Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 74 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THU TRANG

PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHƠNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh Doanh
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2013-L
Giảng viên hướng dẫn: ThS. NGUYỄN ĐĂNG DUY

Hà Nội – 2017
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THU TRANG

PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHƠNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh Doanh
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2013-L
Giảng viên hướng dẫn: ThS. NGUYỄN ĐĂNG DUY



Hà Nội – 2017
2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của
riêng tơi. Các ví dụ, số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ cơng
trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Thu Trang

3


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 ..................................................................................................................................................4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 4
1.1.Khái quát về cạnh tranh............................................................................................................................4
1.1.1.Khái niệm về cạnh tranh........................................................................................................................4
1.1.2.

Chức năng của cạnh tranh .................................................................................................................6


1.1.3. Hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh ...........................................................................9
1.1.4.

Nhận dạng thị trường cạnh tranh .....................................................................................................10

1.2.Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ........................................................................................11
1.2.1.Khái niệm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ...................................................................11
1.2.2.Đặc điểm và vai trò của pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh ..............................................12
1.2.2.1. Đặc điểm: ........................................................................................................................................12
1.2.2.2 Vai trị...............................................................................................................................................12
1.2.3. Xu hướng phát triển của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trên thế giới ........................16
1.2.3.1 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Âu ............................................................16
1.2.3.2 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ ..............................................................18
1.2.3.3. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Á .............................................................19
1.2.3.4 Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi ...........................................................................................20
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở
VIỆT NAM .................................................................................................................................................22
2.1. Pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam .........................................22
2.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn .........................................................................................................................22
2.1.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh ............................................................................................................24
2.1.3. Ép buộc trong kinh doanh ..................................................................................................................28
2.1.4. Gièm pha doanh nghiệp khác .............................................................................................................30
2.1.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác ......................................................................32
2.1.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ..................................................................................34
2.1.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................36
2.1.8. Phân biệt đối xử trong hiệp hội ..........................................................................................................39
2.1.9. Bán hàng đa cấp bất chính..................................................................................................................41
4



2.2. Các cơ quan quản lý cạnh tranh ............................................................................................................46
2.2.1 Cục quản lý cạnh tranh ........................................................................................................................46
2.2.2. Hội đồng cạnh tranh ..........................................................................................................................51
2.3. Trình tự tố tụng xử lý cạnh tranh khơng lành mạnh ..............................................................................54
2.3.1. Khiếu nại và thụ lý đơn khiếu nại ......................................................................................................54
2.3.2. Điều tra vụ việc cạnh tranh ................................................................................................................54
2.3.3. Xử lý vụ việc cạnh tranh ....................................................................................................................55
2.4. Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................................................................56
2.4.1. Chế tài hành chính ..............................................................................................................................56
2.4.2. Chế tài hình sự....................................................................................................................................57
2.4.3. Chế tài dân sự .....................................................................................................................................59
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THỰC THI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU
QUẢ CỦA PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM ...........60
3.1. Thực tiễn thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh .........................................................60
3.2. Một số kiến nghị nằm tăng cường hiệu quả của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam ..............................................................................................................................................................62
3.2.1. Những đề xuất trong việc hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.......................62
3.2.1.1. Mở rộng chủ thể áp dụng đối với các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh trong Luật
Cạnh tranh 2004 ..........................................................................................................................................62
3.2.1.2. Bổ sung, sửa đổi một số quy định của pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh bảo đảm tính
thống nhất, toàn diện, phù hợp với thực tiễn Việt Nam................................................................................63
3.2.2. Những đề xuất trong việc hỗ trợ bảo đảm thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ...64
3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh .64
3.2.2.2. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ ..............................................................................................64
3.2.2.3. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ..............................64
KẾT LUẬN .................................................................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................68

5



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau nhiều năm xây dựng nền kinh tế thị trường, ngày 03/12/2004, Việt Nam mới
ban hành Luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2005. Nếu so sánh với việc ban
hành đạo luật cạnh tranh đầu tiên ( Luật Cạnh tranh của Canada – năm 1889) thì ta có thể
thấy Luật Cạnh tranh Việt Nam ra đời chậm hơn Thế giới hơn 100 năm. Điều này phản
ánh đúng thực tại khách quan về nền kinh tế Việt Nam ở đó các quan hệ thị trường mới
xuất hiện và đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ.
Luật Cạnh tranh ra đời nhằm cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1992
về đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh,… pháp điển hóa nhiều quy định rải
rác trong các văn bản pháp luật dân sự, kinh tế thương mại, đồng thời đảm bảo quá trình
hội nhập kinh tế, phù hợp với các cam kết quốc tế. Luật Cạnh tranh cịn là kết quả của q
trình đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
theo đó cơ chế thị trường mới địi hỏi phải hình thành một mơi trường cạnh tranh lành
mạnh, hợp pháp, văn minh; thông qua Luật Cạnh tranh 2004 nhà nước muốn tạo một môi
trường thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cùng cạnh tranh và hợp tác phát triển
kinh tế.
Ngay từ khi ra đời, Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật chống cạnh tranh
khơng lành mạnh nói riêng đã nhận được sự quan tâm lớn của các chủ thể kinh doanh, các
nhà quản lý, đầu tư, giới khoa học pháp lý cũng như người tiêu dùng. Sự hiện diện của
đạo luật này đóng vai trị rất quan trọng có liên quan đến việc điều chỉnh hầu hết các quan
hệ phát sinh trên thị trường cạnh tranh, đóng vai trị bảo đảm cho sự lành mạnh của các
quan hệ cạnh tranh vốn đang diễn biến rất phức tạp thông qua nhiều hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong nền kinh tế còn đang sơ khai như ở Việt Nam.
Để luật cạnh tranh được triển khai thực hiện có hiệu quả, hiệu lực, trong một thời
gian ngắn nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đạo luật chuyên ngành này đã được ban
hành. Song, hầu hết các văn bản hướng dẫn chỉ chủ yếu tập trung giải thích, làm rõ các
quy định điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh mà ít chú ý đến các quy định điều chỉnh

hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hơn nữa, trên thị trường cạnh tranh hiện nay các
quan hệ phát sinh ngày một nhiều, các chủ thể kinh doanh với sự sáng tạo vô tận, các thủ
pháp cạnh tranh mới ngày một tinh vi, đa dạng thì việc cập nhật các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là rất cần thiết tạo tiền đề, cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.

1


Việc nghiên cứu, luận giải các quy định pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh với những đề xuất về cơ chế bảo đảm việc thực thi pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh trong bối cảnh đất nước hiện nay là rất cần thiết. Đây
cũng chính là những lý do tác giả lựa chọn đề tài “ Pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn giúp người đọc có hiểu biết nhất định về các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ( khái niệm, biểu hiện, hậu quả, hình thức xử lý,…), đánh giá thực tiễn thực thi
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, so sánh pháp luật chống cạnh trang không
lành mạnh của nước ta với một số nước trên thế giới, từ đó rút ra điểm mạnh, điểm yếu
của hệ thống pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh ở Việt Nam từ đó đưa ra các
đề nghị sửa đổi luật cạnh tranh cũng như các biện pháp khắc phục hành vi vi phạm cạnh
tranh, nêu ra các phương pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật chống cạnh tranh khơng
lành mạnh nói riêng và pháp luật cạnh tranh nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh, đi sâu vào nghiên cứu các hành vi không lành mạnh
và thực trạng thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, làm cơ
sở để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của
nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Ngồi ra cịn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá kết hợp
so sánh, đối chiếu với pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới để từ đó rút ra
những hạn chế, đưa ra kiến nghị và giải pháp khắc phục mang tính thực tiễn, khả thi.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung khóa luận bao gồm
3 chương:
Chương 1 Một số vấn đề lý luận về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Chương 2 Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

2


Chương 3 Thực tiễn thực thi và một số kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả của pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

3


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1.
1.1.1.

Khái quát về cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh

Thuật ngữ "Cạnh tranh" được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực
như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao. Với tư cách là một

hiện tượng xã hội riêng có của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện ở mọi lĩnh vực,
mọi cơng đoạn của q trình kinh doanh và gắn liền với bất cứ chủ thể nào đang hoạt
động trên thị trường. Cho đến nay, các nhà khoa học dường như chưa thể thoả mãn với
bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh. Do đó, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ
khác nhau tùy thuộc vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học.
Theo K. Marx: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
được lợi nhuận siêu ngạch ". Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và
cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản
chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình qn, và qua đó hình thành nên hệ
thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản
xuất và khả năng có thể ban hành hố dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị
trường được định nghĩa là “ Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm
giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hố về phía mình”
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy
thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức
lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả q trình cạnh tranh là sự bình
qn hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có
thể giảm đi.
Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt
động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện
sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn kinh tế học
(xuất bản lần thứ 12) cho rằng : Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch giữa các doanh
nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị trường. Hai tác giả này cho cạnh
tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition).
4



Ba tác giả Mỹ khác là D.Begg, S. Fischer và R. Dornbusch cũng cho cạnh tranh là
cạnh tranh hoàn hảo, các tác giả này viết. Một cạnh tranh hoàn hảo, là nghành trong đó
mọi người đều tin rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải
có nhiều người bán và nhiều người mua.
Cùng quan điểm như trên, R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn kinh tế học
vĩ mô cho rằng: Một thị trường cạnh tranh hồn hảo, hồn thiện có rất nhiều người mua
và người bán, để cho khơng có người mua hoặc người bán duy nhất nào có ảnh hưởng có
ý nghĩa đối với giá cả.
Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh
kiểm sốt độc quyền kinh doanh”, thuộc dự án VIE/97/016 thì cho rằng: Cạnh tranh có
thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản
xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một
mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh
trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua.
Tác giả Nguyễn Văn Khơn trong từ điển Hán việt giải thích: "Cạnh tranh là ganh
đua hơn thua"
Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh tồn cầu năm 2003 thì
định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là" Khả năng của nước đó đạt được những
thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt đựơc các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
cao được xác định bằng các thay đổi của tổn sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu
người theo thời gian”
Luật Cạnh tranh Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh
tại khoản 4 Điều 3 như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh
của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
Cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển của xã
hội lồi người, con người ln đi tìm động lực phát triển trong các hình thái kinh tế xã
hội. Đã có thời kỳ, thị trường, cạnh tranh và lợi nhuận được coi như là mặt trái gắn liền

với chủ nghĩa tư bản và bị gạt ra khỏi công cuộc xây dựng thể chế kinh tế thời kỳ kế
hoạch hóa tập trung. Lúc đó, các Nhà nước xã hội chủ nghĩa coi việc nắm giữ sức mạnh
kinh tế kết hợp với yếu tố kế hoạch tập trung như là những động lực cơ bản để thúc đẩy
sự phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công bằng, dân chủ và văn minh.
Với đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam thực sự thực thi những
nguyên lý của cơ chế thị trường chưa từng được biết đến trong nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung. Chúng ta đã dần quen với việc vận dụng một động lực mới của sự phát triển là
cạnh tranh. Cạnh tranh đã đem lại cho thị trường và cho đời sống xã hội một diện mạo
mới, linh hoạt, đa dạng, phong phú và ngày càng phát triển, đồng thời cũng làm nảy sinh
5


nhiều vấn đề xã hội mà trước đây người ta chỉ tìm thấy trong sách vở, như phá sản, kinh
doanh gian dối, cạnh tranh không lành mạnh. Qua hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh không còn mới mẻ trong đời sống kinh tế – xã hội và trong khoa học
pháp lý của Việt Nam. Song, trong công tác lập pháp và thực thi pháp luật cạnh tranh,
chúng ta cịn q ít kinh nghiệm. Vì thế, việc hệ thống hóa các lý thuyết cạnh tranh mà
các nhà kinh tế học, các nhà khoa học pháp lý đã xây dựng qua gần 5 thế kỷ của nền kinh
tế thị trường là điều cần thiết.
Ngày nay, dưới sự hoạt động của cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mơ của nhà
nước, khái niệm cạnh tranh có thay đổi đi nhưng về bản chất nó khơng hề thay đổi : Cạnh
tranh vẫn là sự đấu tranh gay gắt, sự ganh đua giữa các tổ chức, các doanh nghiệp nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để đạt được mục tiêu
của tổ chức hay doanh nghiệp đó. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh là
một điều kiện và là yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh, là mơi trường và động lực thúc
đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và tạo đà cho sự phát triển của xã hội.
Từ những định nghĩa và các cách hiểu khơng giống nhau trên có thể rút ra các
điểm hội tụ chung sau đây: Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng
về mình trong mơi trường cạnh tranh
1.1.2. Chức năng của cạnh tranh

a. Đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng có vị trí trung tâm, họ được cung
phụng bởi các bên tham gia cạnh tranh. Nhu cầu của họ được đáp ứng một cách tốt nhất
mà thị trường có thể cung ứng, bởi họ là người có quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền để
quyết định ai được tồn tại và ai phải ra khỏi cuộc chơi. Nói khác đi, cạnh tranh đảm bảo
cho người tiêu dùng có được cái mà họ muốn. Một nguyên lý của thị trường là ở đâu có
nhu cầu, có thể kiếm được lợi nhuận thì ở đó có mặt các nhà kinh doanh, người tiêu dùng
khơng cịn phải sống trong tình trạng xếp hàng chờ mua nhu yếu phẩm như thời kỳ bao
cấp, mà ngược lại, nhà kinh doanh ln tìm đến để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
một cách tốt nhất.
Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp ln tìm mọi cách
hạ giá thành sản phẩm nhằm lơi kéo khách hàng về với mình. Sự tương tác giữa nhu cầu
của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh đã
làm cho giá cả hàng hoá và dịch vụ đạt được mức rẻ nhất có thể; các doanh nghiệp có thể
thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong khả năng chi tiêu của họ. Với ý nghĩa đó,
cạnh tranh loại bỏ mọi khả năng bóc lột người tiêu dùng từ phía nhà kinh doanh.
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng về
trình độ cơng nghệ của người sản xuất. Trong mối quan hệ đó, sở thích của người tiêu
dùng là động lực chủ yếu của yếu tố cầu; công nghệ sẽ quyết định về yếu tố cung của thị
trường. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và nhu cầu, người tiêu dùng sẽ quyết định việc
sử dụng loại hàng hoá nào, dịch vụ cụ thể ra sao để phù hợp với nhu cầu cũng như túi tiền
6


của bản thân. Phụ thuộc vào những tính tốn về cơng nghệ, về chi phí…nhà sản xuất sẽ
quyết định mức độ đáp ứng nhu cầu về loại sản phẩm, về giá và về chất lượng của chúng.
Thực tế đã cho thấy, mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào khả
năng tài chính, trình độ cơng nghệ của doanh nghiệp. Những gì mà doanh nghiệp chưa thể
đáp ứng sẽ là các đề xuất từ phía thị trường để doanh nghiệp lên kế hoạch cho tương lai.
Do đó, có thể nói nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng (đại diện cho thị trường) có vai

trị định hướng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Kinh tế học đánh giá hiệu quả của một thị trường dựa vào khả năng đáp ứng nhu
cầu cho người tiêu dùng. Thị trường sẽ được coi là hiệu quả nếu nó cung cấp hàng hố,
dịch vụ đến tay người tiêu dùng với giá trị cao nhất. Thị trường sẽ kém hiệu quả nếu chỉ
có một người bán mà cơ lập với các nhà cạnh tranh khác, các khách hàng khác.
b. Điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường
Như một quy luật sinh tồn của tự nhiên, cạnh tranh đảm bảo phân phối thu nhập và
các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những doanh nghiệp giỏi, có khả năng và bản lĩnh
trong kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ loại bỏ những khả năng lạm dụng quyền
lực thị trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh và bóc lột khách hàng. Vai trị điều phối của
cạnh tranh thể hiện thơng qua các chu trình của quá trình cạnh tranh. Dẫu biết rằng, cạnh
tranh là một chuỗi các quan hệ và hành vi liên tục không có điểm dừng diễn ra trong đời
sống của thương trường, song được các lý thuyết kinh tế mô tả bằng hình ảnh phát triển
của các chu trình theo hình xoắn ốc. Theo đó, chu trình sau có mức độ cạnh tranh và khả
năng kinh doanh cao hơn so với chu trình trước. Do đó, khi một chu trình cạnh tranh được
giả định là kết thúc, người chiến thắng sẽ có được thị phần (kèm theo chúng là nguồn
nguyên liệu, vốn và lao động…) lớn hơn điểm xuất phát. Thành quả này lại được sử dụng
làm khởi đầu cho giai đoạn cạnh tranh tiếp theo. Cứ thế, kết quả thực hiện các chiến lược
kinh doanh và cạnh tranh hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp có sự tích tụ dần trong quá
trình kinh doanh để nâng cao dần vị thế của người chiến thắng trên thương trường. Trong
cuộc cạnh tranh dường như có sự hiện diện của một bàn tay vơ hình lấy đi mọi nguồn lực
kinh tế từ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả để trao cho những người có khả
năng sử dụng một cách tốt hơn. Sự dịch chuyển như vậy đảm bảo cho các giá trị kinh tế
của thị trường được sử dụng một cách tối ưu. Nói cách khác cạnh tranh sẽ trao cơ hội cho
những doanh nghiệp có năng lực, chiến lực tốt để có chỗ đứng trên thị trường và những
doanh nghiệp khơng có năng lực cũng như chiến lược khơng phù hợp sẽ dần bị loại bỏ
khỏi thị trường cạnh tranh nếu khơng nâng cao trình độ cũng như lựa chọn chiến lược phù
hợp hơn.
c. Đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu quả nhất
Những nỗ lực giảm chi phí để từ đó giảm giá thành của hàng hoá, dịch vụ đã buộc

các doanh nghiệp phải tự đặt mình vào những điều kiện kinh doanh tiết kiệm bằng cách
sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà họ có được. Mọi sự lãng phí hoặc tính
tốn sai lầm trong sử dụng ngun vật liệu đều có thể dẫn đến những thất bại trong kinh
doanh và bị đào thải khỏi thị trường. Nhìn ở tổng thể của nền kinh tế, cạnh tranh chính là
7


động lực cơ bản giảm sự lãng phí trong kinh doanh, giúp cho mọi nguồn nguyên, nhiên,
vật liệu được sử dụng tối ưu.
d.Thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong kinh doanh
Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận đã thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng áp dụng
các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí
sản xuất để đáp ứng ngày càng tốt hơn đòi hỏi của thị trường, mong giành phần thắng về
mình. Cứ như thế, cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển không
ngừng của khoa học, kỹ thuật trong đời sống kinh tế và xã hội. Trên thực tế, sự thay đổi
và phát triển liên tục của các thế hệ máy vi tính và sự phát triển của hệ thống viễn thông
quốc tế hiện đại cho thấy rõ vai trò của cạnh tranh trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học,
kỹ thuật.
đ. Kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục trong đời sống kinh tếxã hội
Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là quyền tự do trong kinh doanh
và sự độc lập trong sở hữu và hoạt động của doanh nghiệp. Khi sự tự do kinh doanh bị
tiêu diệt, mọi sự thi đua chỉ là những cuộc tụ họp theo phong trào, khơng thể là động lực
đích thực thúc đẩy sự phát triển. Cạnh tranh đòi hỏi Nhà nước và pháp luật phải tôn trọng
tự do trong kinh doanh. Trong sự tự do kinh doanh, quyền được sáng tạo trong khn khổ
tơn trọng lợi ích của chủ thể khác và của xã hội luôn được đề cao như một kim chỉ nam
của sự phát triển. Sự sáng tạo làm cho cạnh tranh diễn ra liên tục theo chiều hướng gia
tăng của quy mô và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Việc vắng thiếu sự sáng tạo sẽ
làm cho cạnh tranh trở thành những tua quay được lặp đi lặp lại ở cùng một mức độ, làm
cho ý nghĩa của cạnh tranh – động lực của sự phát triển sẽ chỉ còn là những danh hiệu sáo
rỗng.

Sự sáng tạo không mệt mỏi của con người trong cuộc cạnh tranh nhằm đáp ứng
những nhu cầu luôn thay đổi qua nhiều thế hệ liên tiếp là cơ sở thúc đẩy sự phát triển liên
tục và đổi mới không ngừng. Sự đổi mới trong đời sống kinh tế được thể hiện thơng qua
những thay đổi trong cơ cấu thị trường, hình thành những ngành nghề mới đáp ứng những
nhu cầu của đời sống hiện đại, sự phát triển liên tục của khoa học kỹ thuật, là sự tiến bộ
trong nhận thức của tư duy con người về các vấn đề liên quan đến kinh tế – xã hội.
Với ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh luôn là
đối tượng được pháp luật và các chính sách kinh tế quan tâm. Sau vài thế kỷ thăng trầm
của của kinh tế thị trường và với sự chấm dứt của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
con người ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về bản chất và ý nghĩa của cạnh tranh đối
với sự phát triển chung của đời sống kinh tế. Do đó, đã có nhiều nỗ lực xây dựng và tìm
kiếm những cơ chế thích hợp để duy trì và bảo vệ cho cạnh tranh được diễn ra theo đúng
chức năng của nó.

8


1.1.3. Hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều là hai hành
vi cạnh tranh được pháp luật cạnh tranh của Việt Nam quy định là những hành vi vi phạm
pháp luật cần phải được điều chỉnh. Trong lĩnh vực cạnh tranh, chúng ta dễ dàng bắt gặp
hai khái niệm “cạnh tranh không lành mạnh” và “hạn chế cạnh tranh” song nếu khơng tìm
hiểu rõ bất cứ ai cũng có thể nhầm lẫn hai khái niệm này. Để phân biệt hai hành vi này
luật cạnh tranh Việt Nam đã quy định rõ về cơ sở pháp lý, khái niệm, hậu quả, biểu hiện,
hình thức xử phạt, hướng miễn trừ,… đối với từng hành vi.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Khoản 4 điều 3 Luật cạnh tranh 2004) là
hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong q trình kinh doanh trái với các chuẩn mực
thơng thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng
còn hành vi hạn chế cạnh tranh (Khoản 3 điều 3 Luật cạnh tranh 2004) là hành vi của

doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền
và tập trung kinh tế. Từ hai khái niệm mà luật cạnh tranh Việt Nam quy định ta có thể
thấy hậu quả hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường chỉ ảnh hưởng tới một hoặc một
nhóm doanh nghiệp cụ thể, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng ( ví dụ: doanh nghiệp A có hành vi bơi nhọ, nói
xấu doanh nghiệp B; doanh nghiệp A sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn với sản phẩm của
doanh nghiệp B;… hành vi cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp A nhắm trực
tiếp đến doanh nghiệp B gây thiệt hại về danh dự, lợi nhuận của doanh nghiệp B). Ngược
lại, hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh sẽ làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên
thị trường, tác động tới mơi trường cạnh tranh nói chung và ảnh hưởng tới nhiều doanh
nghiệp cạnh tranh trên thị trường nói riêng ( ví dụ: doanh nghiệp A lạm dụng vị trí thống
lĩnh của mình trên thị trường làm ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp B, C, D… đang
tham gia thị trường cạnh tranh).
Bên cạnh đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ biến trên thị trường
hiện nay gồm có 9 dạng hành vi : chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; ép
buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh; phân biệt đối xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp bất chính để phân
biệt với hành vi hạn chế cạnh tranh thông thường gồm 3 dạng hành vi : hành vi thoả thuận
hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập
trung kinh tế. Đây là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh hay
được các doanh nghiệp sử dụng để “chơi xấu” doanh nghiệp khác nhằm giành ưu thế khi
tham gia thị trường cạnh tranh.
- Về nguyên tắc tố tụng cạnh tranh, việc giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành
mạnh và hạn chế cạnh tranh đều được thực hiện theo quy định của Luật cạnh tranh 2004,
bên cạnh đó các vụ việc cạnh tranh khơng lành mạnh cịn chịu các hình thức xử lý vi
phạm hành chính theo quy định pháp luật cạnh tranh.
- Về hướng miễn trừ, trong một số trường hợp khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật thì hành vi hạn chế cạnh tranh sẽ được hưởng miễn trừ. Các

9


hành vi cạnh tranh không lành mạnh không được hưởng miễn trừ trong bất cứ trường hợp
nào.
- Về cơ quan có thẩm quyền xử lý, hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh sẽ được
cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý, đối với hành vi hạn chế cạnh tranh thì hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh sẽ có thẩm quyền xử lý.
Như vậy, mặc dù được thực hiện từ các doanh nghiệp đều mang bản chất bất chính
và có khả năng gây thiệt hại cho thị trường hoặc cho chủ thể khác, giữa hành vi hạn chế
cạnh tranh và hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có những khác biệt cơ bản, theo đó,
hành vi hạn chế cạnh tranh ln hướng đến việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc
tận dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị biến
dạng so với hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, thì các hành vi hạn chế cạnh tranh có
khả năng gây thiệt hại cao hơn.
1.1.4. Nhận dạng thị trường cạnh tranh
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường cạnh tranh được chia thành ba loại.
Thứ nhất, cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá
của mình với giá cao nhất, cịn người mua muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất. Giá cả
cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
Thứ hai, cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc
vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên
gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá cao để mua
được hàng hoá hoá mà họ cần.
Thứ ba, cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm
giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người
mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức
ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
* Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế cạnh tranh được phân thành hai loại.
Thứ nhất, cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp

trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc
cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
Thứ hai, cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong q trình này
có sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành tỷ suất
lợi nhuận bình qn.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh được phân thành ba loại.
Thứ nhất, cạnh tranh hồn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh giữa
nhiều người bán trên thị trường trong đó khơng người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả
trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thực, tức là không
10


khác nhau về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các
doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hố sản
phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, cạnh tranh khơng hồn hảo (Imperfect Competition): Là hình thức cạnh
tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩm
đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành được ưu thế trong cạnh tranh,
người bán phải sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp
dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có
một hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm
hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung
cầu.
* Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh chia cạnh tranh thành hai loại.
Thứ nhất, cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn
mực xã hội và được xã hội thừa nhận, thường diễn ra sịng phẳng, cơng bằng và công
khai.
Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của luật pháp,

trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( ví dụ: trốn thuế bn lậu, móc ngoặc,
khủng bố...)
1.2.
1.2.1.

Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Khái niệm pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh

Cạnh tranh có từ rất lâu trong lịch sử, đi cùng cơ chế thị trường mới hình thành với
các hoạt động cạnh tranh sơ khai đã xuất hiện những hành vi cạnh tranh vượt ra ngồi
khn khổ, cần phải có pháp luật điều chỉnh song pháp luật về cạnh tranh lại xuất hiện
muộn hơn rất nhiều (sớm nhất cũng mới gần 100 năm nay). Khi mới ra đời, pháp luật
cạnh tranh được hiểu đồng nghĩa với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh theo
cách hiểu hiện nay.
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh bao gồm án lệ, luật tục, luật thành
văn (có thể là quy định chung của pháp luật về dân sự, thương mại, cũng có thể là một
đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh, hay là rải rác các quy định nằm trong các
lĩnh vực pháp luật khác có liên quan). Khơng chỉ có trách nhiệm khơng tạo ra lợi thế hay
bất lợi cho một đối thủ cạnh tranh pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh cịn ngăn
chặn việc các đối thủ cạnh tranh tạo ra lợi thế cho mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào họ
muốn. Nếu không, trật tự kinh tế sẽ bị rối loạn và nhiều doanh nghiệp trung thực, có năng
lực sẽ bị gạt ra khỏi “cuộc chơi”.
Như vậy, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh có thể hiểu là những quy
phạm cũng như cơng cụ pháp luật do nhà nước ban hành nhằm chống lại các hành vi
11


cạnh tranh không lành mạnh đảm bảo quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh, đảm bảo
lợi ích của mọi chủ thể sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ tham gia cạnh tranh trên
thị trường, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và lợi ích xã hội nói chung.

1.2.2.

Đặc điểm và vai trò của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh

1.2.2.1. Đặc điểm:
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh xuất phát từ nhiều nguồn và thể hiện
quan điểm lập pháp khác nhau ở mỗi quốc gia, song vẫn có những đặc điểm cơ bản thống
nhất, và cũng là những đặc điểm của pháp luật cạnh tranh nói chung. Có 5 đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, là tính mềm dẻo. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh là luật điều
tiết thị trường nên nó phải được thiết kế hết sức mềm dẻo để thích ứng với sự biến động
của thị trường. Tính mềm dẻo này địi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật
phải hết sức linh hoạt, tránh cứng nhắc, dập khuôn.
Thứ hai, là luật hình thành nhiều từ án lệ. Ở các nước theo hệ thống Anh-Mỹ thì án
lệ là nguồn chủ yếu. Còn các nước theo hệ thống luật châu Âu lục địa thì án lệ cũng đóng
vai trị hết sức quan trọng. Bởi lẽ các văn bản pháp luật cạnh tranh thường rất chung
chung, chủ yếu dừng lại ở những vấn đề có tính chất ngun tắc. Vì vậy, các án lệ của
Toà án quốc gia, các quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh ... là những nguồn bổ
sung (cho luật thành văn) hết sức quan trọng.
Thứ ba, là tính nửa pháp lý, nửa kinh tế. Hơn bất kỳ ngành luật nào, pháp luật cạnh
tranh có nhiệm vụ chính là điều tiết thị trường, điều tiết kinh tế. Do đó, phân tích kinh tế
là thao tác khơng thể thiếu khi áp dụng các quy phạm của pháp luật cạnh tranh nói chung
và pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh nói riêng vào các trường hợp cụ thể.
Thứ tư, là tính xuyên suốt. Luật cạnh tranh phá vỡ biên giới giữa luật cơng và luật
tư, nó là sự sâu chuỗi của hầu hết các ngành luật: dân sự, thương mại, hành chính, hình
sự... Chính sự “tràn bờ” này đã làm nên nét đặc trưng của luật cạnh tranh: luật cạnh tranh
khơng có chế tài riêng mà nó sử dụng chế tài của các ngành luật khác, bao gồm từ chế tài
dân sự (áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chủ yếu là bồi thường
thiệt hại, buộc chấm dứt hành vi vi phạm), chế tài hành chính (áp dụng đối với các hành
vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh tế, chủ yếu là

phạt tiền), đến chế tài hình sự (áp dụng đối với các hành vi vi phạm luật cạnh tranh đã hội
đủ yếu tố cấu thành tội phạm).
Thứ năm, là tính xuyên quốc gia (tính toàn cầu). Các quy phạm của pháp luật cạnh
tranh đã đạt đến một trình độ tồn cầu hóa cao độ. Mỗi quốc gia tùy trình độ phát triển
kinh tế xã hội của mình mà có cách vận dụng cụ thể cho phù hợp.
1.2.2.2 Vai trò
12


Pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh có vai trị vơ cùng quan trọng trong
Pháp luật cạnh tranh nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung : bảo vệ quyền
tự do hoạt động kinh tế của mọi thành viên hoạt động trên thị trường và bảo vệ hoạt động
cạnh tranh lành mạnh. Nó điều chỉnh, giải quyết hai cặp quan hệ hoạt động đối lập: lành
mạnh – không lành mạnh; được phép – không được phép. Công cụ Pháp lý được sử dụng
chủ yếu trong Luật chống cạnh tranh không lành mạnh là Luật tư. Cụ thể:
-

Tạo lập mơi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng, tự do

Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện và bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là các
quy định về tự do kinh doanh và quyền được tồn tại bình đẳng của các doanh nghiệp. Chỉ
khi nào được tự do gia nhập thị trường, tự do giao kết và bảo đảm quyền sở hữu thì lúc đó
các chủ thể tham gia thị trường mới có đủ năng lực để quyết định phương thức kinh
doanh. Lúc đó, cạnh tranh mới có đất để tồn tại và phát huy tác dụng.
Với tư cách là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị trường, pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Vai trò bảo vệ thị trường lành mạnh của pháp luật được thực
hiện theo cơ chế sau đây:
Trong thị trường tự do và lành mạnh, các doanh nghiệp tự quyết định việc cung
cấp hàng hố và dịch vụ mà khơng chịu bất cứ sự chi phối nào từ phía Nhà nước và các

doanh nghiệp khác. Người tiêu dùng mua những hàng hoá mà họ cần. Thị trường đưa các
doanh nghiệp và người tiêu dùng đến với nhau. Cơ chế thị trường trong đó giá cả thay đổi
theo sự vận động của cung cầu quyết định hành vi của các doanh nghiệp và nhu cầu của
người tiêu dùng.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp gia nhập thị trường theo ý muốn, tồn tại
bằng việc tạo ra lợi nhuận, và phải cạnh tranh nhau. Kết quả là, trong khi khi một vài
doanh nghiệp thành cơng thì sẽ có những doanh nghiệp phải gánh chịu tổn thất, thậm chí
là phải rời bỏ thị trường. Đây là quy tắc tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp và
được tuân thủ theo các nguyên tắc của thị trường. Tuy nhiên, thực tế thị trường luôn nảy
sinh những biểu hiện tiêu cực từ cạnh tranh. Do những thơi thúc từ nhu cầu tìm kiếm lợi
nhuận, bằng những toan tính khơng phù hợp với truyền thống kinh doanh lành mạnh,
những biểu hiện tiêu cực đó đã xâm hại trật tự kinh doanh, đe dọa hoặc xâm hại trực tiếp
đến lợi ích của đối thủ cạnh tranh hoặc của người tiêu dùng. Các hành vi hạn chế cạnh
tranh trực tiếp xâm hại trật tự kinh tế, hủy hoại cạnh tranh và xâm phạm quyền tự do kinh
doanh lành mạnh của các doanh nghiệp khác. Sự hỗn loạn của thị trường từ những hành
vi bất chính trong cạnh tranh buộc pháp luật và Nhà nước vào cuộc để sắp xếp lại trật tự
thị trường cho phù hợp với những nguyên tắc vốn có của nó. Sự can thiệp của Nhà nước
bằng việc điều tiết cạnh tranh tạo ra chính sách cạnh tranh, thông qua việc xây dựng pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Pháp luật đảm bảo loại trừ những hành vi phản
cạnh tranh trong việc đua tranh giành lợi nhuận trên thị trường. Từ đó, bảo vệ quyền tự do
kinh doanh của các thành viên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành
mạnh của quan hệ thị trường.
13


-

Bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp

Việc các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không

lành mạnh thường gây ra sự hiểu lầm là luật cạnh tranh chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng,
cho người tiêu dùng mà khơng đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xoá
bỏ mọi kiềm chế không phù hợp đối với hoạt động kinh doanh, pháp luật chống cạnh
tranh khơng lành mạnh có mục đích đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
tự do trên một thị trường tự do. Với mục đích bất chính và với những thủ pháp khơng
đàng hồng, tất cả các hành vi bất chính trong cạnh tranh đều là những biến tướng của
cạnh tranh, lợi dụng tự do để xâm hại đến trật tự cạnh tranh trên thị trường. Lúc này, cần
có sự hiện diện của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh để lập lại trật tự thị
trường, giải phóng các doanh nghiệp khác ra khỏi sự kiềm tỏa của những biểu hiện không
lành mạnh.
Mặt khác, với tư cách là nội dung quan trọng trong chính sách cạnh tranh, pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh ngăn chặn các doanh nghiệp thu lợi nhuận bằng
việc thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nâng cao nhận thức của xã hội về
truyền thống kinh doanh buôn có bạn, bán có phường, khích lệ sự năng động, tự chủ, bảo
vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp.
-

Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng

Trên thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng của các doanh nghiệp
cùng nhau giải quyết ba vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như
thế nào? Giống như việc bỏ phiếu của cử tri trong các cuộc bầu cử, hành vi lựa chọn hàng
hố và dịch vụ có chất lượng, phù hợp với nhu cầu và túi tiền của người tiêu dùng là
những hướng dẫn quan trọng liên quan đến hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Quyền bỏ phiếu và lựa chọn được gọi là quyền tối cao, quyết định vị trí trung tâm của
người tiêu dùng trên thị trường mà bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại đều phải cung
phụng.
Để có thể tồn tại, các doanh nghiệp ln tìm mọi phương cách và mọi thủ đoạn để
lôi kéo khách hàng mua sản phẩm của mình. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, hành vi
của doanh nghiệp còn là sự xâm phạm, bóc lột khách hàng, thể hiện qua những nội dung

sau đây:
Trong quan hệ giữa nhà sản xuất hoặc cung ứng sản phẩm và người tiêu dùng, thì
người tiêu dùng ln ở vị trí bất lợi. Tuy là mục tiêu hướng đến của quan hệ thị trường, là
định hướng cơ bản cho hoạt động sản xuất và cung ứng của doanh nghiệp, nhu cầu của
người tiêu dùng bị khống chế bởi khả năng đáp ứng và chịu sự kiểm soát từ các doanh
nghiệp. Các nhà sản xuất và phân phối thường hiểu biết về hàng hoá và dịch vụ của họ
hơn người tiêu dùng. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hàng hoá và dịch vụ
ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho xã hội hiện đại. Có những
trường hợp, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng mà các doanh nghiệp đã cung
cấp các hàng hoá kém chất lượng. Khi phát hiện, người tiêu dùng không thể khiếu nại hay
14


kiện tụng vì giao dịch đã hình thành hồn tồn tự nguyện. Dưới góc độ pháp luật, các giao
dịch giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp là kết quả của những thỏa thuận tự nguyện.
Người tiêu dùng được quyền tự do lựa chọn hàng hoá, lựa chọn, thiết lập giao dịch với
người cung cấp. Những thoả thuận đã hình thành và có hiệu lực thi hành làm cho người
mua phải tự hài lịng với những gì mình đã lựa chọn. Có nhiều trường hợp việc thiếu
những thơng tin về hàng hoá, sự thuyết phục từ những nhà cung cấp và những thủ đoạn
gian dối, che lấp những khiếm khuyết trong việc cung ứng và trong tính năng, kết cấu của
sản phẩm đã dẫn đến việc hình thành thỏa thuận. Việc giao dịch của người tiêu dùng với
doanh nghiệp về hình thức được hình thành theo sự lựa chọn và tự nguyện của người tiêu
dùng. Vì thế, nguyên tắc trung thực trong khế ước của dân luật dường như chỉ còn mang
tính hình thức mà khơng thể dùng làm căn cứ pháp lý bảo vệ quyền lợi của người đã bị
lừa gạt. Lúc này, sự trung thực trong cạnh tranh với những thiết chế cấm đoán của pháp
luật cạnh tranh nhằm bảo vệ sự trung thực của thị trường và lợi ích của người tiêu dùng.
Cạnh tranh vốn là sự ganh đua để lấy lòng khách hàng. Những hạn chế từ khả năng
nhận biết tính trung thực của hành vi kinh doanh, sự phát triển không ngừng của tư duy
sáng tạo trong thủ pháp kinh doanh làm cho người tiêu dùng từ vị trí trung tâm của thị
trường bị lừa gạt bằng các khẩu hiệu hoặc thủ đoạn tinh vi. Các hành vi đó ngày càng đa

dạng từ những trưng bày, quảng cáo sai sự thật cho đến những lời hứa thưởng gian dối…
Những hành vi bất chính này ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng và xâm hại
đến lợi ích của những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Khi cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bị triệt tiêu bằng những thủ đoạn khơng lành
mạnh hoặc bằng sự tích tụ, tập trung tất yếu của thị trường, dường như quyền lựa chọn
của người tiêu dùng - quyền tối cao trên thị trường đã bị xâm phạm. Họ khơng cịn khả
năng lựa chọn vì chỉ có một loại sản phẩm do một hoặc một nhóm doanh nghiệp cung
cấp. Lúc này, quyền được đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, lợi ích chung của xã hội
sẽ bị hạn chế, bị xâm phạm nghiêm trọng và những lợi ích xã hội sẽ trở thành siêu lợi
nhuận cho doanh nghiệp độc quyền.
Từ đó, một trong những vai trị của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là
bảo vệ người tiêu dùng. Vai trò này được thể hiện qua các nội dung như bảo vệ người tiêu
dùng trước những hợp đồng không trung thực và không công bằng theo hướng phải sửa
đổi lại các điều khoản không công bằng; đặt ra các quy định trong việc đảm bảo thông tin
về sản phẩm, kiểm soát hoạt động quảng cáo, khuyến mãi và ngăn cấm các biểu hiện bất
chính trong các lĩnh vực này; quy định trách nhiệm đối với những vi phạm có thể đe dọa
đến quyền lợi của người tiêu dùng.
-

Thúc đẩy tiến trình tồn cầu hố diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả

Q trình tồn cầu hóa kinh tế với sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế thúc
đẩy sự hình thành nên nhiều vùng thị trường khu vực và thế giới rộng lớn thơng qua việc
xóa bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan. Quan hệ thương mại quốc tế được biểu
hiện thông qua sự dịch chuyển các nguồn đầu tư tư bản và các giá trị thương mại dưới
hình thức hàng hố hoặc dịch vụ giữa thị trường của các nước với nhau dựa trên quy chế
15


tối huệ quốc (MFN) và quy chế đãi ngộ quốc gia (NT). Hai quy chế này đảm bảo cho

nguyên tắc tự do và bình đẳng thực sự phát huy được hiệu quả trong thương mại quốc tế
cũng như bảo đảm cho hàng hố được lưu thơng một cách tự do trên tinh thần không phân
biệt đối xử. Một khi sự tự do được đề cao như là nguyên lý bất khả xâm phạm với sự giục
giã của quy luật giá trị và bản tính của con người sẽ xuất hiện những hành vi cạnh tranh tự
phát có thiên hướng thái quá, cực đoan trong thương mại quốc tế – đây chính là mặt trái
của tự do hóa thương mại. Ngun tắc cạnh tranh lúc này không chỉ thể hiện ở sự ganh
đua giữa các nhà sản xuất hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ, mà còn thể hiện ở sự đối đầu
giữa hai thị trường, hai khu vực kinh tế. Trong quan hệ thương mại quốc tế, những thế lực
kinh tế quốc tế hay dùng thủ đoạn lạm dụng thế mạnh tài chính để chiếm đoạt và thao
túng thị trường của những nước đang phát triển, những nước có trình độ phát triển thấp
hơn, bằng hai thủ đoạn phổ biến sau đây:
Thứ nhất, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia với tiềm lực tài chính khổng lồ, đã và
đang dùng sức mạnh tài chính đó chiếm đoạt dần thị trường ở các nước mà họ đầu tư.
Thứ hai, hiện tượng cướp đoạt vốn liên doanh đang diễn ra phổ biến ở thị trường
của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh của tồn cầu hố kinh tế, sự dịch chuyển
vốn đầu tư qua lại giữa các thị trường là một trong những nội dung cơ bản của chính sách
hội nhập mà các nước, khơng phân biệt trình độ phát triển, đang theo đuổi. Trong quan hệ
về đầu tư vốn, sự liên kết giữa vốn đầu tư từ nước ngoài và các nguồn vốn nội địa là tất
yếu, là hình thức quan trọng của hoạt động đầu tư quốc tế. Bên cạnh những tác động tích
cực của xu thế đầu tư quốc tế đối với quá trình xây dựng những khu vực thị trường chung,
xuất hiện những biểu hiện tiêu cực: liên kết vốn rồi sau đó dùng vốn liên doanh để đầu tư
tìm kiếm, mở rộng thị trường. Trong thời gian mở rộng thị trường có hiện tượng báo lỗ
đến khi bên liên doanh nội địa không thể kham nổi lỗ vì khả năng tài chính có hạn, dẫn
đến việc bên nước ngồi thâu tóm tồn bộ vốn liên doanh bằng cách mua lại phần giá trị
vốn của bên liên doanh nội địa. Các vụ việc liên quan đến các liên doanh ở Việt Nam
chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi là những thí dụ về biểu hiện tiêu cực
trong đầu tư quốc tế.
Trong bối cảnh đó, với tư cách là công cụ pháp lý được sử dụng để loại bỏ các biểu
hiện không lành mạnh trên thị trường quốc gia, pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ sự lành mạnh và khả năng phát triển tự thân

của nền kinh tế nội địa, thúc đẩy tiến trình tồn cầu hố diễn ra nhanh chóng, hiệu quả
trên tinh thần phát triển lợi thế so sánh của từng thị trường thành viên.
1.2.3.

Xu hướng phát triển của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trên
thế giới

1.2.3.1 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Âu
Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, và
cũng là nơi phát sinh các cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng pháp luật về
cạnh tranh. Ba trung tâm kinh tế lớn của Châu Âu là Pháp, Đức và Anh có những cách
16


điều chỉnh cạnh tranh khơng lành mạnh riêng, trong đó hệ thống của Pháp lại có nhiều
điểm gần với Anh hơn là Đức.
Pháp và Anh đều điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên cơ sở các
nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law) và cụ thể
hố thơng qua các án lệ. Một số nước khác cũng xây dựng pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh theo hướng này là Hà Lan và Italia. Tại các quốc gia này, toà án có vai trị rất
lớn trong việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh và quyết định biện pháp xử
lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai hệ thống Dân luật và Thông luật trong
cách thức áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực này. Trong hệ thống của Pháp, phạm vi áp
dụng tort law đối với hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh tương đối rộng, Tồ án có
thẩm quyền xem xét và phán quyết nhiều hành vi cạnh tranh khác nhau, từ đó hình thành
các án lệ đa dạng về các hành vi gây cản trở hoạt động cạnh tranh và các hành vi lợi dụng
thành quả của đối thủ cạnh tranh. Trong các vụ việc tại toà án, bên nguyên đơn cần chứng
minh sự tồn tại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại; và bên bị đơn có trách nhiệm bồi thường thiệt

hại mà khơng cần xét đến yếu tố lỗi (cố ý) đối với hành vi vi phạm. Hà Lan cũng áp dụng
mơ hình này, tuy nhiên với nguyên tắc “doanh nghiệp được thực hiện mọi hoạt động cạnh
tranh không bị cấm bởi quy định pháp luật” kết hợp với nguyên tắc ưu tiên, việc sử dụng
các điều khoản chung của pháp luật dân sự để xử lý vụ việc cạnh tranh bị hạn chế hơn.
Trong khi đó, hệ thống Thơng luật của Anh chỉ thừa nhận việc áp dụng tort law về
cạnh tranh không lành mạnh đối với một số dạng hành vi cụ thể như gây nhầm lẫn, mạo
nhận về nhãn hiệu (passing off) và xâm phạm bí mật kinh doanh. Do đó, để được toà án
giải quyết, các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất
định, và các thẩm phán có thể từ chối thụ lý nếu vụ việc liên quan đến các hành vi thị
trường nằm ngoài phạm vi các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh nêu trên.
Bên cạnh đó, một số nước đã lựa chọn cách tiếp cận sử dụng luật chuyên ngành
(lex specialis) để điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Một số nước như Đức,
Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ, Luxemburg đã có một đạo luật
riêng về cạnh tranh không lành mạnh, một số nước khác như Hungary, Bulgary hay
Rumani xây dựng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong một đạo luật về
thương mại hay cạnh tranh. Tuỳ thuộc vào quan điểm điều tiết nền kinh tế thị trường của
từng quốc gia tại từng thời kỳ nhất định, danh sách các hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh bị cấm có thể nhiều hay ít. Cách tiếp cận này một mặt khiến cho các quy định về
cạnh tranh không lành mạnh rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng mặt khác khiến cho quá trình
thực thi trở nên cứng nhắc và gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong việc điều chỉnh các
hành vi cạnh tranh mới xuất hiện, hay có sự thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ,
nhiều nước tại Châu Âu trong một thời gian dài đã coi việc một doanh nghiệp tìm kiếm và
thu hút các khách hàng đã có quan hệ hợp đồng ổn định với doanh nghiệp cạnh tranh khác
là một dạng thức cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên rõ ràng trong điều kiện nền kinh
17


tế thị trường tự do, quy định như vậy là không hợp lý, một mặt không đảm bảo quyền tự
do lựa chọn cho khách hàng, mặt khác không tạo động lực khuyến khích các doanh
nghiệp có động lực phát triển. Việc sửa đổi, bổ sung danh sách các hành vi cạnh tranh

khơng lành mạnh đã được luật hố địi hỏi phải có những nỗ lực lập pháp với thủ tục
khơng dễ dàng, nhiều khi không đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng và linh hoạt của
cơ chế thị trường.
Trong nhiều năm gần đây, đã có những nỗ lực để thống nhất các quy định về cạnh
tranh không lành mạnh giữa các nước thành viên EU trong khuôn khổ chương trình hài
hồ hố pháp luật chung (legal harmonisation) của Cộng đồng Châu Âu. Dựa trên Công
ước Paris về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp, các quốc gia Châu Âu đã phát triển các quy
định chung theo nhiều hình thức, cấp độ, từ các nguyên tắc cơ bản về cạnh tranh tại Hiệp
ước Rome 1957 đến những thoả thuận nhóm như Luật Nhãn hiệu chung của khối Benelux
1971 và những hướng dẫn chung từ EC đến các nước thành viên như Chỉ thị số
2005/29/EC. Mặc dù vậy, tính đến sự khác biệt còn tồn tại giữa hệ thống pháp luật của
các quốc gia thành viên, EU vẫn phải bổ sung một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên tắc nước xuất xứ tại Điều 28 của Hiệp ước
Châu Âu, theo đó pháp luật của quốc gia nhập khẩu được ưu tiên áp dụng để đánh giá tính
hợp pháp trong việc kinh doanh một loại hàng hoá nhất định. EC cũng đã ban hành Quy
định số 2006/2004 ngày 27/10/2004 về việc hợp tác giữa các cơ quan chịu trách nhiệm
thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia thành viên.
1.2.3.2 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ
Mặc dù đã phát triển hệ thống các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu (Luật
Sherman – 1890), các quy định về cạnh tranh không lành mạnh của Hoa Kỳ lại tương đối
phân tán. Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ kết hợp cả hai cách tiếp cận của Châu Âu trong
việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng các các quy định chung về
bồi thường thiệt hại dân sự cũng như một số quy định chun ngành, và thậm chí có sự
khác biệt giữa pháp luật liên bang và pháp luật các tiểu bang. Các quy định cạnh tranh
quan trọng nhất có thể kể đến là Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang (1914) và Luật
Nhãn hiệu liên bang, hay còn gọi là Luật Lanham (1946).
Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang đặt cơ sở cho việc thành lập Uỷ ban Thương
mại liên bang Hoa Kỳ (US FTC), một trong hai cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp
luật cạnh tranh ở Mỹ. Khác với cơ quan cạnh tranh còn lại là Cục Chống độc quyền thuộc
Bộ Tư pháp chuyên trách về hạn chế cạnh tranh theo Luật Chống độc quyền, chức năng

của Uỷ ban Thương mại Liên bang rộng hơn, bên cạnh chức năng điều tra và giám sát các
vụ việc chống độc quyền, còn bao gồm việc xử lý “các cách thức cạnh tranh không lành
mạnh ảnh hưởng đến thương mại, và các hành vi không lành mạnh hoặc gian dối ảnh
hưởng đến thương mại”(Điều 5 Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ). Khái
niệm “cách thức cạnh tranh không lành mạnh”(unfair methods of competition) đã gây
nhiều tranh luận giữa các nhà lập pháp ở cả hai Viện của Quốc hội Hoa Kỳ, và sau đó
được thay thế bằng khái niệm “cạnh tranh khơng lành mạnh” (với phạm vi bao gồm cả
các hành vi hạn chế cạnh tranh). Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ (USFTC) đã có
18


những giải thích rõ hơn về phạm vi các hành vi “không lành mạnh” và “gian dối” trong
các văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền của mình. Trong bản Tuyên bố chính sách về
hành vi khơng lành mạnh, cơ quan này nêu rõ: “Luật thành văn chỉ định khung cho các
điều khoản chung do Quốc hội nhận thấy rằng không thể soạn ra một danh sách các hành
vi không lành mạnh mà khơng bị lạc hậu một cách nhanh chóng hoặc tạo ra những kẽ hở
cho vi phạm. Nhiệm vụ xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc về Uỷ
ban, với hy vọng các tiêu chí đánh giá sẽ được xem xét và phát triển theo thời gian” .
Căn cứ trên các án lệ tại toà án, đến năm 1964 Uỷ ban đã hình thành 3 tiêu chí để
đánh giá hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, đó là: gây thiệt hại cho người tiêu dùng, vi
phạm các chính sách xã hội hiện hành; vơ đạo đức và khơng cẩn trọng.
Khi có vi phạm xảy ra, Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang cho phép cơ quan
này nhân danh lợi ích cơng tổ chức phiên điều trần với sự có mặt của bên vi phạm để làm
rõ hành vi, và dựa trên kết quả phiên điều trần ra quyết định buộc đình chỉ và chấm dứt
đối với hành vi bị xem là không lành mạnh. Trong trường hợp quyết định có hiệu lực
(khơng có kháng cáo hoặc kháng cáo khơng được Tồ Phúc thẩm hoặc Tồ Tối cao chấp
thuận), nếu bên bị đơn tiếp tục vi phạm, Uỷ ban có thể đưa vụ việc ra Tồ án và yêu cầu
phạt dân sự mỗi hành vi vi phạm tới 10.000 USD, trong trường hợp vi phạm kéo dài thì
mỗi ngày vi phạm bị tính là một hành vi riêng rẽ (Điều 5 khoản l). Riêng đối với quảng
cáo gian dối, Uỷ ban có thể khởi kiện trực tiếp ra tồ án địa phương có thẩm quyền, u

cầu bồi thường thiệt hại và cải chính cơng khai. Trong trường hợp quảng cáo gian dối gây
ra thiệt hại về sức khoẻ, bên vi phạm sẽ bị phạt tiền tới 5.000 USD hoặc phạt tù tới 6
tháng hoặc chịu cả hai hình phạt, vi phạm tới lần thứ hai mức phạt là 10.000 USD và phạt
tù tới 1 năm.
1.2.3.3. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Á
Pháp luật cạnh tranh các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực như Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan có những nét tương đồng và chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật
Hoa Kỳ. Điểm đặc biệt trong pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của các quốc
gia, vùng lãnh thổ này là sự tồn tại song song hai hệ thống quy định về cạnh tranh không
lành mạnh, một hệ thống gắn liền với pháp luật về sở hữu trí tuệ, một hệ thống nằm trong
khn khổ pháp luật cạnh tranh.
Tại Nhật Bản, bên cạnh Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh năm 1993 (được
sửa đổi, bổ sung lần cuối tháng 6/2005) quy định về các hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn,
xâm phạm bí mật kinh doanh, quảng cáo gian dối, gièm pha doanh nghiệp khác, xâm
phạm tên miền…căn cứ theo các quy định của Công ước Paris, TRIPS hay Hiệp ước về
Luật Nhãn hiệu (1994), Uỷ ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản từ năm 1982 cũng căn
cứ vào các điều 19, 20 của Luật Chống độc quyền (1946) ban hành Quy định về các hành
vi thương mại khơng lành mạnh trong đó ngăn cấm một loạt các hành vi mang tính chất
hạn chế cạnh tranh ở mức độ thấp như phân biệt đối xử, từ chối giao dịch, bán kèm hàng
hoá, giao dịch loại trừ, mua hàng với giá thấp bất hợp lý, bán hàng với giá cao bất hợp lý,
lạm dụng vị thế giao dịch và can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp khác.
19


Hàn Quốc cũng có Luật Chống cạnh tranh khơng lành mạnh và bảo vệ bí mật
thương mại từ năm 1961 (được sửa đổi, bổ sung lần cuối vào tháng 2/2001), tuy nhiên
trong Chương V của Luật Điều chỉnh độc quyền và thương mại lành mạnh 1980 (được
sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2004) có quy định một loạt các hành vi thương mại không
lành mạnh bao gồm từ chỗ giao dịch, phân biệt đối xử, loại trừ đối thủ cạnh tranh, dụ dỗ
khách hàng của doanh nghiệp khác, lạm dụng vị thế trong giao dịch, giao dịch với điều

khoản hạn chế hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của đối tác, giao dịch với điều khoản ưu
đãi bất hợp lý và các hành vi khác đe doạ đến hoạt động thương mại lành mạnh.
Có thể thấy các nước nêu trên đã có sự tham khảo và kế thừa nhiều hệ thống pháp
luật để xây dựng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, phản ánh tại nhiều văn bản
điều chỉnh khác nhau với những cách tiếp cận khác nhau. Mặt khác, cũng cần thấy rằng
các quốc gia này đã có sự vận dụng quy định nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
của mình, và có ý thức sử dụng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh như là “điều
khoản quét” để khắc phục hoặc hạn chế sự vận hành sai lệch của thể chế thị trường tại
mỗi quốc gia. Có thể lấy ví dụ các hành vi mua với giá cao bất hợp lý và bán với giá cao
bất hợp lý tại Điều 6 và Điều 7 Quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh của
Nhật Bản hay hành vi trợ giúp người khác với lợi ích đặc biệt, hoặc công ty khác bằng các
khoản ứng trước, cho vay, nhân công, bất động sản, cổ phiếu và trái phiếu, tài sản trí tuệ,
hoặc giao dịch với những điều khoản ưu đãi đáng kể … tại khoản 7 Điều 23 Luật Điều
chỉnh độc quyền và thương mại lành mạnh Hàn Quốc chính là quy định nhằm chống lại
các biện pháp giao dịch nội bộ, bao cấp và trợ giá chéo giữa các bộ phận thuộc cùng một
tập đồn kinh tế có thể gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh chung của nền kinh tế.
1.2.3.4 Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi
Đối với các quốc gia chuyển đổi từ hệ thống tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường, q trình xây dựng pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh có những đặc
thù riêng nhằm đảm bảo các đối tượng liên quan, bao gồm cả doanh nghiệp và các cơ
quan quản lý có điều kiện làm quen và thích ứng với các hoạt động thị trường trong mơi
trường mới. Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh cũng phản ánh sự vận động lập
pháp chung tại các quốc gia này.
Tại Nga và Đông Âu, cùng với quá trình thay đổi thể chế kinh tế xã hội nhanh
chóng và triệt để, các đạo luật chống cạnh tranh không lành mạnh cũng được ban hành
với đầy đủ các bộ phận theo tiêu chuẩn của OECD, các nhà lập pháp coi pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh là một nhân tố cơ bản để thúc đẩy tiến trình cải cách kinh tế
. Điều 10 Luật về Cạnh tranh và hạn chế hành vi độc quyền trên thị trường hàng hoá năm
1991 (sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2005) quy định cấm các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh bao gồm việc thông tin gian dối, sai lệch hoặc bóp méo có thể gây thiệt hại

hoặc mất uy tín cho doanh nghiệp khác, các hành vi gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng,
các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ hoặc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp
khác…

20


×