hiện”, chủ yếu là những kỉ niệm của những ngƣời đồng nghiệp với
nhau, nhƣng có một nhận định về tác phẩm Lƣu Quang Vũ, bao gồm cả kịch,
thơ, văn xuôi rất thú vị, và có tính bao qt lớn “Hai mƣơi năm chƣa phải là
dài, nhƣng đất nƣớc và thế giới đã có nhiều biến động về chính trị, xã hội,
khiến cho nhiều thƣớc đo giá trị đã thay đổi, nhƣng nhiều tác phẩm của Lƣu
Quang Vũ không sợ những thƣớc đo mới mẻ: Thấm đƣợm nhân văn, hƣớng
thiện, đầy tình yêu với cuộc sống, con ngƣời, đất nƣớc, luôn là những giá trị
đƣợc nghệ thuật tơn trọng”.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng, việc nghiên cứu thơ và phong cách
thơ Lƣu Quang Vũ mới chỉ dừng lại ở những bài viết riêng lẻ, mang tính chất
cảm nhận, cảm tính nhiều hơn là những cơng trình nghiên cứu, mang tính
thống kê, phân tích, tổng hợp thực sự để chứng minh Lƣu Quang Vũ với một
bản sắc thơ riêng biệt.
Do đó, luận văn này chỉ mong muốn tìm đƣợc một cách nhìn tổng quát
về đời thơ của Lƣu Quang Vũ, chỉ cho ra nét đặc trƣng tiêu biểu của Lƣu
Quang Vũ trong các tiếng thơ cùng thế hệ, và khẳng định Lƣu Quang Vũ nhƣ
một gƣơng mặt thơ tiêu biểu của thời kì thơ ca kháng chiến chống Mỹ cũng
nhƣ thơ ca của thế kỉ XX.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là ất cả những tập thơ đã xuất bản của
Lƣu Quang Vũ.
+ Hƣơng cây – bếp lửa (In chung với Bằng Việt, 1968)
+ Mây trắng của đời tôi (1989)
+ Bầy ong trong đêm sâu (1993)
+ Lƣu Quang Vũ – Di cảo (2008)
4


Bên cạnh đó, chúng tơi cũng tiến hành tham khảo thêm những tác phẩm

chƣa đƣợc công bố đầy đủ của Lƣu Quang Vũ.
+ Cuốn sách xếp lầm trang (chƣa in)
+ Cỏ tóc tiên (chƣa in)
4. Mục đích nghiên cứu
Qua việc thống kê, khảo sát, phân tích, luận văn hƣớng đến mục đích:
- Khẳng định Lƣu Quang Vũ là một cây bút thơ có phong cách, bản sắc
riêng biệt.
- Sự đóng góp của thơ Lƣu Quang Vũ trên tiến trình phát triển của thơ
ca Việt Nam thế kỉ XX.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Chúng tôi chủ yếu sử dụng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp trên cơ
sở những số liệu thống kê. Qua việc khảo sát các tập thơ của Lƣu Quang Vũ,
ngƣời viết sẽ đƣa đến những kết luận về những đặc điểm phong cách thơ Lƣu
Quang Vũ.
Phƣơng pháp so sánh cũng đƣợc sử dụng nhƣ một tấm gƣơng đối chiếu,
để thấy rõ nét sự tƣơng đồng và cá biệt của Lƣu Quang Vũ so với các nhà thơ
cùng thời. Nó cũng sẽ chỉ ra cho thấy sự vận động và phát triển của chính bản
thân hồn thơ Lƣu Quang Vũ.

5


B. PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1. VẤN ĐỀ PHONG CÁCH VÀ PHONG CÁCH THƠ

1.1.

Khái niệm Phong cách

Từ xa xƣa, phƣơng Tây cũng nhƣ phƣơng Đơng, đã có quan niệm:

Phong cách là bản thân con ngƣời, hay nói ngắn gọn hơn, Văn tức là ngƣời.
(Văn nhƣ kỳ nhân) Tính chất cá thể ở đó là vơ cùng rõ nét. Tất nhiên, những
nhận định đó có phần thiên lệch, nhƣng nó đã cho thấy điều cơ bản nhất của
phong cách: đó là nét riêng biệt, không trộn lẫn, nhƣ từng cá nhân trong lịch
sử, mỗi ngƣời có một đặc tính, một hình dáng, một tính cách, một cách ứng xử,
một quan niệm.
Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm về phong cách xuất hiện từ thời
kỳ Hy Lạp và La Mã cổ đại cùng với sự xuất hiện của khoa học về hùng biện.
Phong cách ngôn ngữ là sự kết hợp của hai nhân tố : “nói gì” và “nói nhƣ thế
nào”, có nghĩa đây là sự tổng hịa các phƣơng tiện ngơn ngữ. “Nói gì” là
phạm trù về nội dung và “nói nhƣ thế nào” là phạm trù về hình thức. Nhƣ vậy,
phong cách là sự lựa chọn một cách có chủ đích của tác giả, để nội dung và
hình thức là một tổng thể nhuần nhuyễn và hoà hợp với nhau.
Thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân cho rằng “Phong cách là những
nét chung, tƣơng đối bền vững của hệ thống hình tƣợng, của các phƣơng thức
biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà văn, một tác
phẩm, một khuynh hƣớng văn học, một nền văn học nào đó… Phong cách có
sự thể hiện cụ thể trực tiếp: những đặc điểm phong cách dƣờng nhƣ hiện diện
ở bề mặt tác phẩm, nhƣ là một sự thống nhất hiển thị và cảm giác đƣợc của tất
cả các yếu tố chủ yếu thuộc hình thức nghệ thuật. Trong nghĩa rộng, phong
cách là nguyên tắc xuyên suốt kiến trúc tác phẩm, khiến tác phẩm có tính
chỉnh thể, có giọng điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt.
Nhƣ vậy, phong cách không phải là những đặc điểm lẻ tẻ, biểu hiện một
cách rời rạc, nó cần có tính thống nhất và bền vững của tất cả những đặc tính
sáng tạo của một nhà văn hoặc một thời đại. Sự hiển thị và là dấu hiệu nhận
6


biết của nó nằm chính trong những thủ pháp nghệ thuật, trong cách thức sử
dụng ngơn ngữ, xây dựng hình tƣợng, trong cả nhân sinh quan về cuộc sống,…

và tất cả cùng kết hợp nhuần nhuẫn trong một chỉnh thể thống nhất, nó sẽ tiêu
biểu cho từng chủ thể sáng tạo riêng biệt. Nhƣng nhìn một cách bao qt, nó
cũng sẽ góp phần tạo nên những nét riêng biệt của từng thời kì lịch sử.
Theo GS Phan Ngọc “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các
kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị
lịch sử, có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, hay một tác
giả” [25,22]
Đây cũng là một quan niệm rất thú vị và đầy đủ, bao quát về phong
cách. Sự quan trọng nằm trong hai mật mã “kiểu lựa chọn tiêu biểu” và “nhận
diện”. Phong cách của nhà văn nằm ở sự lựa chọn của nhà văn đó trƣớc một
vốn ngôn ngữ, một vốn chất liệu đời sống nhƣ nhau. Nhƣng cái khác biệt là
bản thân “cái tạng” của nhà văn ấy đã “lựa chọn” cách đi, cách viết, cách
sáng tạo nhƣ thế nào, để tạo nên sự độc đáo và khác biệt của mình. Đồng thời,
nỗ lực lao động nghệ thuật của nhà văn cũng góp phần tạo nên sự lựa chọn ấy,
bởi lẽ, một nhà nghệ thuật nghiêm túc sẽ phải ln ý thức tìm tịi sự mới mẻ,
“khơi những nguồn chƣa ai khơi và sáng tạo những gì chƣa có”. Đơi khi, hiện
thực đời sống chỉ có vậy, nhƣng tái tạo nó trên trang viết, lại phụ thuộc ở cách
nhìn, cách thể hiện của ngƣời cầm bút.
Trong một mối quan hệ biện chứng, chính những “sự lựa chọn tiêu
biểu” ấy, đã hình thành nên những nét riêng biệt, những đặc điểm phong cách
mà ngƣời ta có thể soi rọi vào đó để phân biệt tác giả này với tác giả khác, thời
đại này với thời đại khác. “Sự lựa chọn tiêu biểu” là thuộc về tác giả, còn sự
“nhận diện” lại thuộc về bạn đọc và những thƣớc đo của thời gian.
Đỗ Lai Thuý cũng có quan niệm “Phong cách là cá tính của chủ thể
sáng tạo, và sự tự do lựa chọn các phƣơng tiện ngôn ngữ để thể hiện nó trong
tác phẩm. Cá tính, cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy, là tất cả”… “Phong cách
cũng là chỗ đặc dị, nơi chứa đựng mật số của tác phẩm văn chƣơng”…
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, dù bề mặt từ ngữ có thể chƣa trùng khít, và
dù cách tiếp cận có khác nhau, nhƣng vấn đề nội hàm khái niệm “phong
7



cách” trong lí luận văn học dƣờng nhƣ đã có một sự thống nhất nhất định.
Phong cách là nét riêng, là sự khu biệt, bản sắc của một cá nhân, một tác phẩm,
hay một thời đại.
Phong cách học, bộ môn của ngơn ngữ học ra đời với vai trị nghiên cứu
phong cách vẫn đang trên tiến trình hồn thiện những khái niệm cơ sở của
phong cách nhƣ phong cách thể loại, phong cách thời đại, phong cách tác giả.
Tìm hiểu về phong cách, chúng ta cũng cần làm rõ thêm từng khái niệm và
mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
1.1.1. Phong cách tác giả
Phải khẳng định ngay rằng không phải tác giả nào cũng có phong cách.
Tất cả những ngƣời cầm bút, thơng thƣờng ai cũng phải có một đặc điểm nào
đó, nhƣng phong cách thì chỉ dành cho một số rất ít. Để có đƣợc phong cách
riêng, đó là thiên tài và nỗ lực lao động của ngƣời cầm bút. “Một tác giả chỉ có
đƣợc phong cách riêng khi đọc vài câu ngƣời ta có thể đốn biết tác giả là
ai”, và “bản thân phong cách đó phải có một ý nghĩa thiết thực với việc làm
đa dạng và phong phú đời sống văn học”[25,24] Để ngƣời ta có thể “đốn
biết” thì trƣớc hết, tác giả đó phải có một ngôn ngữ, một giọng điệu rõ nét, nổi
bật, và phải khác biệt. Điểm khác biệt đó là yếu tố căn bản nhất để ngƣời đọc
có thể nhận diện và gọi tên tác giả cũng nhƣ phong cách tác giả.
Trong đời sống văn học Việt Nam cũng nhƣ Phƣơng Tây, không thiếu
những trƣờng hợp mà phong cách không chỉ đƣợc nhận biết, mà cịn có thể gọi
thành tên. Trong thời kì thơ Mới, Hồi Thanh đã “gọi tên” phong cách của các
nhà thơ vô cùng chuẩn mực “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam
chƣa bao giờ có một thời đại phong phú nhƣ thời đại này. Chƣa bao giờ ngƣời
ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở nhƣ Thế Lữ, mơ màng
nhƣ Lƣu Trọng Lƣ, hùng tráng nhƣ Huy Thông, trong sáng nhƣ Nguyễn Nhƣợc
Pháp, ảo não nhƣ Huy Cận, quê mùa nhƣ Nguyễn Bính, kỳ dị nhƣ Chế Lan
Viên, và thiết tha rạo rực băn khoăn nhƣ Xuân Diệu”

Điều đó cũng thể hiện rằng, trong dàn hợp xƣớng chung của thơ Mới,
mỗi nhà thơ đều có một âm chủ riêng, một sự độc đáo và mới lạ. Khi một cây
8


bút có phong cách riêng, bản thân cây bút đó đã có một sự đóng góp đáng q
vào tiến trình phát triển của văn học, bởi lẽ, chính phong cách đó, sự độc đáo
đó đã làm diện mạo nền văn học thay đổi, đa dạng, phong phú hơn, đồng thời,
nó cũng kích thích sự đổi mới và vận động của cả một thời kì văn học đó.
Và đúng nhƣ Đỗ Lai Thúy tổng kết “Nếu cái nhìn nghệ thuật chung của
cả dòng thơ nhƣ là một chuẩn, một phong cách chung cho cả “một thời đại
trong thi ca”, thì mỗi cái nhìn nghệ thuật riêng của mỗi thi nhân là một lệch
chuẩn. Và chính sự lệch chuẩn này tạo nên phong cách riêng của mỗi nhà thơ.
Chính ở nhận định này, đã cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa phong
cách tác giả và phong cách thời đại.
1.1.2. Phong cách thời đại
Cũng giống nhƣ phong cách tác giả, có thể thấy rằng, khơng phải thời
đại nào cũng có phong cách. Tuy rằng, ở từng thời điểm, từng dấu mốc lịch sử,
những giai đoạn văn học có những đặc điểm khác nhau. Nhƣng nó chỉ trở
thành phong cách thời đại, khi thời đại đó tựu trung lại đƣợc những điểm độc
đáo và nổi bật mà ngƣời ta khơng tìm thấy ở thời đại khác. “Mỗi thời đại chỉ
có đƣợc phong cách của mình sau khi đã có đƣợc một cách khám phá riêng
cho nó mà đời trƣớc chƣa có”[25,23].
Phong cách thời đại là một khái niệm rộng lớn, nó bao hàm diện mạo
của cả một thời kì văn học kéo dài. Cũng nhƣ vậy, nó phải là sự tập trung nhất,
chắt lọc cô đọng nhất những đặc điểm thống nhất và bền vững của nhiều
những phong cách cá nhân khác nhau.
Khi nghiên cứu về một phong cách tác giả, bao giờ chúng ta cũng đặt
trong một trục biện chứng mối quan hệ tƣơng tác với phong cách thời đại. Nhƣ
Phan Ngọc đã nói, “phong cách của một nhà văn, dù vĩ đại đến đâu, cũng phải

phản ánh phong cách thời đại”. Đó là điều tất yếu.
Bất cứ một nhà văn nào, cũng đều tồn tại, lao động và cống hiến trong
một khoảng thời gian của tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại và chịu sự
tác động của các biến cố lịch sử, các quan niệm thời thế. Trào lƣu Văn học
nhân đạo chủ nghĩa nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX là một thời đại
9


văn học rực rỡ trong lịch sử văn học Việt Nam, khi mà ở đó, những yếu tố lịch
sử đã có một sức chi phối mạnh mẽ, tác động đến nhân sinh quan, thế giới
quan của những ngƣời cầm bút. Vận mệnh đất nƣớc nguy nan, chế độ phong
kiến đang đến hồi mục ruỗng, xáo trộn, nhân dân lầm than trong bể khổ, số
phận con ngƣời bị coi nhƣ cỏ cây, đó là lí do vì sao mà một loạt những tác
phẩm thời đó, đều lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến, đau xót cho con ngƣời và
địi quyền sống cho con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Một loạt những cây
bút ghi dấu ấn sáng tạo nhƣ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm, bà
Huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều bằng những tác phẩm của mình, đều
lên tiếng đấu tranh cho quyền đƣợc sống, quyền đƣợc yêu thƣơng của con
ngƣời, đã tạo thành phong cách của thời đại này.
Thời đại và lịch sử đã khơi gợi nguồn cảm hứng của các cây bút, trao
cho họ những đề tài, những chất liệu cuộc sống đặc biệt, đã tạo cho những tác
phẩm của cả một thời kì có một nền tảng bền vững tƣơng đối giống nhau về tƣ
tƣởng, màu sắc, xu hƣớng và sự vận động. Nhƣng cũng thấy một điều ngƣợc
lại, từ vai trò của ngƣời sáng tác, với ý thức về sự sáng tạo, chính họ đã làm
nên diện mạo của thời đại, với từng cá nhân là từng mảng màu, từng sự độc
đáo. Từ rất nhiều sự riêng biệt, họ vẫn tạo thành một nét chung thống nhất của
thời đại.
Cho đến nay, những công trình nghiên cứu về phong cách một tác giả,
phong cách một trào lƣu, phong cách một thời đại đã có những thành công rất
đáng ghi nhận. Cuốn “Thi pháp thơ Tố Hữu” của Trần Đình Sử đã cho ta

những hƣớng tiếp cận về phong cách thơ Tố Hữu rất thú vị. Và khơng thể
khơng kể đến cuốn “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”
của Giáo sƣ Phan Ngọc. Trong cơng trình này, Phan Ngọc đã đƣa ra cách tiếp
cận một phong cách một tác giả rất khoa học.
Thứ nhất: Xét tần số lặp đi lặp lại của một hiện tƣợng. Một hiện tƣợng
phải lặp đi lặp lại đến một tần số nhất định mới đƣợc chú ý. Đó là vì phong
cách là sự lặp đi lặp lại của những chùm những nét khu biệt.
Thứ hai: Sau khi rút ra mộ nét khu biệt, nét này sẽ đƣợc nghiên cứu
phân tích trên hai trục, là trục lịch sử và trục thời đại. Bởi lẽ, nhƣ một quá
10


trình biện chứng, phong cách các cá nhân sẽ tạo nên màu sắc, phong cách
chung của thời đại. Từ đó, phong cách thời đại lại để lại dấu ấn trực tiếp trên
phong cách cá nhân.
Từ đó, có thể thấy một mối quan hệ biện chứng, chính những phong
cách cá nhân đã làm nên phong cách thời đại, nhƣng ngƣợc lại, phong cách
thời đại cũng lại trao cho họ một nền tảng chung, một mẫu số chung để họ tự
tìm nên những biến số của mình. Sự tác động qua lại khơng ngừng giữa cá
nhân - thời đại đó chính là động lực của sự phát triển trong văn học.
1.1.3. Phong cách thể loại
Thể loại, bản thân nó cũng phải trải qua một q trình ra đời, phát triển,
đổi mới, hồn chỉnh, đạt đến “một cách nhìn riêng” lúc đó, mới có phong
cách. Nhìn trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ song thất lục bát xuất hiện từ
thế kỉ XV, nhƣng phải đến giữa thế kỉ XVIII, nó mới trở thành phong cách với
những tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều. Thơ Lục bát thì đã
có từ lâu trong dân gian, nhƣng nó chỉ trở thành đỉnh cao, chuẩn mực khi vào
tay Nguyễn Du. Thơ ngũ ngôn xuất hiện trong dân gian dƣới dạng vè đã lâu,
nhƣng phải đến thập niên ba mƣơi của thế kỉ XX thì mới có phong cách ngũ
ngơn thƣc sự, khi nó trở thành một bài hát, một khúc ca nội tâm với sự kết hợp

của nhạc lí, điệp từ, vần điệu. Cũng nhƣ vậy, thể loại văn chính luận tuy xuất
hiện thƣa thớt trƣớc đó đã lâu, nhƣng nó chỉ trở thành chính nó với một phong
cách riêng biệt trong tay của Hồ Chí Minh, Trƣờng Chinh…
Nhƣ vậy, có thể thấy phải qua một cuộc hành trình, mỗi thể loại mới
tìm đƣợc cách thể hiện phù hợp nhất với cái nhìn của thể loại.
Thể loại, là một yếu tố của hình thức. Nhƣng đặt ra hình thức thì dễ mà
xây dựng phong cách cho nó thì lại rất khó khăn, cần một sự lao động nghệ
thật nghiêm túc và mẫn cảm.
Ngƣời sáng tác, khi cầm bút, thơng thƣờng cũng khơng có sự băn khoăn
về thể loại, bởi lẽ, tự bản thân tạng của họ đã biết mình phù hợp với thể loại
nào nhất. Nhƣng nhiều khi, chính nội dung truyền tải đã lựa chọn thể loại, hình

11


thức cho nó, bởi, phong cách thể loại đó phù hợp đƣợc với điều mà tác giả
định nói.
Phong cách thể loại trong mối quan hệ với phong cách tác giả và phong
cách thời đại cũng là một mối quan hệ biện chứng. Phong cách thể loại cũng là
một phần tạo nên phong cách tác giả cũng nhƣ nhớ đến Nguyễn Công Hoan
ngƣời ta nhớ đến truyện ngắn, nhớ đến Nguyễn Tn là nhớ tuỳ bút, cịn
phóng sự thì nhớ đến Vũ Trọng Phụng…. Đồng thời, chính phong cách thể
loại cũng góp phần làm nên những mảng màu đa dạng của phong cách thời đại.
Đối với văn học Việt Nam, thơ là một thể loại văn học truyền thống, đã
đạt đƣợc nhiều thành tựu. Là một thể loại văn học nằm trong phƣơng thức trữ
tình nhƣng bản chất thơ lại rất đa dạng, với nhiều biến đổi và màu sắc phong
phú. Thơ tác động đến ngƣời đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng
khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp tạo nên cảm xúc, vừa gián tiếp gợi
nên những liên tƣởng [8, 165]. Ngôn ngữ thơ là ngơn ngữ gợi cảm, giàu nhạc
điệu, biến hố qua nhiều sắc thái bất ngờ…

Ở thể loại này, ở thời đại nào, cũng có những phong cách tác giả ghi
dấu, những lứa thế hệ kế tiếp nhau không ngừng. Chỉ riêng thế kỉ XX, khởi
điểm bằng phong trào Thơ Mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Lƣu Trọng Lƣ, Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, Thế Lữ. Đến thời kì thơ ca kháng chiến chống Pháp
với Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Hồng Nguyên…, và sau này, lại
một lứa các nhà thơ chống Mỹ ra đời, hào sảng, tƣơi mới: Thu Bồn, Phạm Tiến
Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, và Lƣu Quang Vũ…
1.2. Lƣu Quang Vũ - Một phong cách thơ
Với những khái niệm giới thuyết ở trên, ngƣời viết chỉ muốn khẳng định
một điều: Trong thời kì thơ ca kháng chiến chống Mỹ đã có nhiều phong cách
thơ xuất hiện, trong đó Lƣu Quang Vũ là một gƣơng mặt tiêu biểu. Ngay cả
những năm sau này, dù những nhìn nhận về thơ Lƣu Quang Vũ có nhiều thái
cực ngƣợc chiều, nhƣng Lƣu Quang Vũ vẫn là một tiếng thơ có bản sắc rất
đậm nét, một phong cách thơ cần đƣợc ghi nhận.
12


Khi Lƣu Quang Vũ cịn sống, chỉ có tập thơ duy nhất đƣợc in chung với
Bằng Việt là “Hương cây bếp lửa”. Những tập thơ sau này chỉ đƣợc in khi
Lƣu Quang Vũ đã qua đời, với sự nỗ lực của ngƣời thân và những bạn bè đồng
nghiệp tri ân. Song về tổng thể, so với những nhà thơ cùng lứa, cùng thời, Lƣu
Quang Vũ viết khơng ít, và lại càng khơng mờ nhạt, thậm chí đó là giọng thơ
hiếm thấy, không dễ dàng trộn lẫn.
Ghi danh trên thi đàn từ rất sớm với “Hương cây”, Lƣu Quang Vũ là
tiếng thơ đƣợc yêu mến, kì vọng ngay từ buổi đầu. Tuy nhiên, đƣờng thơ của
Lƣu Quang Vũ không đi đƣờng thẳng, mà ln có những lối rẽ bất ngờ khơng
định trƣớc. Cả một thời kì dài, thơ Lƣu Quang Vũ khơng đƣợc thừa nhận.
Cũng có lẽ vì thế, khi viết về một thời kì thơ ca kháng chiến chống Mỹ, nhiều
cái tên đã đƣợc gọi ra, nhƣng khơng có Lƣu Quang Vũ, ngƣời ta qn, và cũng
có thể cố tình không nhớ, hoặc không muốn công nhận sự tồn tại của nó.

Sau “Hương cây - bếp lửa”, cái nhìn cuộc đời trong veo, hồn hậu, phấn
chấn của Lƣu Quang Vũ đã mất dần đi. Sự măng tơ khơng cịn nữa. Rời khỏi
đời lính với ít nhiều tai tiếng, cuộc sống gia đình bất ổn, rồi thực tế cuộc sống
nghiệt ngã, cuộc chiến tranh kéo dài, thơ Lƣu Quang Vũ mất đi vẻ mát lành.
Thơ anh bắt đầu đẫm nỗi buồn, băn khoăn, ƣu tƣ, và đầy chất vấn. Phải nhìn
nhận rằng, cả thời kì đó, ngƣời ta gạt nỗi buồn, nỗi đau, để cố mà sống, mà
chiến đấu. Cái cố gạt đi đó, khơng phải là sự can đảm, nó chỉ là sự né tránh. Vì
nếu chạm đến, ngƣời ta sẽ ngã quị và khó có thể đứng lên.
Nhƣng, Lƣu Quang Vũ, đã đứng lại đó, nhìn vào những thực tế trần trụi,
vào nỗi đau của bản thân, của đời sống nhân dân lầm than khốn khổ, của cuộc
chiến tranh hoang tàn, khốc liệt. Anh dám đƣa tay sờ vào nỗi đau đó, gọi tên
nó. Nhƣng cũng vì thế, chỉ có một mình anh ở lại, bên đƣờng. Những vần thơ
thời kì đó của Lƣu Quang Vũ đƣợc coi nhƣ là sự đen tối, hoang mang, khơng
hợp thời cuộc, vì thế, tất lẽ, nó khơng đƣợc in và cũng chẳng đƣợc mấy ngƣời
biết tới. Ngƣời ta chỉ nhìn ra sự “đau xót” mà khơng thấy trong đó ngập đầy
“hi vọng” của con ngƣời khát sống và khát khao cống hiến.
Cho đến bây giờ, cái khoảng thời gian “đau xót và hi vọng” ấy đã có
một độ lùi, để có thể nhìn lại, cơng bằng và khách quan hơn. Nhiều ngƣời đã
13


cho rằng, chính bởi Lƣu Quang Vũ đã đứng tách ra một mình, sống trong
chính dịng xúc cảm, giọng điệu mà cái thời đó, ngƣời ta “vừa thích vừa sợ” đó là cái riêng của anh. Ở cái thời, ngƣời ta nói đến cái vui, thơ Lƣu Quang
Vũ hầu nhƣ chỉ có điệu buồn, ở cái thời mà ngƣời ta rạo rực tin tƣởng, Lƣu
Quang Vũ suy tƣ và chất vấn, ở cái thời ngƣời ta chỉ biết lao về phía trƣớc,
Lƣu Quang Vũ khựng ngƣời đứng lại. Và đó, là cái mà Lƣu Quang Vũ khác
ngƣời, hơn ngƣời.
Vƣơng Trí Nhần đã từng viết “Quả thật là đặt bên cạnh những bài thơ
đã biết, cả những bài thơ rất hay của thời chiến, thì những dịng thơ sau đây
có đƣợc vẻ độc đáo khơng gì thay thế đƣợc. Chúng – và những gì tƣơng tự nhƣ

chúng – là một phần cuộc đời ta, vì lí do nào đó, có lúc ta phải lảng tránh,
phải lãng qn, nhƣng khơng vì thế mà nên chối bỏ chúng mãi mãi! Với riêng
Lƣu Quang Vũ, nối tiếp vào những vần thơ rất mơ mộng, rất trong sáng của
anh trong Hƣơng cây, những vần thơ sau đây cho thấy một Lƣu Quang Vũ
khác, Vũ của dằn vặt, đau xót, lầm lỡ, cơ đơn, mà cũng là Vũ của những tha
thiết muốn vƣợt lên trên mọi mệt mỏi, mọi hoài nghi để sống, để tồn tại…”. Và
nhà phê bình cũng thành thật mà nói rằng “Tơi cịn nhớ rất rõ cái cảm tƣởng
nƣớc đơi dày vị bản thân mình khi nghe những bài thơ đó của Vũ: một mặt e
ngại, cảm thấy nó đi ngƣợc với tâm trạng chung, lạc quan chung nên không
cần ai bảo, đã thấy là khơng phải. Nhƣng mặt khác lại thích thú, cảm thấy ở
đó, có một phần vui buồn của mình nên tìm kiếm vụng trộm, tán thành vụng
trộm, thèm muốn trở lại với những dịng thơ đó, nhƣ thèm muốn nhìn thấy hình
ảnh của mình…”.
Thực ra, khơng chỉ riêng nhà phê bình văn học Vƣơng Trí Nhàn, mà có
rất nhiều ngƣời đã yêu, đã say thứ thơ ấy, nhƣng yêu, say mà vẫn sợ hãi, nên
chỉ yêu thích trong lịng, khơng biểu lộ, khơng ghi nhận, khơng dám đến gần.
Là một mảng màu có phần khác biệt trong diện mạo của cả thời kì thơ
ca kháng chiến chống Mỹ, nhƣng phải nói rằng, chính vì có mảng thơ nhƣ Lƣu
Quang Vũ, thì thời kì thơ ca kháng chiến chống Mỹ mới đủ tất cả những cung
bậc, những sắc thái. Và ở một khía cạnh nào đó, thơ Lƣu Quang Vũ mới thực
sự phản ánh đƣợc cái phần sâu kín nhất của cuộc sống và tâm hồn thời bấy
14


giờ. Khi ngƣời ta cổ vũ cho chiến công, anh lặng thầm xót thƣơng cho mất
mát. Khi ngƣời ta nói về máu đổ, nhà sập, bom rơi, anh nói về sự tổn thƣơng
vĩnh viễn của tâm hồn. Lƣu Quang Vũ đã nhìn thấy những phần chìm trong
tảng băng trơi mà nhiều ngƣời khơng nhìn ra hoặc khơng dám nhìn ra. Anh Chi
đã có những nhận định rất thấu tình đạt lí “Chúng tơi muốn thật rành mạch khi
nhìn nhận thơ của Lƣu Quang Vũ giai đoạn 1970 – 1972 và phải nói đó là

những bài thơ buồn khổ. Nhƣng cần phải nhìn nhận tồn diện hơn một nền thơ
ca của một thời đại, cụ thể ở đây, là thời cả nƣớc ta đang tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Nền thơ nhƣ một dàn đồng ca bừng bừng khí thế, cốt
động viên chiến đấu và chiến thắng. Nay thì tồn thắng rồi, có thêm 30 năm để
nhìn lại, nhìn thấy, nền thơ phản ánh tâm hồn con ngƣời Việt Nam sẽ còn
phiến diện nếu thiếu đi hiện tƣợng Lƣu Quang Vũ. Văn chƣơng ta đã thể hiện
nhiều tổn thất về sinh mạng cũng nhƣ vật chất, nhƣng tổn thất về tâm hồn con
ngƣời, chỉ có nhiều trong thơ Lƣu Quang Vũ”.[36,333]
Nhƣ vậy, nếu nhƣ xét về mảng nội dung phản ánh hiện thực, Lƣu Quang
Vũ thực sự xứng đáng là thi sĩ cùa lịch sử, của con ngƣời, của thời đại khi anh
khơng trốn tránh điều gì, thậm chí chấp nhận để cả nỗi buồn, nỗi đau, nỗi cay
cực gặm nhấm và xâm chiếm mình. Và qua thơ anh, để thấy, thời đó, cái thời
hào hùng oanh liệt ấy, cũng có biết bao nỗi xót xa, cay đắng, cũng có những
con ngƣời đứng lại bên lề, để nhìn thấu tỏ, phía sau sự hào quang lấp lánh của
tấm huân chƣơng, của chiến thắng, là những mất mát chẳng mấy khi có dịp tỏ
bày.
Xét về mặt giọng điệu, thì có lẽ, thơ Lƣu Quang Vũ càng đặc biệt hơn
nữa. Thơ anh là thứ thơ làm ngƣời ta yêu và say nhiều hơn là làm ngƣời ta
phục. Vũ Quần Phƣơng đã nhận xét rất tinh tế về Lƣu Quang Vũ rằng, ngƣời
ta u thơ Vũ khơng phải chỉ vì những khám phá đơì sống, mà vì những xúc
cảm dào dạt và giọng thơ quá đắm đuối của anh. “Đắm đuối là một đặc điểm
của suốt đời Lƣu Quang Vũ. Vui hay buồn, tin cậy hay hoang mang, bao giờ
anh cũng đắm đuối”. Ở một thời kì đó, ngƣời ta phần nào chuộng sự tỉnh táo,
chắc khoẻ, giàu chất liệu cụ thể đời sống cơng nơng binh, thơ đã ít mê say, khi
ngay cả Xn Diệu, nhà thơ tình nồng nàn, sơi nổi, đắm đuối nhất cũng chủ
15


trƣơng “chân chân chân thật thật thật”. Thậm chí có những khi, ngƣời ta phải
thốt lên: Thơ cần phải mê hơn. Cho nên, dễ hiểu vì sao, giọng thơ đắm đuối

của Lƣu Quang Vũ dù có phần lạc điệu giữa dàn đồng ca chung vẫn đƣợc
nhiều ngƣời yêu mến, dẫu rằng yêu mến trong dè dặt, kín đáo và âm thầm.
“Đắm đuối” trở thành phong cách thơ Lƣu Quang Vũ. Trong lứa những
nhà thơ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Lƣu Quang Vũ khơng có đƣợc giọng
thơ sơi nổi nhƣ Phạm Tiến Duật, khơng giàu chất trí tuệ nhƣ Bằng Việt,
Nguyễn Duy nhƣng lại là một giọng thơ đắm đuối lạ lùng, thuộc nhiều phần
cái tạng bẩm sinh của nhà thơ hơn là sự cố công gọt giũa.
Từ cả phƣơng diện nội dung cũng nhƣ hình thức, với tất cả những gì để
lại, Lƣu Quang Vũ xứng đáng đứng vào hàng ngũ những nhà thơ chống Mỹ,
có những đóng góp thực sự vào tiến trình phát triển của lịch sử văn học Việt
Nam. Trong phong cách chung của thời đại, phong cách thơ Lƣu Quang Vũ là
sự cá biệt, có thể gọi là dị biệt, nhƣng chính sự dị biệt đó, làm nên nét riêng,
nét hấp dẫn ở hồn thơ Lƣu Quang Vũ mà thời gian mỗi lúc lại chứng minh
thêm giá trị của nó. Soi vào thơ anh, ta thấy đƣợc những “kiểu lựa chọn tiêu
biểu”, “những giá trị tinh thần và lịch sử”, từ đó có thể nhận diện cả tính
cách, con ngƣời, cá tính sáng tạo của Lƣu Quang Vũ, nhận diện đƣợc cả thời
đại mà anh đã sống.

16


Chƣơng 2. PHONG CÁCH THƠ LƢU QUANG VŨ THỂ HIỆN QUA
CÁI TƠI TRỮ TÌNH VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH HIỆN THỰC

Những tƣ liệu từ gia đình, ngƣời thân, bạn bè của Lƣu Quang Vũ đều
cho thấy, anh làm thơ từ rất sớm, biết “sáng tác” từ khi còn 4, 5 tuổi những bài
thơ để hát ru em… Có thể nói, thơ là mối tình nghệ thuật đầu tiên của Lƣu
Quang Vũ, trƣớc khi anh đến với văn xuôi, kịch. Và trong suốt quãng đời của
mình, trong khi chia sẻ niềm đam mê và dâng hiến với những lĩnh vực khác,
Lƣu Quang Vũ cũng chƣa bao giờ bỏ quên thơ. Chính vì thế mà thơ ca nhƣ

một suối nguồn chảy dọc suốt cuộc đời nhà thơ, và cũng là nơi nhà thơ tìm
kiếm sự thay đổi, tìm kiếm chính bản thân mình.
Cho đến nay, cái danh xƣng “nhà biên kịch” đã gắn với Lƣu Quang Vũ
nhiều hơn, từ ngƣời trong nghề đến đơng đảo quần chúng. Nhƣng cũng có một
bộ phận trong đó, u mến, và ln nhớ đến một Lƣu Quang Vũ – nhà thơ,
thậm chí, là một nhà thơ có vị trí, có tầm cỡ. Trong giới văn chƣơng đây đó đã
có ý kiến đánh giá khẳng định, Lƣu Quang Vũ là tài năng thơ lớn và thuộc
loại hiếm. Nhƣng cũng có điều dễ nhận biết, thơ Lƣu Quang Vũ chƣa có tính
đại chúng cao, vì nhiều lí do từ chủ quan đến khách quan, trong đó, có một
phần cũng vì, thơ Lƣu Quang Vũ khá kén độc giả, khơng phải ai đọc cũng có
thể hiểu, hoặc đồng cảm. Nhƣng những ngƣời đã yêu thơ Lƣu Quang Vũ thì
cũng yêu đến đắm đuối, yêu đến cực đoan, nhƣ chính những dòng thơ anh viết.
Cảm nhận thơ Lƣu Quang Vũ, không chỉ bằng một đôi mắt biết nhận
diện con chữ, mà phải bằng một tâm hồn biết tự nguyện rung lên, khi bắt gặp
những ngữ nghĩa đầy ắp ân tình. Lƣu Quang Vũ đã sống, đã cống hiến ở nhiều
lĩnh vực, và cũng đã đạt đƣợc nhiều thành tựu. Nhƣng thơ, sẽ mãi là phần sâu
lắng nhất, ở đó, Lƣu Quang Vũ thực sự là chính anh, một tâm hồn, một trái
tim, một cuộc đời với vô vàn cung bậc. Đã có một sự thống nhất chung của
giới phê bình khi cho rằng, kịch là nơi Lƣu Quang Vũ giãi bày với cuộc đời,
còn thơ là nơi anh giãi bày và đối diện với chính mình.“Kịch là trách nhiệm
của cơng dân Lƣu Quang Vũ với xã hội, còn thơ là trách nhiệm của Vũ với
17


chính mình”. Đó là nơi anh thực thà nhất, dằn vặt nhất, và cũng con ngƣời
nhất. Là nơi một cái tơi trữ tình khơng e ngại bày tỏ, ln ắp đầy những xúc
cảm mới mẻ với cuộc đời và con ngƣời.

2.1.


Phong cách Lƣu Quang Vũ thể hiện qua Cái tôi trữ tình

Cái “tơi” là một khái niệm triết học, đánh dấu ý thức của con ngƣời về
bản thể tồn tại của mình, nó đƣợc hiểu là chủ thể trung tâm của hoạt động con
ngƣời trong tồn bộ thế giới. Vì con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
nên có thể coi cái tơi vừa là chủ thể vừa là khách thể của hoạt động nhận thức,
sáng tạo. Triết học Mác-Lênin khẳng định: Cái Tôi là trung tâm tinh thần của
con ngƣời, của cá tính con ngƣời, có quan hệ tích cực đối với thế giới và với
chính bản thân mình.
Nỗ lực xác lập cái Tơi của các nhà thơ trẻ là biểu hiện của sự ý thức
ngày càng mạnh mẽ về cá tính sáng tạo. Sáng tạo thơ là một hành động chủ
quan, cái chủ quan tồn tại và trở thành trung tâm qui tụ mọi yếu tố khác nhƣ
cảm hứng, tƣ tƣởng, hình ảnh, giọng điệu, lời thơ… Cái chủ quan đƣợc biểu
hiện cụ thể chính bằng cái Tơi. Có nhiều cách để xác lập cái Tơi cá nhân của
mình, tiêu cực thì nhƣ chối bỏ cộng đồng, lật đổ mọi giá trị truyền thống; tích
cực thì là vừa biết vƣợt qua cái cũ, vừa biết kế thừa những giá trị mỹ học
truyền thống đang còn có tác dụng trong đời sống hiện đại để xây dựng nên
những giá trị mới. Có trƣờng hợp nhà thơ chính là nhân vật, là cái Tơi, là hình
tƣợng trung tâm, đọc thơ chúng ta thấy giữa thơ và cuộc đời tác giả là một, là
thống nhất. Ở trƣờng hợp này cái Tơi đích thực là cái Tơi – nhà thơ. Có trƣờng
hợp, nhân vật trong thơ vẫn là Tơi, nhƣng khơng phải nhà thơ. Đó là trƣờng
hợp nhà thơ đồng nhất cảm xúc với đối tƣợng miêu tả, nhà thơ hóa thân thành
cái Tơi – trữ tình. Cái Tơi trữ tình là cái Tơi nghệ sĩ, nó đƣợc thể hiện qua các
cung bậc cảm xúc, quan niệm thẩm mỹ, đạo đức, đời sống tinh thần... của chủ
thể [16, 42].
Cái Tơi trữ tình của Lƣu Quang Vũ khơng phải bất biến mà thay đổi qua
từng quãng đời, từng quãng đƣờng thơ, mang theo dấu vết của thời đại và của
18



những giai đoạn trong cuộc đời anh. Đó là cái tôi chan chứa yêu thƣơng, khát
khao và đắm đuối trong yêu thƣơng nhƣng lại bất lực với những yêu thƣơng
của chính mình. Một cái tơi đầy mâu thuẫn, yếu đuối mà quyết liệt, đầy say
mê, nhƣng cũng luôn sụp đổ và thất vọng.
2.1.1. Cái tôi tha thiết yêu thương, đắm đuối
Một trái tim, một tấm lòng Lƣu Quang Vũ là những gì cịn lại, kết tinh
đậm nét trong thơ anh. Trải dài một cuộc đời thơ hơn 20 năm, ngƣời ta có thể
nhận ra một Lƣu Quang Vũ dạt dào xúc xảm, tha thiết yêu thƣơng. Sẽ mãi mãi
trong kí ức của những ngƣời cùng thời, và những thế hệ sau này, là một Lƣu
Quang Vũ, đắm đuối đến lạ lùng, đắm đuối trong mọi ngọn nguồn xúc cảm
của yêu thƣơng. Đắm đuối, tha thiết là đặc điểm suốt đời thơ Lƣu Quang Vũ.
Đặc điểm ấy ít thấy ở các nhà thơ khác cùng thời với anh khi mà cuộc sống
kháng chiến lơi kéo hơi thở nghệ thuật (trong đó có thơ) vào sự tỉnh táo với
những chất liệu lấy từ thực tế cuộc sống. Vào những năm 60 của thế kỉ XX,
một vài nhà thơ có uy tín đã phải kêu gọi rằng: thơ cần mê hơn... Chàng trai trẻ
Lƣu Quang Vũ đã đáp ứng đƣợc yêu cầu đó.
Với Lƣu Quang Vũ, đắm đuối là bản năng. Cuộc đời này, với tất cả
những gì gồ ghề, ghê gớm, hay mềm mại, dịu dàng hay cả những chết chóc
đều hiện lên trong biết bao da diết yêu thƣơng, trong sự đắm đuối đến cùng
cực.
Có ai nói cho lịng ta hiểu nổi
Về cuộc đời ghê gớm ta yêu???
(Viết cho em từ cửa biển)
Một cuộc đời chung chung, nhƣng cũng lại gần gụi là thế. Sau này,
những câu thơ của Lƣu Quang Vũ có một màu sắc chiêm nghiệm hơn, có khi
những câu thơ nhƣ một sự đúc rút. Nếu không yêu thƣơng đến da diết cuộc đời
này, liệu có ai viết đƣợc những câu thơ “Phải biết yêu thƣơng hi vọng đấu
tranh Để giải thích và đổi thay cuộc sống…?”

19



Một phạm trù trang trọng hơn của cuộc sống, ấy là Tổ quốc, là quê
hƣơng. Từ buổi đầu, cái tôi trữ tình ấy đã biết bao trong trẻo khi nghĩ về đất
nƣớc với những buổi hành quân lên đƣờng.
Chiều ấy các anh đi
Nắng nhạt vàng hoe gốc rạ
Gió xạc xào qua luỹ tre
Em đứng nhìn theo sau cửa
Đất nƣớc đánh thù, đƣờng trăm ngả
Các anh đi về đâu?
(Gửi tới các anh)
Sau này, sự trong trẻo mất đi, nhƣng những da diết u thƣơng thì vẫn
cịn đó. “Việt Nam ơi”, “Đất nước đàn bầu” vẫn mãi là một tiếng thơ mà ở
đó, cái tơi trữ tình Lƣu Quang Vũ có dịp bày tỏ những yêu thƣơng dâng hiến
của một ngƣời con đất nƣớc, một cơng dân, và một tấm lịng đầy trắc ẩn.
Yêu Tổ quốc trong thơ Lƣu Quang Vũ còn đƣợc cụ thể bằng tình thƣơng
với con ngƣời, với những trẻ nghèo, những cuộc đời nơi phố nhỏ ngoại ô,
những đồng đội.
Ta bƣớc đi, thƣơng nhớ những năm nào
Ơi cái phố tuổi thơ, cái phố nghèo kháng chiến
Hƣơng đất hƣơng cây bồi hồi bao kỉ niệm
(Phố huyện)
Chiến tranh mãi, bạn đã nằm dƣới mộ
Em nơi nào trong tít tắp chia xa
(Quán cà phê ngoại ô)
Ngƣời thiếu phụ già nua
Giọt nến trắng chảy ròng nhƣ nƣớc mắt
(Những ngọn nến)
20



Thằng bé mồ côi lạnh giá
Thấy trong tay chiếc bánh khổng lồ
(Giấc mơ của anh hề)
Và cái tôi tha thiết yêu thƣơng của Lƣu Quang Vũ, có lẽ đƣợc tỏ bày nhiều
nhất qua những bài thơ tình, qua một thế giới đầy xúc cảm của tình u. Ở đó,
mỗi dây thần kinh đều rung lên những thanh âm giao hoà, kết nối, và sự đắm
đuối không cố công gọt giũa của anh khiến cho thơ anh có nhiều đoạn làm mê
lòng ngƣời.
Nơi lá chuối che ngang nhƣ một cánh buồm
Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc
Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất
Qua dịu dàng ẩm ƣớt của làn môi…
(Vườn trong phố)
Cái tôi dịu dàng mơ màng ấy, cái tơi run rẩy ấy, có một sức hấp dẫn ghê
gớm, khiến “Vƣờn trong phố” đã trở thành bài thơ hấp dẫn biết bao bạn trẻ.
Và sau này, sự tha thiết yêu thƣơng ấy càng thể hiện mãnh liệt hơn“Rối rít
trong lịng một nỗi em em!!!”. Có khi lại bao dung, che chở đến mềm lịng
Em gầy đi đấy đơi vai nhỏ
Lẫn với bờ cây lẫn với thuyền
(Thu)
Lại có khi, cái tôi đầy dịu dàng, khao khát .
Thành phố thân yêu khơng nhỏ bé nhƣ em
Để anh ơm trong vịng tay che chở
(Ghi vội một đêm 1972)
Lại có khi trìu mến, giữ gìn.
Trái tim anh trong ngực em rồi đó
21



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×