Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THU HÀ

QUYỀN AN TỬ
VÀ VẤN ĐỀ HỢP PHÁP HÓA AN TỬ Ở VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH- 2015 - L

HÀ NỘI – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THU HÀ

QUYỀN AN TỬ
VÀ VẤN ĐỀ HỢP PHÁP HÓA AN TỬ Ở VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH - 2015 - L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thùy Dương


HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo chính xác, tin cậy và
trung thực.Tơi đã hồn thành các mơn học và thanh tốn đủ các nghĩa vụ tài
chính theo quy định Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo
vệ Khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng Thu Hà

i


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS

Bộ luật Hình sự

HRC


Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc

HIV/AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

LNQQT

Luật nhân quyền quốc tế

TCN

Trước công nguyên

UDHR

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người

ii


DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ

STT

Hình,
Biểu đồ


Nội dung

Trang

1

Hình 2.1

Bản đồ các quốc gia/vùng lãnh thổ đã hợp
pháp hóa an tử và trợ tử tính đến 2014

30

2

Biểu đồ 2.1

Số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử ở
Hà Lan (2006-2013)

32

3

Biểu đồ 2.2

Số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử tại
Bỉ (2002-2011)

34


4

Biểu đồ 2.3

Số lượng các trường hợp tử ở Oregon (19982018)

36

5

Biểu đồ 2.4

Số lượng các trường hợp trợ tử ở Washington
(2009 - 2017)

37

6

Biểu đồ 2.5

Số lượng các trường hợp trợ tử ở Thụy Sĩ
(1995-2010)

38

iii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................... ii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ ..................................................................... iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2.Tình hình nghiên cứu ..................................................................................... 2
3.Mục đích, phạm vi nghiên cứu....................................................................... 3
4.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................. 3
5.Kết cấu bài khóa luận ..................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ AN TỬ ....................................... 4
1.1.Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quyền an tử ........................ 4
1.2.Một số khái niệm cơ bản ............................................................................. 9
1.2.1.An tử................................................................................................... 9
1.2.2.Quyền an tử ...................................................................................... 13
1.3.Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử ....................................................... 14
1.3.1.Đặc điểm .......................................................................................... 14
1.3.2.Ý nghĩa ............................................................................................. 17
1.4.Một số quan điểm về hợp pháp hóa quyền an tử ...................................... 18
1.4.1.Những lập luận phản đối quyền an tử .............................................. 18
1.4.2.Những lập luận ủng hộ quyền an tử ................................................. 22
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN AN TỬ TRÊN THẾ GIỚI ...... 25
2.1.Pháp luật nhân quyền quốc tế về quyền an tử ........................................... 25
2.2.Quy định pháp luật về quyền an tử của một số quốc gia .......................... 30
2.2.1.Các quốc gia đã hợp pháp hóa quyền an tử ..................................... 30
2.2.2.Một số vụ việc điển hình về quyền an tử trên thế giới .................... 39
CHƯƠNG 3: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ HỢP PHÁP
HÓA QUYỀN AN TỬ Ở VIỆT NAM ......................................................... 44
iv



3.1.Thực tiễn pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền an tử ......................... 44
3.1.1.Quyền an tử theo pháp luật Việt Nam ............................................. 44
3.1.2.Thực trạng yêu cầu về nhận thức, quy phạm hóa quyền an tử tại
Việt Nam......................................................................................................... 47
3.2.Các yêu cầu về hợp pháp hóa quyền an tử của Việt Nam hiện nay .......... 50
3.3.Các giải pháp liên quan đến quyền an tử ở Việt Nam .............................. 52
3.3.1.Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về Quyền an tử ...................... 52
3.3.2.Nhóm giải pháp về hoàn thiện quy chế pháp lý về Quyền an tử ..... 53
3.3.3.Đề xuất mơ hình khi luật hóa quyền an tử ....................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 62

v


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là
sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của tất cả các dân tộc
trên thế giới, là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của
nhân loại để bảo vệ, thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người.
Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (10/1945), quyền con người đã
được quy định trong rất nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, trở thành một hệ
thống tiêu chuẩn pháp lý tồn cầu được các quốc gia tơn trọng và thực hiện.
Trong đó quyền sống là quyền con người cơ bản đã được công nhận trong các
văn kiện cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế (Điều 3 Tuyên ngơn Tồn thế
giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948, điều 6 Cơng ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị (ICCPR)). Hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam

đã quy định cụ thể về quyền sống.Cụ thể, Điều 19 của Hiến pháp năm 2013
quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được luật pháp
bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.Quyền sống là quyền tự
nhiên cơ bản của con người được công nhận và bảo vệ, vậy được chết có được
xem là quyền hay không?
Trên thế giới hiện nay, an tử, quyền an tử là những vấn đề còn để mở, bao
hàm nhiều quan niệm khác nhau. Ở Việt Nam, an tử, quyền an tử là những
vấn đề mới mẻ cịn có sự nhầm lẫn trong quan niệm cũng như trong nhận thức
của nhiều người. Vấn đề này cũng chưa được quy định trong các Hiến pháp
cũng như pháp luật của Việt Nam (đặc biệt là Bộ luật dân sự), do đó cần được
quan tâm và tranh luận. Trong dự thảo xây dựng Bộ Luật dân sự đã có ý kiến
đề xuất về “quyền an tử”, nhưng có nhiều quan điểm khác nhau gây ra những
tranh cãi. Có những người vận động rất mạnh mẽ mong muốn pháp luật thừa
nhận quyền an tử, cho rằng những hành xử ấy là hợp luân lý. Số khác cho
rằng làm như thế chẳng những là bất hợp pháp mà còn trái luân lý và chắc
1


chắn gây tác hại sâu sắc cho y học. Quyền an tử vẫn chưa được công nhận và
thông qua tại Việt Nam do tính phức tạp của nó trên nhiều lĩnh vực: y học,
chính trị, xã hội,... Trên thực tế, trong bối cảnh Việt Nam là một nước có tỉ lệ
người chết vì bệnh ung thư thuộc top đầu thế giới, những mong muốn nhu cầu
về quyền an tử là có thật và số lượng ngày càng tăng; xét từ góc độ của những
bệnh nhân mắc bệnh nan y, việc đáp ứng nhu cầu đó cũng đảm bảo quyền
sống theo đúng nghĩa của con người. Ở góc độ khoa học pháp lý việc nghiên
cứu về quyền antử mang tính cấp thiết, góp phần quan trọng vào hoạt động
xây dựng nhà nước pháp quyền với một hệ thống quyền dân sự, quyền nhân
thân đầy đủ, hoàn thiện.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa trên, em quyết định lựa chọn đề tài “Quyền
an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt

nghiệp để nghiên cứu nhằm làm rõ bản chất của quyền an tử, đồng thời đề cập
đến một số vấn đề giữa pháp luật và thực tiễn để quyền an tử dần được hiểu và
tôn trọng như một quyền cơ bản của con người. Từ đó, đề xuất một số ý kiến
mong có thể góp phần hồn thiện khung pháp luật, chính sách về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu
Quyền an tử là một đề tài còn rất mới mẻ trong các nghiên cứu khoa học
pháp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, có rất ít tài liệu viết về vấn đề này. Bài viết
Bước đầu tìm hiểu vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay của tác giả
Trương Hồng Quang trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển xuất bản năm 2012 là tài liệu
trực tiếp đề cập đến vấn đề này. Ngoài ra, liên quan tới vấn đề quyền được
chết có Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Mai Chi – “Quyền an tử những vấn đề lý
luận và thực tiễn” năm 2014. Luận văn phân tích khá kỹ cả về lý luận lẫn
thực tiễn về quyền an tử, từ đó đưa ra các giải pháp hồn thiện khung pháp
luật về vấn đề này. Gần đây nhất có bài viết “Quyền an tử theo Luật Nhân
quyền Quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và gợi mở cho Việt Nam”của
PGS.TS.Vũ Công Giao và ThS. Nguyễn Minh Tâm trong cuốn Thực thi các
2


quyền hiến định trong Hiến pháp 2013cũng là cơng trình nghiên cứu khá sâu
sắc về quyền an tử. Tuy nhiên, cơng trình khơng tập trung vào việc phân tích
giải pháp cho vấn đề này.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới
và Việt Nam làm rõ bản chất của quyền an tử từ đó đề xuất những quan điểm,
giải pháp về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an tử nhằm hồn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào pháp luật quy định và thực
tiễn các vấn đề liên quan đến quyền an tử của một số quốc gia và Việt Nam

cũng như những quan điểm, lập luận về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an
tử. Tuy nhiên quyền an tử là một vấn đề lớn và phức tạp trên nhiều lĩnh vực,
trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, đề tài tập trung phân tích những vấn
đề cơ bản nhất
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề
đặt ra trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
5. Kết cấu bài khóa luận
Luận văn bao gồm các Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo và 03 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về vấn đề an tử
Chương 2: Pháp luật về quyền an tử trên thế giới
Chương 3: Pháp luật, thực tiễn và vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử ở
Việt Nam

3


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ AN TỬ
1.1.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triểncủa quyền an tử

Từ lâu, bất cứ ai làm nghề y cũng phải đọc “lời thề Hippocrates”. Trong
đó có điều: “Tơi sẽ khơng trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ u cầu
và cũng khơng tự mình gợi ý cho họ”.Ở La Mã và Hy Lạp cổ đại (thế kỷ V
đến thế kỷ I TCN), những người La Mã và Hy Lạp đã có xu hướng khoan
dung, ủng hộ an tử và không tuân theo “lời thề Hippocrates” một cách trung

thành.Nhiều người khơng có niềm tin xác định về giá trị vốn có của đời sống
con người và các bác sĩ ngoại giáo. Các bác sĩ có thể thực hiện việc giết người
vì mục đích nhân đạo (mercy killing), cả tự nguyện và khơng chủ ý.Trong
suốt thời cổ đại, có sự ủng hộ rộng rãi cho cái chết tự nguyện thay vì đau đớn
kéo dài, và các bác sĩ đã tuân thủ bằng cách thường xuyên đưa cho bệnh nhân
của họ những chất độc mà họ yêu cầu.
Thuật ngữ an tử (euthanasia) được Suetonius một nhà sử học La Mã sử
dụng lần đầu tiên trong cuốn De Vita Casesarum - Divus Augustus(Cuộc đời
các Ceasar – Con thần Augustus), tác giả đã mô tả cái chết của Augustus
Caesar rằng trong lúc ngài hỏi một số người mới đến từ thành phố về con gái
của Drusus, cô gái đang ốm, ngài đột ngột qua đời khi hôn Livia, thốt ra
những lời cuối cùng: “Hãy luôn nhớ đến cuộc hôn nhân của chúng ta, Livia,
và vĩnh biệt”rồi may mắn có một cái chết dễ dàng và đó là điều mà ngài ln
mong mỏi. Mỗi khi nghe rằng ai đó chết nhanh chóng và khơng đau đớn, ngài
luôn cầu nguyện rằng ngài và thân thể ngàicũng có thể có một cái chết êm ả
như thế, đó là khái niệm ngài quen dùng.[25]
Tuy nhiên, khoảng thời gian sau đó cho đến gần cuối thế kỷ XIX, an tử
bị phản đối bởi quan điểm của các tôn giáo lớn (Đạo Thiên chúa, Đạo Do Thái,
Đạo Phật) và bị pháp luật ở nhiều quốc gia cấm (đặc biệt là các quốc gia
theo thông luật). Từ thế kỉ XII đến XV, sự lớn mạnh của đạo Thiên Chúa đã
củng cố “lời thề Hippocrates” quan điểm phản đối cái chết êm ả. Vào thế kỉ
4


XVII, hệ thống pháp luật Common Law có những quy định trừng phạt
hoặckhông chấp nhận, cấm tự tử và an tử lan ra khắp cả các thuộc địa. Ví dụ các
nhà lập pháp của Providence Plantations vùng lãnh thổ sau này trở thành Rhode
Island, đã tuyên bố vào năm 1647 rằng tự tử tuyệt đối là hành vi trái tự nhiên
nhất và hội đồng lập pháp này tuyên rằng người nào thực hiện hành vi này, tự tử
chỉ vì chủ tâm ghét bỏ chính cuộc sống của mình hay niềm hạnh phúc của người

khác… thì đồ đạc và tài sản của họ sẽ do nhà vua định đoạt.[26]
Khơng có cuộc bàn luận nào về an tử thậm chí cịn là điều cấm kị ở các
nước châu Âu cho đến thế kỉ XVIII. Nhiều nhà văn đã tấn công vào các nhà
thờ để truyền bá về mọi khía cạnh đời sống, bao gồm cả về an tử và tự tử,
nhưng vấn đề này không gây được quan tâm nhiều và rộng khắp. Một cuộc
phản cơng mang tính chất tơn giáo đã diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII, bắt đầu
với cuộc Đại thức tỉnh vào khoảng giữa những năm 1700 đến cuộc Đại thức
lần thứ hai vào những năm đầu của thế kỷ XIX, những nhà truyền giáo đã
tăng cường lên án mạnh mẽ tự tử và an tử. Năm 1794, một đạo luật đã được
thơng qua nhằm giảm hình phạt của một người đã giết bệnh nhân mắc một
căn bệnh nan y. Sau đó, năm 1828, một văn bản pháp luật được ban hành tại
New York trong đó quy định rõ ràng an tử là hành vi trái pháp luật. Giữa năm
1857 và 1865, một Ủy ban ở New York do Dudley Field lãnh đạo đã soạn
thảo một dự luật hình sự cấm trợ giúp tự tử và đặc biệt là cung cấp cho người
khác bất kỳ vũ khí chết người hoặc ma túy độc hại nào, biết rằng người đó có
ý định sử dụng vũ khí hoặc ma túy như vậy để lấy mạng sống của chính mình.
Vào thời điểm Hiến pháp sửa đổi lần thứ mười bốn đã đượcthơng qua, an tử
và trợ tử đều là tội hình sự ở hầu hết các bang.Bộ luật hình sự đã được thông
qua tại Lãnh thổ Dakota vào năm 1877, tại New York năm 1881.
Bước sang thế kỉ XIX, các nhà khoa học đã có một bước tiến lớn trong
việc chiết suất được morphin và được sử dụng làm thuốc giảm đau trên diện
rộng. Samuel Williams, một giáo viên, đã có bài phát biểu đầu tiên ủng hộ
cho an tử tích cực, trong đó đề cập đến việc thuốc khơng chỉ được dùng để
5


làm giảm cơn đau mà cịn giải thốt bệnh nhân một cách có chủ định. Trong
suốt thế kỉ XIX, bài phát biểu đã nhận được sự chú ý nghiêm túc trên nhiều
tạp chí y khoa.Nhưng hầu hết các bác sĩ vẫn giữ quan điểm thuốc giảm đau có
thể dùng để giảm bớt sự đau đớn, không phải thúc đẩy cái chết.

Thế kỷ XX với sự phát triển của ngành y khoa, an tử đã có được những
bước tiến lớn. Về mặt pháp lý, năm 1976, California trở thành bang đầu tiên
của Mỹ thông qua luật cho phép người bị bệnh nan y quyền quyết định hủy bỏ
các điều trị y tế duy trì sự sống khi cái chết được tin rằng sắp xảy ra. Tính đến
năm 1977, đã có 8 bang của Mỹ gồm California, New Mexico, Arkansas,
Nevada, Idaho, Oregon, North Carolina, và Texas đã thông qua các điều luật
về quyền an tử.
Một vụ việc điển hình liên quan đến trợ tử đã từng diễn ra ở nước Mỹ.
Đó là trường hợp của Karen Ann Quinlan vào năm 1975. Người phụ nữ này
bị rơi vào tình trạng hơn mê sau khi bị tai nạn ô tô và được kết luận sẽ không
bao giờ phục hồi được ý thức. Các bác sĩ tin rằng cô sẽ chết nếu bị ngưng
dùng máy thở oxy. Cha mẹ của cơ trong hồn cảnh tuyệt vọng vì khơng muốn
con gái của mình kéo dài sự sống thực vật đầy đau khổ và thực sự khả năng
kinh tế của gia đình cũng có hạn nên đã đề nghị Tòa án cho phép rút ống thở.
Tuy nhiên Tòa án đã từ chối đề nghị này. Một cuộc chiến pháp lý đã diễn ra
ròng rã suốt một năm trời sau đó và Quinlan đã được dừng máy thở vào năm
1976. Nhưng có một điều là cơ vẫn sống thêm được đến 10 năm nữa, cho dù
không thể hiện bất kỳ dấu hiệu nào của sự phục hồi ý thức cũng như cuộc
sống và mất vào năm 1986 vì bệnh viêm phổi [13].
Từ sau vụ việc này đã mở rộng đường cho trợ tử thụ động, các Tòa án
của Mỹ đã thực thi nhiều phán quyết liên quan đến việc từ chối điều trị trong
những trường hợp nhất định. Một số cơ quan lập pháp của một số bang ở Mỹ
đã thừa nhận hoạt động trợ tử để giúp một người bệnh không phải kéo dài thời
gian đau khổ hay sống đời sống thực vật.
Có thể thấy, vấn đề trợ tử và an tử có thể trở thành mối quan tâm hàng
đầu về các phương diện xã hội, chính trị và luân lý ở Hoa Kỳ, Ý, Úc và có lẽ
6


những nơi khác nữa trong tương lai gần. Vấn đề bỗng nhiên được đưa vào

tiêu điểm chính trị, nhất là ở Hoa Kỳ: trước hết là do những việc làm của Jack
Kevorkian, một thời là nhà nghiên cứu bệnh lý học ở Michigan; trong những
năm qua ông đã dùng "máy tự tử" (suicide machine) do ông tự thiết kế để trợ
giúp ít nhất năm mươi người tự tử, mà những người này khơng phải là bệnh
nhân hấp hối; sau đó là do những nỗ lực ở rất nhiều tiểu bang, bằng một bước
ngoặt pháp lý ngoạn mục, đã làm thay đổi hoặc hủy bỏ những khoản trong
luật lệ đã được luật pháp quy định lâu đời hay luật chung có nội dung nghiêm
cấm hành vi tự tử có trợ giúp; hai Tòa phúc thẩm Liên bang vào năm 1996 đã
phán quyết rằng: người bị bệnh vô phương cứu chữa và một số người khác, có
quyền được trợ giúp để kết liễu mạng sống, và quyền này được hiến pháp bảo
vệ. Tuy cả hai phán quyết ấy đều bị Tòa Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ bác
bỏ vào tháng 6-1997, nhưng ý kiến của các quan tòa này sẽ được đưa ra trước
ngành lập pháp và công luận để tham khảo trong suốt nhiều năm sắp đến.
Vụ Compassion in Dying kiện Tiểu bang Washington của Tòa Lưu
Động Số 9 và vụ Quill kiện Vacco của Tòa Lưu Động Số 2 đều xảy ra vào đầu
mùa xuân năm 1996. Hai tòa phúc thẩm liên bang này đưa ra những quyết
định với những nội dung quan trọng, không những đối với việc xử trí y khoa
cho người hấp hối mà cịn cho người quá đau đớn hay bị bệnh gây suy
nhược.Cả hai tòa án đều cho là bất hợp hiến những nghiêm cấm của tiểu
bang đối với việc trợ giúp bệnh nhân tự tử. Ngồi ra, tịa cịn phán rằng các
cơng dân có những quyền lợi được hiến pháp bảo vệ gọi là "quyền tự do về sở
thích" trong việc chọn thời điểm và cách thức từ giã cõi đời
[10]. (Compassion in Dying là một tổ chức của các bác sĩ ủng hộ trợ tử. Năm
1996 họ đâm đơn kiện lên Tòa Án Liên Bang, cho rằng tiểu bang Washington
nghiêm cấm bác sĩ trợ giúp bệnh nhân tự tử là vi hiến (trái hiến pháp) và vi
phạm quyền của bệnh nhân vô phương cứu chữa. Trong vụ án kia, Timothy E.
Quill và một số bác sĩ hành nghề ở NewYork đứng nguyên đơn vào năm 1997
kiện Dennis C. Vacco, Chưởng lý NewYork. Các bác sĩ cho rằng “rất phù hợp
với nghề nghiệp bác sĩ” khi chỉ định thuốc kết liễu mạng sống cho “những
7



bệnh nhân vơ phương cứu chữa, khơng cịn khả năng trí não” và đang phải
đau đớn cùng cực, thế nhưng các bác sĩ bị cản trở việc này do luật của tiểu
bang NewYork cấm trợ giúp tự tử).
Hai Tòa án Liên bang đã đi một bước ngoặt pháp lý ngoạn mục. Trước
hết là Tòa Phúc Thẩm Lưu Động Số 9 (ngày 06-03-1996) mở tại San
Francisco. Tám trong mười một vị quan tịa, đồng tâm nhất trí, phán quyết
rằng: mỗi cá nhân có “quyền tự do về những sở thích” được hiến pháp bảo vệ
dựa trên bản Tu Chính Hiến Pháp Số 14, trong việc chọn thời điểm và cách
thức từ giã cõi đời. Một tháng sau, vào ngày 02-04-1996, Tòa Phúc Thẩm
Lưu Động Số 2, mở tại New York, cũng đi đến cùng một kết luận tương tự,
nhưng những lý do đưa ra có hơi khác. Dựa trên Mệnh Đề Được Bảo Vệ Như
Nhau của bản Tu Chính Hiến Pháp Số 14, tịa biện luận rằng khơng có sự
khác biệt giữa việc đình chỉ các hệ thống duy trì sự sống và việc cung cấp
thuốc để gây ra cái chết. Đây là quyết định chung của ba quan tòa. Tham
chiếu một cách đặc biệt đến sự kiện bệnh nhân lệ thuộc máy móc có quyền
quyết định giờ chết của mình, hai trong số ba quan tòa phát biểu rằng: bệnh
nhân vô phương cứu chữa “phải được tự do thực hiện việc ấy bằng cách yêu
cầu bác sĩ kết liễu mạng sống của mình trong những giai đoạn cuối của căn
bệnh vơ phương cứu chữa.” Tuy nhiên sau đó, cả hai phán quyết này đều bị
Tòa Án Tối Cao Hoa Kỳ thay đổi và vơ hiệu hóa, vào ngày 28-06-1997. Dù
các tòa án quyết định thế nào đi nữa, các luận cứ do Tòa Phúc Thẩm Lưu
Động Số Hai và Số Chín nêu ra, có lẽ sẽ ảnh hưởng đến các cuộc thảo luận về
an tử và trợ tử trong những năm sắp đến.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu
tiên hợp pháp hóa an tử; tiếp sau đó là Bỉ (năm 2002), Luxembourg (năm
2008); và ba bang của Mỹ gồm Washington (năm 2008), Montana (năm
2008), Vermont (năm 2013).
Hà Lan là đất nước đầu tiên hợp pháp hóa "cái chết nhân đạo" từ tháng

4/2002. Người muốn chết phải đang đối mặt với nỗi đau đớn dày vò và các
8


bác sĩ đều thất bại trong việc chữa trị. Họ phải hoàn toàn tỉnh táo khi ra quyết
định. Độ tuổi được chọn cái chết êm ái là trên 12. Chính phủ Hà Lan cho phép
thành lập các đội cứu trợ cung cấp "cái chết nhân đạo". Sáu đội chuyên biệt sẽ
di động đến nơi bệnh nhân yêu cầu được trợ tử nếu các bác sĩ khác từ chối
tiến hành việc này. Mỗi năm có khoảng 3.100 trường hợp được trợ tử ở nước
này [17].
Tháng 2/2008, nối gót Hà Lan và Bỉ, Luxembourg trở thành nước thứ
ba trong Liên minh châu Âu cho phép "cái chết êm ái". Điều luật này chỉ
được áp dụng đối với bệnh nan y khơng có biện pháp chữa trị.Tháng 3/2014,
Bỉ đã hợp pháp hóa an tử đối với trẻ em bị bệnh nan y và khơng thể cứu chữa
Tháng 2/2015, Tịa án Tối cao Canada đã bãi bỏ lệnh cấm tự sát có trợ
giúp của bác sĩ. Tháng 4/2015, Tòa án Nam Phi đã cho phép tự sát có trợ giúp
đối với những người bị bệnh nan y.
1.2.

Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. An tử

Thuật ngữ an tử hay euthanasia (trong tiếng Anh) bắt nguồn từ thuật
ngữ “euthanatos” trong tiếng Hy Lạp, có thểhiểu sát nghĩa là “cái chết êm ả”
hay “cái chết êm dịu”. Trong đó “eu” có nghĩa là “tốt” và “thanatos”là “chết”).
Nghĩa của từ này theo tiếng Hy Lạp là chấm dứt cuộc sống của ai đó một cách
ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp họ khỏi kéo dài cuộc sống trong
những điều kiện không mong muốn. Đến nay chưa có một định nghĩa cụ
thểthống nhất nào về khái niệm về an tử. Có thể hiểu, an tử là chấm dứt cuộc
sống của một người theo một cách ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp

họ khỏi kéo dài cuộc sống trong những điều kiện không mong muốn. Xuất
hiện đầu tiên trong lời thềHippocrates và sau đó bắt đầu xuất hiện rộng rãi
hơn vào thế kỷ XVII, nhằm khuyến khích các bác sĩ quan tâm đến sự đau đớn
của người bệnh và giúp đỡ người sắp chết thoát khỏi thế giới này một cách
nhẹ nhàng và dễ dàng hơn.
Theo Từ điển Merriam-Webster Online, an tử là “hành động hoặc thực
hành giết chết hoặc cho phép cái chết của những cá nhân (như con người
9


hoặc động vật nuôi) bị ốm hoặc chấn thương không cịn hy vọng [cứu chữa]
theo cách ít đau đớn nhất vì lý do nhân từ/nhân đạo”. Một tài liệu khác định
nghĩa: “an tử là sự giết chết có chủ ý một người lệ thuộc (a dependent human
being) bởi hành động hoặc khơng hành động vì lợi ích được viện ra của người
đó” [5].
The British House of Lords Select Committee on Medical Ethics (Ủy
ban đặc biệt của Thượng Nghị viện Anh về Đạo đức y học) định nghĩa về an
tử là "một sự can thiệp cố ý được thực hiện với ý định rõ ràng về sự kết thúc
một cuộc sống, để xoa dịu sự đau đớn khó chữa"[18]
Như vậy, có thể hiểu “an tử” là việc chủ ý chấm dứt cuộc sống của một
người mà thường là những bệnh nhân khơng cịn khả năng cứu chữa theo cách
ít hoặc khơng đau đớn vì những lợi ích của người đó. Theo những phân tích
trên, với những mục đích tốt đẹp của an tử thì nên gọi là “cái chết nhân đạo”
thay vì gọi “cái chết êm ả”.
An tử bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, Tính chủ ý chấm dứt cuộc sống
Đây là nội dung quan trọng nhất của quyền an tử. Việc chấm dứt cuộc
sống phải là ý chí chủ quan của bệnh nhân, mong muốn của bản thân họ,
không bị ép buộc bởi bất cứ chủ thể nào khác. Nếu thiếu đi tính chủ ý thì sẽ
khơng cịn là an tử.

Thứ hai, Đối tượng là những người khơng cịn khả năng cứu chữa
Bệnh nhân phải ở trong tình trạng bệnh lý khơng cịn khả năng cứu
chữa, chỉ khi có kết luận của hội đồng bác sỹ về tình trạng bệnh lý. Đây là yêu
cầu quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi
tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp,
xúi giục người khác tự tử.
Vậy như thế nào là những người không cịn khả năng cứu chữa?Ở các
quốc gia đã cơng nhận hay chưa cơng nhận quyền an tử có cách phân loại
khác nhau về phạm vi các loại bệnh nhân. Theo tác giả Trương Hồng Quang
10


trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu về quyền được chết trong bối cảnh hiện
nay”, thì giới y học hầu hết thống nhất có hai dạng bệnh nhân:
(1) Những trường hợp chết não: “tình trạng tồn não bộ bị tổn thương
nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể
sống lại được”. Bệnh nhân sống hồn tồn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như
hơ hấp, tuần hồn và ni dưỡng nhân tạo… nếu rút máy thì coi như sự sống
chấm dứt.
(2) Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và khơng có khả năng hồi
phục. Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình
(bản thân họ khơng cịn biết khổ hay sướng). Đơi lúc người bệnh biểu lộ được
ý chí của mình và hồn tồn khơng sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường
hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng khơng mất
ý thức thường xun.
Ngun nhân dẫn đến các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay
bị mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa.
Thứ ba, cách thực hiện ít hoặc khơng gây đau đớn
An tử tức là cái chết nhẹ nhàng, êm ái, là cái chết nhân đạo. Vì thế cách
thức thực hiện an tử cũng phải hạn chế đến mức thấp nhất đau đớn cho bệnh

nhân, giúp họ được ra đi một cách thanh thản, chấm dứt cuộc sống đau đớn đã
kéo dài. Một số biện pháp có thể thực hiện như: tiêm thuốc, rút ống dẫn…
Thứ tư, vì lợi ích của người được an tử
Với ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, an tử trên hết phải với mục đích đem lại
sự thanh thản cho người bệnh, giúp họ không phải chịu đựng những ngày
tháng đau đơn với bệnh tật, chứ khơng phải vì bất kỳ lợi ích kinh tế hay
nguyên nhân từ chủ thể nào khác (gia đình, xã hội).
Như vậy, có bốn yếu tố để xác định “an tử” đó là: (i) tính chủ ý chấm
dứt cuộc sống; (ii) đối tượng là những người khơng cịn khả năng cứu chữa;
(iii) cách thức thực hiện ít hoặc khơng gây đau đớn; và (iv) vì lợi ích của
người được an tử. Trong các yếu tố này, “tính chủ ý” được xem là quan trọng
11


nhất mà thiếu nó sẽ khơng được coi là an tử; lợi ích của người được an tử
thường là để chấm dứt những nỗi đau không thể chịu đựng được (mục đích
nhân đạo) và để giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và người thân.
An tử có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí, trong đó hai tiêu
chí có thể thể hiện rõ nhất tính chất của vấn đề đó là dựa trên sự tự nguyện và
cách thức thực hiện.
- Dựa trên tính chất ý chí của người được an tử, an tử có thể chia thành
an tửtự nguyện (Voluntary Euthanasia), an tử không tự nguyện (Non VoluntaryEuthanasia), và an tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia).
 An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân trong tình trạng
tỉnh táo(nghĩa là có ý thức, đủ tuổi và cảm xúc ổn định), có sự đồng tình rõ
ràng trong quyết định kết thúc cuộc sống với sự hỗ trợ, trợ giúp của bác sĩ. Ví
dụ: Thực hiện theo yêu cầu của bệnhnhân ung thư giai đoạn cuối ngừng điều
trị bằng việc ngừng tiêm thuốc hóa trị do tình trạng tâm lý và sức khỏe hiện
nay hay ở tương lai tiên liệu được.
 An tử không tự nguyện (Non - Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân
khơng có khả năng bày tỏ sự ưng thuận và tự đưa ra quyết định (Trẻ sơ sinh

thiểu năng trầm trọng, bệnh nhân trong tình trạng thực vật vĩnh viễn, người
tâm thần), quyết định chấm dứt cuộc sống của họ do người khác đưa ra
(người thân)
 An tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia): Bệnh nhân không hề
bày tỏ mong muốn, cũng không hề đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho thấy
mạng sống của người ấy cần phải được chấm dứt, nhưng việc này vẫn được
thực hiện trái ý chí của người bệnh. Khác với an tử không tự nguyện, ở an tử
trái nguyện vọng bệnh nhân tỉnh táo, có thể tự đưa ra quyết định, minh nhiên
từ chối, không đồng ý việc bị làm chết.
- Dựa trên tiêu chí cách thức thực hiện, an tử được chia thành an tử chủ
động (Active Euthanasia/Euthanasia by Action), an tử thụ động (Passive
Euthanasia/Euthanasia by Omission)

12


 An tử chủ động (Active Euthanasia): Trường hợp có sự tác động của
người khác để giúp bệnh nhân chấm dứt cuộc sống một cách nhanh chóng. Ví
dụ: Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu của bệnh nhân bằng cách tiêm
thuốc… Đây được coi là cách thức hiệu quả nhất dù tình trạng bệnh nhân có
như thế nào. Hình thức này được hợp pháp hóa ở Netherlands và Australia.
 An tử thụ động (Passive Euthanasia): Ngừng các biện pháp điều trị
đang áp dụng cho bệnh nhân để bệnh nhân chết đi. Ví dụ: Bác sĩ ngưng mọi
biện pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân như rút ống dẫn, tắt máy trợ thở,
ngừng việc tiêm các chất hóa trị… Tuy nhiên, vẫn duy trì các biện pháp/thuốc
giảm đau. Như vậy, an tử thụ động phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố, đặc biệt là
tình trạng bệnh nhân
Bên cạnh thuật ngữ an tử, ở nhiều quốc gia còn sử dụng thuật ngữ trợ
tử (physician-assisted suicide: tự tử với sự trợ giúp của bác sĩ).Nếu như an tử
là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến cái chết nhẹ

nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết, hành động trực
tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân thực hiện việc tự
tử. Như vậy có thể thấy, điểm phân biệt lớn nhất giữa an tử và trợ tử là chủ
thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình, hay chủ thể thực hiện toàn bộ
hành vi hoặc thực hiện hành vi cuối cùng. Có sự khác biệt như vậy nhưng nếu
xét cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trị của bác
sĩ chưa được mở rộng. Ở hầu hết các nước đã thông qua luật an tử, hành vi trợ
tử cũng hợp pháp và dùng chung với nhau.
Theo một báo cáo năm 2010 tại Hà Lan tỷ lệ an tử chủ động là 2,8%
trong khi trợ tử là 0,1% trên tổng số người chết. Ở những vùng lãnh thổ mới
chỉ hợp pháp hóa hành vi trợ tử, an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm
quyền và dẫn tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm
nghề nghiệp cho người thực hiện [6].
1.2.2. Quyền an tử
Xuất phát từ khái niệm an tử, quyền an tử có thể được định nghĩa là
quyền nhân thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh lý
13


khơng có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của mình với
sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo quy định chặt chẽ của
phápluật [6]
Tuy nhiên, một quyền được công nhận là quyền nhân thân chỉ khi
quyền đó được pháp luật ghi nhận một cách chính thức.Quyền an tử(hay
quyền được chết - right to die) trên thực tế chỉ được công nhận là quyền nhân
thân ở một số quốc gia hợp pháp hóa an tử. Theo quan điểm của các nhà lập
pháp và các nhà khoa học, công nhận quyền được chết là quyền nhân thân
nhưng chưa quy định trong Luật. Thực tế cho thấy có quy định hay khơng chỉ
là vấn đề về mặt thời gian: có phù hợp với hiện tại hay khơng và hệ thống
pháp luật có đồng bộ, thống nhất hay không. Khi chưa được công nhận về mặt

pháp luật, một người nếu thực hiện hành vi trợ giúp tự tử, giúp người bệnh ra
đi có thể quy vào một số tội như: tội giết người, tội giúp người khác tự sát…
Hiện nay, chưa có một định nghĩa cụ thể về quyền an tử. Tuy nhiên,
theo phân tích các quan điểm đồng tình và đạo luật một số quốc gia đã hợp
pháp hóa an tử cũng như quan điểm cá nhân, có thể hiểu: Quyền an tử là một
quyền nhân thân của những người đang phải chịu sự đau đớn về thể chất
hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một
bệnh nan y không thể cứu chữa, và việc thực hiện quyền này phải tuân theo
quy định của pháp luật.
1.3.

Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử
1.3.1. Đặc điểm

- Quyền an tử là một quyền nhân thân
Quyền an tử gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển
giao cho chủ thể khác. Điều này có nghĩa rằng bản thân chủ thể hưởng quyền
an tử họ không thể chuyển giao quyền này cho người khác và cũng khơng ai
có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền này. Một cá nhân không thể áp đặt
quyền an tử lên một chủ thể nào khác ngồi chính bản thân mình, đơn giản
bởi sự sống của chủ thể đó khơng thuộc phạm vi có thể quyết định rằng chấm
14


dứt hay không của họ. Hơn nữa, quyền an tử cũng mang tính chất phi tài sản.
Quyền an tử khơng thể đem ra mua bán, cầm cố, thế chấp… đây là hệ quả của
tính chất khơng thể chuyển giao của quyền nhân thân, chủ thể khác khơng thể
đặt mình vào vị thế của có quyền để hưởng thụ quyền này.
- Quyền an tử là đặc quyền
Điều này khơng có nghĩa quyền an tử chỉ thuộc về một nhóm chủ thể cá

biệt trong xã hội, mà đặc biệt có nghĩa quyền an tử chỉ phát sinh khi chủ thể
hưởng thụquyền ở trong tình trạng đặc biệt, rơi vào trạng thái bệnh lý khơng
cịn khả năng cứu chữa. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa hành
vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực
hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử. Nếu như
quyền an tử và thực hiện quyền an tử chỉ áp dụng đối với những bệnh nhân
mắc bệnh nan y, không có hy vọng chữa trị và trong luật pháp một số quốc
gia còn quy định thêm rằng thời hạn sống khơng cịn dài, thì tự tử và hành vi
xúi giục, trợ giúp người khác tự tử có thể được thực hiện bởi các chủ thể
khơng mắc bệnh ,vì thế bị coi là hành vi có hại cho xã hội và bị luật pháp
nhiều quốc gia quy định là tội hình sự.
- Quyền an tử là quyền thực hiện được khi có sự hỗ trợ của chủ thể có
thẩm quyền
Quyền an tử không giống như các quyền khác là chủ thể có thể tự do
hưởng thụ quyền bằng khả năng của mình. Một chủ thể khi hội tụ đủ các điều
kiện chỉ có thể hưởng thụ quyền thơng qua sự trợ giúp của người khác. Sự trợ
giúp này có thể biểu hiện bằng hành vi hành động (tiêm thuốc gây chết người
trong an tử chủ động) hoặc không hành động (không tiếp tục các hỗ trợ y tế
trong an tử bị động). Ngay cả trong trường hợp trợ tử khi người bệnh tự thực
hiện việc đưa thuốc gây chết vào cơ thể hoặc uống thuốc gây chết, họ vẫn cần
đến sự trợ giúp của bác sĩ trong việc kê đơn và có được các loại thuốc mình
cần một cách hợp pháp. Mọi hành vi chấm dứt cuộc sống khơng có sự hỗ trợ
của chủ thể có thẩm quyền đều mang tính chất chủ quan, bộc phát. Ngoài ra,
15


chủ thể hỗ trợ cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Họ phải là
những bác sĩ có bằng cấp, đủ thẩm quyền thực hiện chứng nhận tình trạng của
bệnh nhân cũng như có đủ kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm để thực hiện an tử
trong trường hợp bệnh nhân không thể hoặc không muốn tự thực hiện.

- Mục đích của quyền an tử là giúp bệnh nhân được kết thúc cuộc sống
một cách nhanh chóng và an tồn theo mong muốn.
Đây chính là mục đích nhân đạo của an tử mà tất cả các quốc gia hướng
tới. An tử giúp cho những bệnh nhân trong tình trạng không thể cứu chữa
được ra đi thanh thản, không phải chịu đau đớn, sống những ngày dài chiến
đấu với bệnh tật. An tử là cách giải thoát hợp lý nhất trong trường hợp này.
- Quyền an tử là quyền được thực hiện theo quy định chặt chẽ của
phápluật.
Xuất phát từ tính chất nhân thân và đặc quyền, quyền an tử chỉ được
thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện và theo quy trình chặt chẽ do pháp luật
các quốc gia quy định. Hiện nay, ở nhiều quốc gia, thủ tục để tiến hành việc
an tử cũng như để thụ hưởng quyền an tử hết sức chặt chẽ nhằm mục đích
tránh mọi trường hợp lạm dụng, bởi hậu quả của một vụ sai phạm là không
thể cứu chữa bằng mọi biện pháp. Việc không tuân thủ đúng theo các quy
định này có thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc kỷ luật nghề
nghiệp đối với người thực hiện an tử cho bệnh nhân.
- Quyền này có thể được u cầu bởi chính người đó hoặc người đại diện
Như đã phân tích, quyền an tử phải xuất phát từ sự tự nguyện của người
yêu cầu: tự nguyện được thực hiện an tử khi còn tỉnh táo, tự nguyện chỉ định
người đại diện cho mình trong trường hợp rơi vào tình trạng khơng biểu lộ
được ý chí (người này sẽ có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc
chữa bệnh của bệnh nhân).
- Chủ thể của quyền này là người đang chịu sự đau đớn kéo dài do bệnh
tật hoặc tai nạn
Không phải ai cũng là đối tượng của quyền an tử. An tử chỉ được áp
dụng với một số đối tượng đặc thù: bệnh nhân đang trong tình trạng đau đớn
16


cả về thể chất lẫn tinh thần, không thể cứu chữa được, do tai nạn hoặc mắc

bệnh nan y, vô phương cứu chữa.
1.3.2. Ý nghĩa
1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Quyền an tử được công nhận là sự khẳng định rằng pháp luật tôn trọng
giá trị tự do và quyền tự quyết của con người. Pháp luật các quốc gia, khu vực
và quốc tế ngày càng đề cao các giá trị này, trong khi quyết định về giá trị
cuộc sống của chính bản thân mình lại là quyết định căn bản và gắn liền với
mỗi chủ thể nhất định.
Quyền an tử sẽ là công cụ pháp lý giúp cho việc quản lý hoạt động an
tử. Vì bị cấm đốn hoặc khơng được cho phép nên những người có nguyện
vọng được hưởng thụ quyền an tử cũng như những bác sĩ có ý định thực hiện
an tử cho người bệnh luôn phải sống một cuộc sống ngầm với những hành vi
mà họ cố tình che giấu khơng để cho người khác biết. Cơng nhận quyền an tử
sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội đối với những đối tượng này từ đó
họ sẽ khơng muốn che giấu và cơng khai hóa hành vi của mình. Sự cơng khai
này là điều kiện thuận lợi để nhà nước có thể quản lý một cách hiệu quả.
Việc công nhận quyền an tử sẽ giải quyết được tình trạng pháp lý bế tắc
cũng như nhu cầu được an tử trong thực tiễn. Hợp pháp hóa an tử giúp cho
việc quản lý hoạt động này được cơng khai, minh bạch, dễ dàng mà cịn hạn
chế được trường hợp sử dụng an tử vào mục đích khác thay vì nhân đạo.
1.3.2.2. Ý nghĩa xã hội
Sự khơng cơng nhận quyền an tử đã và đang gây ra nhiều tranh cãi
cũng như bức xúc trong cộng đồng những người hành nghề y, những người
hành nghề luật cũng như những bệnh nhân mắc bệnh nan y. Thời kỳ trước
đây, những bức xúc đó cịn chưa đáng kể vì nhiều ngun nhân: số lượng
người có nhu cầu hưởng thụ quyền cịn thấp, tư tưởng tôn giáo mang đậm
thành kiến với hành vi tự nguyện chấm dứt cuộc sống. Trải qua thời gian, số
lượng người có mong muốn hưởng thụ quyền đã tăng lên, hơn nữa, sự giao
17



lưu văn hóa, tư tưởng mang đến sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức của xã
hội, nhiều vấn đề trước đây bị cho là trái với thuần phong đã được nhìn nhận
thống hơn. Vấn đề an tử cũng vậy, với sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn,
những người mong muốn hưởng thụ quyền an tử chắc chắn sẽ đấu tranh địi
quyền lợi cho mình. Như vậy, các quốc gia cần phải giải quyết vấn đề này kịp
thời để đảm bảo cho sự ổn định, và giải pháp để giải quyết vấn đề này là công
nhận quyền an tử.
Việc cơng nhận quyền an tử có thể giảm những tác động tiêu cực có thể
gây ảnh hưởng khơng nhỏ đối với xã hội. Cơng nhận quyền an tử có ý nghĩa
xã hội rất lớn với những mục đích xã hội tốt đẹp. Khi sự sống của bệnh nhân
khơng cịn được được đảm bảo (mắc bệnh nan y, đang phải chịu đựng đau
đớn kéo dài…) thì an tử là giải pháp hợp lý nhất. Điều này không chỉ tốt cho
bệnh nhân mà cịn tốt cho gia đình, xã hội. Người bệnh ra đi thanh thản, chấm
dứt những ngày tháng đau đớn, mệt mỏi chiến đấu với bệnh tật. Gia đình bệnh
nhân cũng khơng phải tốn kém về chi phí cũng như cơng sức khơng đáng có.
Xã hội cũng tránh được những tranh luận gay gắt về vấn đề này.
1.4.

Một số quan điểm về hợp pháp hóa quyền an tử

Những quan điểm về Quyền an tử luôn gây ra sự tranh cãi gay gắt vì
vấn đề này khơng chỉ liên quan đến y học mà còn liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác như: Luật pháp, tôn giáo, phong tục, tập quán, đạo đức xã hội…
1.4.1. Những lập luận phản đối quyền an tử
Người được cho là chống đối trợ tử đầu tiên trong lịch sử y học là
Hippocrates, ông tổ ngành y phương Tây.Trong lời thề Hippocrates, ông kêu
gọi thầy thuốc “không bao giờ cho ai một liều thuốc độc dù người đó u cầu
và khơng bao giờ gợi ý về điều đó”.Trong Luật Y đức (Code de Déontologie)
của Pháp, điều 38 quy định thầy thuốc khơng có quyền cố tình gây nên cái

chết. Tuy nhiên, lý do lớn nhất là ảnh hưởng của tơn giáo thần khải tin rằng sự
sống có tính chất thiêng liêng do thượng đế ban cho con người, chỉ có thượng
đế mới có quyền lấy đi sự sống. Chính niềm tin này làm rất nhiều người lên
án trợ tử, xem trợ tử là giết người [4].
18


×