Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.72 KB, 27 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1. Hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỷ
XV đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực
hiện các chức năng như nhau đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán
trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng.
Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển.
Việc các ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm
cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây cản trở cho quá
trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến sự phân
hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân hàng được phân thành hai
nhóm: thứ nhất là nhóm ngân hàng được được phép phát hành tiền được gọi là
ngân hàng phát hành, sau chuyển thành NHTW. Thứ hai là các ngân hàng không
được phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán giữa
các chủ thể trong nền kinh tế .
Ngày nay, hệ thống ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới là ngân
hàng hai cấp trong đó có Việt Nam: NHTW là chủ thể thực hiện chức năng quản lý
nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, là ngân hàng phát hành, ngân hàng của các ngân
hàng và là ngân hàng của chính phủ còn các NHTM thực hiện chức năng kinh
doanh tiền tệ.
Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về
NHTM. Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng ban hành ngày 23/5/1990 xác định :
“ Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán’’. Luật các TCTD được bổ sung sửa đổi năm 2004, điều 20 giải
thích: “ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các


qui định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.” và “ Hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã đạt đến trình độ cao của kinh
tế hàng hoá, ngân hàng đóng vai trò quan trọng, nó là hệ thống thần kinh, hệ
thống tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể cất
cánh, phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng vững mạnh. Ngân
hàng và nền kinh tế có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Do đó, vai trò của ngân
hàng thương mại được thể hiện ở một số mặt sau:
1.1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Khi nhắc tới vai trò của ngân hàng thương mại thì không thể không nhắc
tới vai trò cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các chủ thể
trong nền kinh tế. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh điều đầu
tiên các chủ doanh nghiệp phải quan tâm đó là vốn. Nếu không có vốn thì doanh
nghiệp sẽ bị mất cơ hội đầu tư, mất đi lợi nhuận mà lẽ ra có thể thu được.
Do nhược điểm của thị trường tài chính dẫn đến ảnh hưởng tới tính liên
tục của chu trình tài chính như sự không khớp nhịp giữa cung vốn và cầu vốn
qua vấn đề thời gian và lượng vốn, rủi ro đạo đức, rủi ro mất khả năng thanh
toán, …NHTM với tư cách là một chủ thể kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tiền
tệ có thể khắc phục được những nhược điểm trên. NHTM chính là người đứng ra
tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần
kinh tế … hình thành nên quỹ cho vay và sử dụng chúng để đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế. Là một kênh phân phối vốn có hiệu quả NHTM đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh cải tiến qui
trình công nghệ, từ đó nâng cao năng suất lao động để có thể đứng vững trước sự
cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Với khả năng cung cấp vốn,
NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia.

1.1.2.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường
Để có thể tiếp cận với thị trường đầu ra và tìm kiếm lợi nhuận các doanh
nghiệp cần phải quan tâm tới thị trường đầu vào của mình mà yếu tố đầu vào
quan trọng nhất chính là vốn, đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
kinh doanh vì nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà phải biết khai thác các
nguồn vốn khác tài trợ cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng của NHTM
sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được khó khăn đó. Như vậy, ngân hàng chính là
cầu nối đưa doanh nghiệp đến với thị trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm được
đầu vào, bôi trơn hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả
một cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn
cả về không gian và thời gian.
1.1.2.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Nếu NHTW có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông
qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất,… thì các NHTM
một mặt chịu sự tác động trực tiếp của các cộng cụ này mặt khác nó còn tham
gia điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức
kinh tế, cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói cách khác, thông qua
hoạt động của NHTM với các chủ thể khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có
liên quan đến việc hoạch định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHTW,
giúp NHTW có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng
thời kỳ để đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định.
1.1.2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trên thế giới, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia độc lập thường xuyên
tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực : kinh tế,
chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, khoa học- kỹ thuật, …trong đó quan hệ kinh
tế thường chiếm vị trí quan trọng. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế của mỗi quốc
gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt mà
quan trọng nhất là tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền kinh tế của
một quốc gia với phần còn lại của thế giới ? Câu hỏi này sẽ được giải đáp thông

qua vai trò của hệ thống NHTM với hàng loạt các nghiệp vụ không ngừng được
hoàn thiện và phát triển: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, uỷ thác đầu tư,
… Hệ thống NHTM trong nước đã điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự
vận động của nền tài chính quốc tế, đưa nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài
chính quốc tế.
1.1.3. Các chức năng của NHTM
1.1.3.1. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để
thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc nhập tiền vào tài khoản tiền gửi của khách
hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Việc nhận tiền
gửi và theo dõi các khoản thu chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền
đề để ngân hàng thực hiện vai trò là trung gian thanh toán. Mặt khác, việc thanh
toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể trong nền kinh tế có nhiều hạn chế
đó là rủi ro phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách
hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động
kinh tế. Trước hết thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết
kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. NHTM sẽ cung
cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhanh chóng và thuận tiện như :
séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán, thanh toán điện tử, thanh toán
bù trừ,… cho phép khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán mà theo họ là hiệu
quả và an toàn nhất. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá,
tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Mặt khác,
chức năng này còn góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí
thanh toán làm tăng uy tín của ngân hàng và tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút
nguồn vốn tiền gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM nên các
NHTM không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng
thanh toán đáp ứng nhu cầc của khách hàng ngày càng tốt hơn.

1.1.3.2. Chức năng làm trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng là khái niệm cơ bản và đặc trưng nhất của
NHTM và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng làm chức năng trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối giữa người
thừa vốn và người thiếu vốn”. Nói cách khác, ngân hàng sau khi huy động được
các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế sẽ hình thành nên quỹ cho vay
của ngân hàng và sẽ sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể trong
nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này ngân hàng đóng
vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Hay nói cách khác, nghiệp vụ tín
dụng ngân hàng của NHTM đi vay là để cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ
trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sở dĩ không phải là một tổ chức nào khác trong
nền kinh tế mà lại là ngân hàng đứng ra thực hiện chức năng này vì ngân hành là
một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, họ có đầy đủ kinh nghiệm và sự
hiểu biết về tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế do vậy họ có thể khắc
phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính đó là sự không khớp nhịp
giữa cung cầu tín dụng về thời hạn và số lượng tức là thông qua việc thu hút tiền
gửi với một số lượng lớn ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung cầu
tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và thời gian cho vay .
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo ra lợi ích
cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay và
đảm bảo lợi ích cho nền kinh tế.
1.1.3.3. Chức năng tạo tiền
Vào cuối thế kỷ XIX, khi mà hệ thông ngân hàng hai cấp được hình thành
trong đó NHTW có nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ còn các
NHTM thực hiện vai trò kinh doanh tiền tệ. Khi đó, các NHTM thông qua chức
năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng đã tạo ra tiền ghi sổ trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Nói cách khác, nhờ hoạt
động trên hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt .
Các ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một khoản

tiền gửi ban đầu, hoặc từ khoản tiền nhận được từ NHTW thông qua việc cấp tín
dụng cho các khách hàng là tổ chức phi ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng nào được
phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp các dịch vụ thanh toán cho
khách hàng đều có khả năng tạo tiền. Sự kết hợp giữa chức năng trung gian thanh
toán và trung gian tín dụng làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh
toán. Từ một khoản tiền gửi ban đầu thông qua làm chức năng trung gian tín dụng
ngân hàng sử dụng để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để
mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng
để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ… tức là ngân hàng đã tạo tiền. Còn ngược lại
khi ngân hàng huy động được số vốn mà chưa cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền.
Sự tạo tiền của NHTM chỉ xảy ra khi mọi hoạt động kinh doanh của NHTM thực
hiện bằng chuyển khoản ghi nợ cho tài khoản nay và ghi có cho tài khoản khác có
liên quan.
Thực hiện chức năng tạo tiền, với việc cho vay không có sự xuất hiện của
tiền mặt, các NHTM đã giảm được khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm
được chi phí, giúp điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp chính sách ổn định giá cả,
tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp, làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế đáp ứng nhu cầu chi trả của xã hội.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở
cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi NHTM thực hiện tốt chức
năng thủ quỹ và trung gian thanh toán góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở
rộng qui mô hoạt động của ngân hàng.
1.1.4. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Nghiệp vụ tài sản nợ
Tài sản nợ bao gồm những khoản nợ mà ngân hàng nợ thị trường và vốn của
ngân hàng. Các khoản nợ được thị trường biểu hiện thông qua những khoản vốn
mà dân chúng gửi vào NHTM hoặc NHTM đi vay các chủ thể trong nền kinh tế
như các cá nhân, các hộ gia đình, doanh nghiệp, nước ngoài, các trung gian tài

chính khác, NHTW…
a-Vốn tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động huy động vốn của NHTM dưới dạng
nhận các khoản tiền gửi của DN vào ngân hàng để thanh toán nhằm mục đích an
toàn hay hưởng lãi. Đồng thời ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi
trong dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán: Là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của TCKT và cá nhân
trong quá trình kinh doanh của mình gửi vào ngân hàng để chủ động thanh toán
hoặc sinh lời. Tuỳ theo tính chất nhàn rỗi của các nguồn vốn các tổ chức, cá nhân
có thể gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn vào ngân hàng. Ngân hàng có thể sử nguồn
vốn này vào cho vay các thành phần kinh tế.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của
NHTM. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành hoặc tạm thời nhàn rỗi của dân cư gửi
vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi theo định kỳ hoặc tiết kiệm chi tiêu cho
tương lai. Đây là nguồn vốn quan trọng có tính chất ổn định cao và có qui mô lớn
trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM. Khách hàng có thể gửi tiết kiệm
không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn tuỳ theo nhu cầu sử dụng.
b- Phát hành giấy tờ có giá
Nghiệp vụ này được thực hiện mang tính chất thời vụ, nó phát sinh khi có
nhu cầu về vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhằm thu hút
các khoản vốn trung dài hạn để đầu tư để đầu tư vào nền kinh tế, do huy động có
thời hạn nên nguồn vốn này tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh
doanh của NHTM. Bao gồm: kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ
tiền gửi.
c-Vốn đi vay
Tuy nguồn tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của NHTM nhưng sau
khi đã sử dụng hết vốn và tiền gửi mà ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của
khách hàng… NHTM có thể đi vay ở NHTW, ở các NHTM khác trên thị trường
tiền tệ, vay ở các tổ chức nước ngoài…Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ có

thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó rất cần
thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động bình thường.
NHNN có thể cho các NHTM vay dưới các hình thức : cho vay chiết
khấu, cho vay cứu cánh và cho vay theo thời vụ.
- Cho vay chiết khấu: các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu và trở thành
tài sản của họ khi cần thiết NHTM sẽ mang những thương phiếu này đến xin chiết
khấu tại NHTW. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu
có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ và NHNN
chủ yếu chỉ cho vay ngắn hạn để giải quyết nhu cầu cấp bách của NHTM .
- Cho vay cứu cánh: NHNN sẽ cho vay cứu cánh khi NHTM bị khủng hoảng trầm
trọng và có nguy cơ phá sản gây ảnh hưởng tới toàn hệ thống và đang bị đặt trong
tình trạng “kiểm soát đặc biệt” theo quyết định của thống đốc.
- Cho vay theo thời vụ : tại NHTM có những thời kỳ nhu cầu vay vốn và
thanh toán của khách hàng khi diễn ra nhiều mà nguồn vốn của ngân hàng không
đáp ứng đủ thi NHTW có thể cho vay để đảm bảo hoạt động.
Ngoài ra khi có nhu cầu NHTM còn có thể đi vay từ các NHTM khác.
Đây là nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị
trường . Các NHTM đang thiếu hụt dự trữ có thể vay mượn từ các NHTM và
TCTD khác trên thị trường để đảm bảo thanh khoản còn các ngân hàng đang có
dự trữ vuợt yêu cầu do có sự gia tăng bất ngờ về nguồn vốn huy động cho các
ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Quá trình vay mượn diễn ra rất
đơn giản ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc
thông qua NHTW. Khoản vay có thể không cần được đảm bảo hoặc được đảm
bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay
giảm đi và dự trữ của ngân hàng đi vay tăng lên. Có 2 loại vay từ NHTM khác :
- Vay qua đêm.
- Vay có kỳ hạn.
Các khoản đi vay thường là với quy mô và thời hạn xác định trước do vậy
tạo thành nguồn vốn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi ngân hàng
không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết và

hoàn toàn chủ động về khồi lượng vay cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Tuy
nhiên, do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả
cho tiền gửi với cùng kỳ hạn. Hơn nữa việc đi vay thường xuyên cũng sẽ làm
cho uy tín của ngân hàng trên thị trường tiền tệ bị giảm sút gây ảnh hưởng tới
hoạt động kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
d- Vốn khác
Quá trình thực hiện các nghiệp vụ trung gian, NHTM cũng tạo được một
khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán như: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng,
tài khoản séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do ngân hàng
chấp nhận hối phiếu thanh toán…
Thông qua các nghiệp vụ đại lý, dịch vụ NHTM cũng thu hút được một
lượng vốn như trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ
chức tín dụng khác, nhận chuyển vốn cho khách hàng…Do phát tiền theo tiến độ
nên thường xuyên có một bộ phận vốn kết dư trên tài khoản ngân hàng có thể sử
dụng tạm thời nguồn vốn đó vào kinh doanh.
Phần lớn các nguồn vốn khác không phải trả lãi hoặc trả lãi rất thấp. Tuy
nhiên, chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Để có được nguồn vốn này, các
ngân hàng cần không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ, đa dạng hoá
các dịch vụ tài chính, nâng cao uy tín của nhân hàng nhằm thu hút khách hàng.
e-Vốn tự có và coi như tự có của của ngân hàng
Vốn tự có là nhưng giá trị tiền tệ mà ngân hàng tạo lập được thuộc về sở
hữu của ngân hàng. Vốn tự có mang tính chất ổn định, nó thường chiếm một tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (dưới 10%), nhưng nó có một vị
trí quan trọng quyết định qui mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng
tiến hành kinh doanh, huy động vốn và cho vay. Nó đóng vai trò là “ tấm đệm
giúp chống đỡ rủi ro phá sản”. Vốn tự có của ngân hàng góp phần thoả mãn các
cơ quan quản lý ngân hàng khi họ xem xét các điều kiện của ngân hàng trong
việc thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng, đầu tư và mua sắm tài sản cố địng
của ngân hàng. Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển
của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới.

Nguồn hình thành vốn tự có gồm hai nguồn chính sau:
-Vốn tự có ban đầu là vốn mà NHTM phải có để đi vào hoạt động được
quy định trong những văn bản pháp quy. Đây là phần vốn mà ngân hàng thực có
trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng và thuộc quyền sở hữu của ngân
hàng. Tuỳ theo tính chất mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành ban đầu khác
nhau. Chẳng hạn :
+ NHTM quốc doanh: vốn điều lệ do NSNN cấp.
+ NHTM cổ phần: vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp.
+ NH liên doanh: vốn điều lệ do các bên tham gia liên doanh đóng góp.

×