Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Địa vị pháp lý của các doanh nghiệp việt nam kinh doanh ở nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----***----

TRẦN THANH HẢI

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----***----

TRẦN THANH HẢI

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI

Chuyên ngành: Luật quốc Tế
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Mai Anh

Hà Nội – 2013



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT DOANH NGHỆP VIỆT NAM KINH

6

DOANH Ở NƯỚC NGOÀI
Khái niệm doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài

6

1.1.1 Định nghĩa, phân loại doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài

6

1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngồi

9

1.1.

1.2.

Mơi trường kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài


11

1.2.1 Mơi trường chính trị - pháp lý nước sở tại

11

1.2.2 Mơi trường kinh tế - văn hố – xã hội nước sở tại

13

1.2.3 Tác động của môi trường nước sở tại đối với doanh nghiệp Việt Nam hoạt

16

động kinh doanh ở nước ngồi
1.3

Vai trị của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài

18

1.3.1 Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước sở tại

18

1.3.2 Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

22

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM


34

KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI
2.1.

Cơ sở xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài

34

2.1.1 Cơ sở lý luận

34

2.1.2 Cơ sở pháp lý

38

2.2

Thủ tục thành lập doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài

49

2.2.1 Thủ tục thành lập theo pháp luật Việt Nam

49

2.2.2 Thủ tục thành lập theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư


51

2.2.3 Thủ tục thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài

54

2.3

Quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở

55

nước ngoài
2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động kinh

55


doanh, đầu tư tại nước nhận đầu tư
2.3.2 Quyền và nghĩa vụ của nước sở tại với doanh nghiệp Việt Nam trong việc

62

tiếp nhận đầu tư.
2.3.3 Vấn đề chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam ở

67

nước ngoài
2.4


Thực trạng thể chế pháp lý về địa vị pháp lý doanh nghiệp Việt Nam

70

kinh doanh ở nước ngoài
2.4.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam

70

2.4.2 Thực trạng pháp luật nước nhận đầu tư

81

Chương 3: HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP

90

VIỆT NAM KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI
3.1

Định hướng hoàn thiện địa vị pháp lý doanh nghiệp Việt Nam kinh

90

doanh ở nước ngồi
3.1.1 Từ góc độ kinh tế thị trường

90


3.1.2 Từ góc độ pháp lý

93

3.2.

Các giải pháp hồn thiện địa vị pháp lý doanh nghiệp Việt Nam kinh

96

doanh ở nước ngồi
3.2.1 Các giải pháp tổng thể

96

3.2.2 Các nhóm giải pháp cụ thể

97

3.2.3 Kiến nghị

102

KẾT LUẬN

105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

107



DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFAS

Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ

AIA

Khu vực đầu tư ASEAN

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BIT

Hiệp định đầu tư song phương

BOT

Xây dựng- Kinh doanh- Chuyển giao

BTA


Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ

CDC

Hội đồng Phát triển Campuchia

CTCP

Công ty cổ phần

CNTT

Công nghệ thông tin

DNVN

Doanh nghiệp Việt Nam

ĐTRNN

Đầu tư ra nước ngồi

ĐTNN

Đầu tư nước ngồi

KHCN &
CNTT

Khoa học cơng nghệ và công nghệ thông tin


NAFTA

Hiệp định về thương mại tự do Bắc Mỹ

TRIMS

Hiệp định về các biện pháp thương mại liên quan đến đầu tư của WTO

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

MFI

Khung pháp lý đa phương về đầu tư

MFN

Đối xử tối huệ quốc

MPDF


Chương trình Phát triển Kinh tế Tư nhân

NT

Đối xử quốc gia


DANH MỤC CÁC BIỂU

Biểu 1.1: Tỷ suất lợi nhuận và khả năng thu hồi vốn đầu tư
Biểu 1.2: Tình hình đầu tư ra nước ngoài của một số Tập đoàn nhà nước
Biể u 2.1: Vố n ĐTRNN của Viê ̣t Nam trong giai đoa ̣n từ 1989 – 2011


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư ra nước ngồi là vấn đề mang tính chất tồn cầu và là xu thế của các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư ra nước ngoài gắn liền với việc nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng hơn, tận dụng nguồn tài
nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa, tận dụng được
quota xuất khẩu của nước sở tại để mở rộng thị trường.
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng, trung bình 7%
mỗi năm. Việt Nam ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp có khả năng tài chính
cũng như kinh nghiệm để đầu tư ra nước ngồi. Tính đến hết tháng 02/2012, doanh
nghiệp Việt Nam đã đầu tư ra hơn 55 quốc gia và vùng lãnh thổ, khơng những duy
trì, mở rộng thị trường truyền thống mà còn khai phá thành công một số thị trường
mới. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật
đối với việc đầu tư ra nước ngoài trong bối cảnh hội nhập sâu vào đời sống kinh tế
khu vực và quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của

WTO.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phát triển nền
kinh tế trong bối cảnh hội nhập là:
“Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của
đất nước để chủ động, t í c h cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả.
Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có
sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường
ngoài nước, g ó p phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế” [18].
Trên thực tế, để thực hiện đường lối đổi mới nêu trên của Đảng, nhiều
DNVN đã hoạt động kinh doanh ở nước ngoài, như đầu tư; mua bán hàng hóa
thương mại.... Trong q trình chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, bên cạnh những
thuận lợi và lợi ích thu được, DNVN đã và đang đứng trước khơng ít thách thức,
khó khăn, đe dọa lợi ích sống còn khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

1


Vì vậy, để hỗ trợ DNVN đầu tư ra nước ngồi hiệu quả thì việc đảm bảo địa
vị pháp lý cho doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư ở nước ngồi có ý nghĩa rất
quan trọng. Trên phương diện lý luận và pháp lý, điều này đặt ra yêu cầu phải
nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về khung thể chế trong và ngoài nước,
nhất là những nước DNVN có hoạt động đầu tư, kết hợp với đánh giá thực tiễn hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp để qua đó hồn thiện thêm địa vị pháp lý của
DNVN.
Từ những tiếp cận nêu trên, tác giả đã chọn vấn đề nghiên cứu “địa vị pháp
lý của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tra cứu thơng tin từ Thư viên Quốc gia; và các nguồn thông tin khác cho

thấy cho đến thời điểm luận văn đề cập, lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã được nhiều
nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. Các nghiên cứu của các nhà khoa
học trong nước có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu ở cấp Luận văn tiến sỹ như:
Luận văn tiến sỹ luật học của Trần Thị hịa Bình (1996) “ Địa vị pháp lý của doanh
nghiệp nhà nước ” với nội dung nghiên cứu chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp nhà nước nói chung; Luận án tiến sỹ Luật học của Hồng Phước Hiệp
(1996) “ Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam”, nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề bất cập và những giải pháp hoàn
thiện; Luận án tiến sỹ kinh tế của Hồng Văn Huấn (1996) “Hồn thiện chính sách
và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi” là những tài liệu tham khảo có
giá trị phục vụ việc nghiên cứu đê tài luận văn. Ngoài ra còn một số đề tài khoa học
cấp Bộ do Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2008) “Chính sách khuyến
khích đầu tư ra nước ngồi từ các nước đang phát triển và chuyển đổi: Kinh nghiệm
quốc tế và kiến nghị chính sách cho Việt Nam”; Báo cáo nghiên cứu thực trạng các
quy định của pháp luật về điều kiện đầu tư/kinh doanh định hướng cải cách phù hợp
với cam kết gia nhập WTO của Việt Nam do Văn phòng Ủy ban Quốc gia về hợp
tác kinh tế quốc tế (2007)…. Các nhà khoa học nước ngồi cũng có một số nghiên
cứu đối với đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam như: WONG DO
MKAM (1998) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài, những mặt hạn chế và thời cơ”; Các

2


báo cáo tại các hội nghị Thương mại ASEAN hàng năm về tình hình đầu tư nước
ngồi của Việt Nam....
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu Nghiên cứu quản lý nhà nước về đầu
tư nước ngoài của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã chỉ ra nhiều nguyên
nhân tồn tại trong quản lý nhà nước về đâu tư ra nước ngồi nói chung. Nhưng chưa
có đề tài nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam
kinh doanh ở nước ngoài. Hệ thống Pháp luật quy định địa vị pháp lý của doanh

nghiệp kinh doanh ở nước ngồi, có vai trị hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết
định đến hiệu lực, hiệu quả trong kinh doanh, do đó cần được nghiên cứu một cách
thường xuyên để điều chỉnh, bổ sung kịp thời.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu tổng quát
Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn hướng tới việc xây dựng và kiến giải
một số giải pháp cơ bản nhằm từng bước hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh
nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài.
3.2 Mục tiêu cụ thể
Đánh giá thực trạng địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam tiến
hành hoạt động kinh doanh ở nước ngoài trên cả hai phương diện, thể chế pháp
lý và thực tiễn hoạt động tại một số quốc gia, như: Cộng hoà dân chủ Lào,
Campuchia, Cộng hoà Liên bang Mianma, Liên bang Nga, là những quốc gia có
nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động kinh doanh, hay địa bàn mới như
Mianma, do yếu tố tương đồng về văn hoá, cùng khu vực, có sự hiểu biết lẫn nhau
về phong tục tập quán, tạo thuận lợi trong hợp tác kinh doanh những năm qua, để
tìm ra những bất cập cần hồn thiện.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Vấn đề địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngồi
đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu trùng tên được cơng bố, vì thế những vấn đề tác
giả nghiên cứu là hoàn toàn mới. Những đóng góp của luận văn làm sáng tỏ những vấn
đề về lý luận và thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước

3


ngồi, từ đó đưa ra một số đề xuất hồn thiện thể chế pháp lý về địa vị pháp lý của
doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nội hàm hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài

rất rộng, như: hoạt động tìm kiếm thị trường và ký kết các hợp đồng xuất, nhập
khẩu hàng hóa mà, hoạt động đấu thầu xây dựng, cung cấp dịch vụ, đầu tư xây dựng
xí nghiệp liên doanh ở nước ngồi, nơng lâm nghiệp, sản xuất điện, tài chính, ngân
hàng, tiếp theo là các lĩnh vực cơng nghiệp, khai khống và vận tải kho bãi, ngồi ra
cịn có các lĩnh vực khác như thông tin truyền thông, y tế, thương mại bán buôn,
xây dựng, dịch vụ, bất động sản... Do điều kiện nghiên cứu, nên tác giả tập trung đi
sâu nghiên đối tượng: Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Các quy định
của pháp luật quy định về đầu tư nước ngoài và quyền nghĩa vụ của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Tại các quốc gia Cộng hoà dân chủ Lào, Campuchia,
Mianma, Liên bang Nga, thời gian từ năm 2005 đến 2012.
6. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa
học khác, như so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải
quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
7. Kết quả đạt được
Đưa ra cơ sở lý luận nghiên cứu địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam
kinh doanh ở nước ngoài.
Đưa ra địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài.
Đưa ra giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh
doanh ở nước ngoài.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, với kết cấu và nội dung nghiên cứu, như sau:
Chương 1: Khái quát doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài.

4



Chương 2: Thực trạng pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở
nước ngoài.
Chương 3: Hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh
ở nước ngoài.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KINH DOANH
Ở NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài
1.1.1 Định nghĩa, phân loại doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài
Đầu tư ra nước ngoài là xu thế tất yếu, đồng thời là lựa chọn phù hợp với
điều kiện phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay nhằm tận dụng có hiệu quả tài
nguyên tại chỗ (tức nước địa bàn tiếp nhận dòng vốn đầu tư), mở rộng thị trường,
cũng như đẩy mạnh quảng bá, tiếp thị hình ảnh Việt Nam ra nước ngồi. Tháng
02/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam
ra nước ngoài". Đây được xem như "bệ phóng" cho các doanh nghiệp mạnh dạn
chọn hướng đi đầu tư ra nước ngoài với quy mơ và tầm nhìn mang tính chiến lược.
Đề án đặt mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, nhằm
chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường các biện pháp, tạo điều kiện
thuận lợi thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngồi; đồng thời quản lý có hiệu
quả hoạt động này, đặc biệt là đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước.
Chính phủ cũng định hướng doanh nghiệp không chỉ tiếp tục khai thác và phát huy
thế mạnh của các thành phần kinh tế Việt Nam trong đầu tư vào các thị trường
truyền thống như Lào, Campuchia, các nước trong khu vực, Nga... mà cũng từng
bước mở rộng đầu tư sang các nước, thị trường mới như Mỹ La tinh, Đông Âu,
Châu Phi.
Trước khi nghiên cứu vấn đề này, cần lưu ý một đặc điểm nổi bật của hệ

thống pháp luật Việt Nam, đó là sự tồn tại của các quy định vừa riêng rẽ lại vừa
chồng lấn về hoạt động đầu tư, kinh doanh và thương mại. Những quy định về các
hoạt động này được điều chỉnh bởi 03 đạo Luật riêng tương ứng, gồm: Luật Đầu tư,
Luật Doanh nghiệp và Luật Thương mại. Chính sự khác biệt này đã dẫn đến cách
hiểu khác nhau trong các Luật nêu trên về khái niệm "đầu tư", "kinh doanh",
"thương mại", và từ đó cũng hình thành các quy định khác nhau về điều kiện thực
hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh và thương mại. Điều 3, Luật Đầu tư quy định
các khái niệm cơ bản có liên quan đến đầu tư, gồm:

6


"Đầu tư" là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
"Đầu tư trực tiếp" là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham
gia quản lý hoạt động đầu tư;
"Đầu tư gián tiếp" là hình thức đầu tư thơng qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khốn và thơng qua các định
chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư [36].
Theo quy định tại khoản 2, Điều 4, Luật Thương mại năm 2005, khái niệm
“kinh doanh” nói chung và kinh doanh ở nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
nói riêng, là: việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi [46]. Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh
nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể
hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng
chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp
định hoặc yêu cầu khác.

Khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại quy định: "hoạt động thương mại" là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác [46]. Khác
với quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, ngoài những nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động thương mại, Luật Thương mại khơng có quy định chung về
khái niệm điều kiện hoạt động thương mại mà chỉ xác định về nguyên tắc việc áp
dụng các điều kiện này tương ứng với từng hoạt động thương mại đã nêu ở trên.
Theo Điều 4, Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 về doanh nghiệp nói
chung là: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.

7


Từ những khái niệm chung nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chung về doanh
nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngồi là: Doanh nghiệp Việt Nam có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật Việt Nam, pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, các hiệp định song phương và
các điều ước quốc tế mà các bên cùng tham gia, nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
Vì đối tượng đề tài nghiên cứu là doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài, nên có thể hiểu doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài là: Đầu tư ra
nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ
Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
Hiện nay, loại hình doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài chủ yếu
là các loại hình sau:
Một là, Cơng ty trách nhiệm hữu hạn, gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó: Thành
viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi;

Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp; phần vốn góp của
thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 43, 44 và 45 của
Luật Doanh nghiệp năm 2005. Cơng ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân
kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm
hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần [31]. Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do
một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty);
chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát
hành cổ phần [31].
Hai là, Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;Cổ đơng có thể là tổ chức, cá nhân; số

8


lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và
khoản 5 Điều 84 của Luật này. Cơng ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cơng ty cổ phần có quyền phát
hành chứng khoán các loại để huy động vốn [31].
Ba là, Văn phịng đại diện tại nước ngồi được quy định tại Điều 37, Luật
Doanh nghiệp năm 2009. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh
nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo uỷ quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ
các lợi ích đó. Tổ chức và hoạt động của văn phòng đại diện theo quy định của pháp

luật. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện tồn
bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ
quyền. Ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phải phù hợp với ngành, nghề kinh
doanh của doanh nghiệp. Địa điểm kinh doanh là nơi hoạt động kinh doanh cụ thể
của doanh nghiệp được tổ chức thực hiện. Địa điểm kinh doanh có thể ở ngồi địa
chỉ đăng ký trụ sở chính. Chi nhánh, văn phịng đại diện và địa điểm kinh doanh
phải mang tên của doanh nghiệp, kèm theo phần bổ sung tương ứng xác định chi
nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh đó. Doanh nghiệp có quyền lập
chi nhánh, văn phịng đại diện ở trong nước và nước ngồi. Doanh nghiệp có thể đặt
một hoặc nhiều văn phòng đại diện, chi nhánh tại một địa phương theo địa giới hành
chính. Trình tự và thủ tục lập chi nhánh, văn phòng đại diện do Chính phủ quy
định[31].
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài
Trong giai đoạn 1989 - 1998, không lâu sau khi thực hiện cải cách, mở cửa
và trước khi Chính phủ ban hành Nghị định 22/1999/NĐ-CP về đầu tư ra nước
ngồi, cả nước mới chỉ có 18 dự án đầu tư ra nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký
đạt 13,6 triệu USD. Nhưng từ năm 1999 đến năm 2005 đã có thêm 131 dự án, với
tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 560 triệu USD, tăng gấp 7 lần về số dự án và hơn
40 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với giai đoạn trước [6].

9


Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 78/2006/NĐ-CP, ngày 09 tháng 8
năm 2006, quy định về đầu tư ra nước ngồi và cho đến hết năm 2008 thì số dự án
đầu tư ra nước ngoài tiếp tục tăng nhanh, đạt đến con số 221 dự án, tổng số vốn
đăng ký đạt 3,36 tỷ USD [51]. Những năm vừa qua, làn sóng đầu tư trực tiếp ra
nước ngồi của các doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ. Theo số liệu báo
cáo của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính lũy kế đến
20/12/2012 đã có 712 dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngồi cịn

hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt 12,4 tỷ USD. Đến nay, Việt Nam đã đầu tư vào
60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong năm 2012, có 75 dự án đầu tư mới được cấp
giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 1,3 tỷ USD tại 28 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Lũy kế đến hết năm 2012, vốn thực hiện ước đạt khoảng 3,8 tỷ USD.
Riêng năm 2012 vốn thực hiện đạt khoảng 1,2 tỷ USD, tăng 28% so với năm
2011[6]. Qua nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước
ngoài trong giai đoạn này thể hiện những điểm đáng lưu ý:
Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế tồn cầu, các doanh nghiệp ln nỗ lực
để khẳng định năng lực bản thân và qua hoạt động của cơng ty xây dựng nên hình
ảnh chung cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, hoạt động đầu tư ra nước ngồi đã từng bước đi vào nề nếp, có một số dự
án đã bước đầu thành công và đã chuyển lợi nhuận về nước. Xu hướng đầu tư ra
nước ngồi đang có sự gia tăng đáng kể vào những địa bàn phù hợp với định hướng
đầu tư ra của Việt Nam như Lào, Campuchia, Myanmar... và vào những ngành, lĩnh
vực chiến lược Việt Nam có kinh nghiệm như dầu khí, thủy điện, trồng cây cơng
nghiệp, viễn thơng,... Hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã tạo ra việc làm cho hàng
nghìn lao động Việt Nam và hàng vạn lao động của nước tiếp nhận đầu tư. Đến nay,
đầu tư ra nước ngoài ở nhiều lĩnh vực đã đạt được nhiều thành cơng như lĩnh vực
dầu khí, bưu chính viễn thơng.
Hệ thống chính sách, pháp luật về ĐTRNN ngày càng được định hình rõ
nét hơn và tiếp tục được hồn thiện theo hướng ngày càng đơn giản hóa các thủ
tục ĐTRNN, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động ĐTRNN. Ví dụ như
việc quy định tại chương II, Nghị định số 78 ngày 09/8/2006, của Chính phủ quy

10


định về thẩm quyền, thủ tục cấp và điều chỉnh Giấy chúng nhận đầu tư, nhưng với
yêu cầu thực trạng cần phân cấp mạnh hơn cho cấp tỉnh thực hiện việc này.
Bên cạnh đó, cho thấy: tiềm lực của doanh nghiệp Việt Nam về vốn, công

nghệ chưa phải là mạnh; kinh nghiệm quản lý còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh
thua kém một số nước khác (Trung Quốc, Thái Lan) tại nước tiếp nhận đầu tư. Số
lượng dự án và quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngồi cịn nhỏ do năng lực tài chính và kinh nghiệm đầu tư của các doanh nghiệp
Việt Nam còn bị hạn chế. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động riêng lẻ, manh
mún, thậm chí cịn cạnh tranh với nhau ngay trên thị trường bản địa thay vì liên kết
lại với nhau để tăng tiềm lực, khả năng cạnh tranh và uy tín đối với các cơ quan có
thẩm quyền của nước sở tại. Thậm chí, một vài doanh nghiệp còn vi phạm pháp luật
của nước sở tại, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các nhà đầu tư Việt Nam
ở nước sở tại. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam khơng cập nhật các chính sách đầu tư
ra nước ngồi của Nhà nước, khơng thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, không thực
hiện việc đăng ký thay đổi nội dung hoạt động cũng như hình thức đầu và quy mơ
ĐTRNN đã tạo ra khó khăn cho doanh nghiệp khi ĐTRNN.
1.2. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngồi
1.2.1. Mơi trường chính trị – pháp lý nước sở tại
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng, khi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài về cơ bản là thuận lợi. Ngày
nay, do nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hầu khắp các nước trên thế
giới nên trên bình diện tổng thể, các nước đều ban hành chính sách khuyến khích,
kêu gọi nước ngồi đầu tư. Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số quốc
gia khơng q phức tạp (ví dụ ở LB Nga, Lào). Bên cạnh đó, tính chất của các quan
hệ hợp tác về kinh tế giữa Việt Nam với các nước Lào, LB Nga, Campuchia… lại là
hữu nghị và đối tác chiến lược nên các doanh nghiệp Việt Nam khi hoạt động kinh
doanh ở những nước này đã nhận được sự ủng hộ của Chính phủ hai bên.
Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Campuchia, do quan hệ hữu nghi ̣hơ ̣p tác
truyề n thố ng giữa hai nước luôn đươ ̣c duy trì và ngay càng phát triể n tố t đe ̣p . Chính
phủ Campuchia ln dành những ưu tiên và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt

11



Nam đầu tư, kinh doanh. Việt Nam và Campuchia gần gũi về địa lý, hoạt động trao
đổi về kinh tế cũng như đi lại, xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động giữa 2 nước rất
thuận lợi.
Các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh tại Lào, với tình hình an ninh chính
trị, xã hội ổn định, hệ thống pháp luật, pháp lý đầy đủ tạo điều kiện tốt cho nhà đầu
tư. Quan hệ đặc biệt giữa hai nước, được vun đắp trên tình hữu nghị anh em. Chính
phủ Lào ln dành những ưu tiên và thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư, kinh doanh. Luật Khuyến khích ĐTNN số 11/QH, ngày 22/10/2004, với mục
đích khuyến khích ĐTNN quy định nguyên tắc, cơ chế và các điều khoản liên quan
đến khuyến khích, bảo vệ và quản lý ĐTNN ở CHDCND Lào nhằm thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác với nước ngoài, việc sử dụng nguồn vốn, tri thức để mở rộng sản
xuất một cách hiệu quả, từng bước phục vụ CNH và HĐH đất nước, góp phần cải
thiện đời sống nhân dân ngày một tốt hơn, xây dựng và phát triển một đất nước giầu
mạnh. Tạo cơ sở thuận lợi cho DNVN đầu tư, kinh doanh tại đây.
Đối với địa bàn kinh doanh tại Nga, vì hệ thống văn bản pháp luật nói chung
và pháp luật về đầu tư nước ngồi tương đối hồn chỉnh, mơi trường kinh doanh
minh bạch. Ví dụ, như Luật Liên bang số No. 160 – FZ, ngày 09/7/1999 quy định
về đầu tư của nước ngoài tại LB Nga được sửa đổi bổ sung ngày 21/3/2002;
25/7/2002; 08/12/2003; 22/7/2005; 03/6/2006, đã xác định những bảo đảm cơ bản,
quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các khoản đầu tư và các thu nhập,
lợi nhuận thu được từ các đầu tư đó; các điều kiện cho những hoạt động kinh doanh
của các nhà đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ Liên bang Nga [43], và những điều
khoản khác đã tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý, cho DNVN đầu tư,
kinh doanh những năm qua.
Với quốc gia Mianma, là địa bàn mới mở cửa, văn bản pháp quy điều chỉnh về
đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành. Ví dụ, như Luật Đầu tư nước ngoài, tháng
02/1998, cùng với hơn nửa thế kỷ qua, chính phủ và nhân dân Mianma ln dành cho
nhau sự ủng hộ về tinh thần và vật chất cho Việt Nam. Trong ASEAN, Mianma luôn
coi trọng quan hệ hợ tác nhiều mặt với Việt Nam, và gần đây nhiều đoàn xúc tiến


12


thương mại của Việt Nam sang tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh tại Mianma. Tạo
nhiều thuận lợi về pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh tại đây.
Tuy nhiên, khi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào các quốc gia này, cũng
gặp khơng ít khó khăn, như hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của một số nền
kinh tế đang trong quá trình sửa đổi, hồn thiện nên có nhiều thay đổi, khơng thống
nhất, thiếu minh bạch và khó tiếp cận. Tại một số nền kinh tế có sự thiếu nhất qn
trong áp dụng chính sách, đặc biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng
ngồi các chính sách của nhà nước. Ví dụ, chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp của Lào được áp dụng trên toàn quốc nhưng địa phương vẫn thu thêm
thuế thu nhập.
Bên cạnh đó, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế
cũng như các thủ tục triển khai thực hiện dự án đầu tư, như vấn đề thủ tục đất đai,
phê duyệt thiết kế.v.v., khá phức tạp, kéo dài thời gian, tốn kém về chi phí cho
doanh nghiệp, thủ tục thơng quan phức tạp. Ví dụ tại LB Nga, Lào.
Đánh giá chung thì mơi trường chính trị - pháp lý của nước sở tại có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam, chẳng
hạn, nếu tình hình chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp yên
tâm đầu tư lâu dài, khả năng thu hồi vốn nhanh và có lợi nhuận và ngược lại, khi
chính trị khơng ổn định thì quá trình đầu tư gặp nhiều trở ngại, rủi ro cao, dễ bị thất
bại. Môi trương pháp lý gắn liền với thể chế, quan điểm chính trị, là cơng cụ quản lý
xã hội có mối quan hệ biện chứng không thể tách dời… Do vậy, môi trường pháp lý
rõ ràng, minh bạch giúp cho việc thu hút đầu tư nước ngồi được thuận lợi.
1.2.2. Mơi trường kinh tế - văn hoá - xã hội nước sở tại
Các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế
giới nói chung và cụ thể tại Lào, Campuchia, Nga và Mianma, thời gian qua cho
thấy thuận lợi về mơi trường, kinh tế - văn hóa – xã hội, giúp cho doanh nghiệp yên

tâm đầu tư, phát triển nguồn vốn của mình. Có thể nói, mơi trường kinh tế, văn hóa,
xã hội nước sở tại đóng vai trị quan trọng trong việc tiếp nhận ĐTNN, tạo sự yên
tâm cho doanh nghiệp khi đầu tư, kinh doanh. Thực tiễn cho thấy thời gian qua,
Lào, Campuchia, Nga và Mianma vẫn là điểm thu hút DNVN. Tuy nhiên, có sự

13


phân hóa rõ rệt tại các thị trường đầu tư, tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh của
DNVN. Với các nước phát triển như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore… DNVN đầu tư khá nhiều dự án quy mô nhỏ mang tính chất thăm dị thị
trường, thuộc lĩnh vực dịch vụ. Ngược lại, tại các nước có trình độ phát triển thấp
hơn, DNVN có nhiều dự án đầu tư quy mơ lớn, có vốn đăng ký tới 1 tỷ USD. Đồng
thời các DNVN cũng mạnh dạn đi vào các ngành có khả năng cạnh tranh cao như
khai khống; sản xuất nông, lâm, thủy sản, thủy điện; xây dựng …, đặc biệt là hai
nước Lào, Campuchia.
Thị trường là nhân tố quan trọng nhất thu hút ĐTNN. Các nước phát triển là
nơi đầu tư hấp dẫn vì có thị trường rộng lớn, dễ tiếp cận và tham gia thỏa thuận
thương mại khu vực. Chi phí đầu vào thấp hoặc có sẵn đầu vào sản xuất phù hợp
như nguồn tài nguyên, lao động và hạ tầng cũng là những nhân tố chi phí thu hút
ĐTNN từ các nước đang phát triển. Đối với nhiều nước đang phát triển, đầu tư tìm
kiếm thị trường ở các nước lân cận là rất phổ biến do khai thác lợi thế và dễ tiếp cận
thị trường và có nhiều nét tương đồng, ví dụ: Lào có nhiều tiềm năng để các doanh
nghiệp Việt Nam có thể hợp tác đầu tư vào các lĩnh vực như thủy điện, thăm dị,
khai thác khống sản, trồng cây cơng nghiệp, chế biến nông - lâm sản…
Campuchia: Quan hệ hữu nghi ̣hơ ̣p tác truyề n thố ng giữa hai nước luôn đươ ̣c duy trì
và ngay càng phát triển tốt đẹp . Chính phủ Campuchia ln dành những ưu tiên và
tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại Campuchia.
Việt Nam và Campuchia gần gũi về địa lý, hoạt động trao đổi về kinh tế cũng như
đi lại, xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động giữa 2 nước rất thuận lợi. Campuchia cịn

có nhiều tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác đầu tư như: thăm
dị, khai thác, chế biến khống sản, trồng cây công nghiệp, cây cao su, sản xuất, chế
biến nông - lâm sản... Một số dự án đầu tư mang tính dẫn đường như hàng khơng,
ngân hàng, viễn thông... đã được cấp phép và đi vào hoạt động có hiệu quả, tạo điều
kiện thuận lợi cho các dự án khác sớm triển khai thực hiện và đi vào hoạt động.
Cùng với mơi trường kinh tế thì mơi trường văn hóa nước tiếp nhận ĐTNN cũng là
yếu tố có tầm ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Việt Nam. Các hiệp định khu vực hướng tới tăng cường hợp tác sâu rộng của các

14


nước đang phát triển thường có xu hướng thu hút đầu tư của các nước đang phát
triển trong cùng khu vực, do yếu tố tương đồng về văn hóa hoặc sự hiểu biết lẫn
nhau về phong tục, tập quán, tạo thuận lợi để hợp tác kinh doanh.
Song, mặt trái của mơi trường kinh tế, văn hóa thuận lợi là sự khác biệt về
phong tục tập quán, ngôn ngữ đã tạo ra những cản trở không nhỏ cho hoạt động
ĐTNN. Trên thực tế, môi trường kinh doanh của các nước đang phát triển luôn tiềm
ẩn yếu tố không ổn định so với các nước đang phát triển, có thể kích thích một số
DNĐTNN, như là tìm nơi kinh doanh an tồn, thậm chí ngay cả trường hợp kinh
doanh trong nước có lợi nhuận cao hơn.
Tuy nhiên, cũng dễ nhận thấy ở mơi trường kinh tế của nước nhận đầu tư
những khó khăn về lực lượng lao động tại chỗ rất hạn chế, trình độ chun mơn
thấp, tính kỷ luật và tính chun cần khơng cao, rất khó đáp ứng được nhu cầu về
lao động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn chất lượng (ví dụ tại Lào, Campuchia).
Qua phản ánh của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Campuchia, có thể thấy
doanh nghiệp đầu tư sang Campuchia có một số thuận lợi cơ bản nhưng còn gặp rất
nhiều khó khăn, vuớng mắc, cụ thể như sau: trao đổi về việc đầu tư ban đầu giữa
doanh nghiệp và các cơ quan có thẩm quyền của Campuchia rất thuận lợi nhưng khi
triển khai, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thủ tục hành chính, quy hoạch đất

đai, sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc biệt là các quy định do địa
phương đặt ra và áp dụng ngoài các chính sách của nhà nước. Đây là khó khăn cơ
bản nhất trong hoạt động đầu tư tại Campuchia. Tiềm lực về vốn, công nghệ của
doanh nghiệp Việt Nam chưa phải là mạnh; kinh nghiệm quản lý còn hạn chế, do
vậy cịn gặp rất nhiều khó khăn trong q trình đầu tư, kinh doanh tại Campuchia.
Lực lượng lao động tại Campuchia rất hạn chế, trình độ chun mơn thấp, khơng
đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn chất lượng, ý
thức, kỷ luật của lao động Campuchia kém, thường tùy tiện nghỉ việc, thêm vào đó
Campuchia có rất nhiều Lễ hội (1 năm có khoảng 30 ngày Lễ), người lao động
thường xuyên nghỉ việc để tham dự lễ hội, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong
việc thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Một số ngành nghề, lĩnh vực đòi
hỏi lao động trình độ cao rất khó tuyển dụng, phần lớn các doanh nghiệp phải đưa

15


lao động từ Việt Nam sang, dẫn đến phải tăng chi phí đầu tư. Cơ sở hạ tầng chưa
đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư, dịch vụ không như mong muốn, hay việc
phân cấp, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa hiệu quả… ví dụ tại Lào.
Vậy nên, cũng cần phải có đánh giá thêm về các tiêu chí phân loại dự án của các
doanh nghiệp Việt Nam tại Lào để từ đó có cách nhìn nhận và đánh giá khách quan hơn
đối với từng dự án cụ thể. Thực tế các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào cũng gặp phải
những khó khăn trở ngại mang tính khách quan cần được các cơ quan của hai nước xem
xét, giải quyết, cụ thể là: Thủ tục còn rườm rà, mặc dù Lào có 90 Bộ luật, nhưng chưa
đồng bộ. Hạ tầng kỹ thuật của Lào yếu kém, việc triển khai thực hiện dự án đầu tư chủ
yếu tập trung vào mùa khơ, mùa mưa thì bị đình trệ nên ảnh hưởng không nhỏ đến tiến
độ thực hiện dự án đầu tư. Lao động tại chỗ thiếu và kém chất lượng, trong khi các quy
định của Lào chỉ cho phép tỉ lệ 10% lao động nước ngoài. Các dự án ký Biên bản ghi
nhớ giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng của Lào có thời hạn là 12 tháng, nhưng
phần lớn các dự án đầu tư quy mô lớn, phức tạp, việc triển khai nghiên cứu thường kéo

dài hơn, dẫn đến phải gia hạn nhiều lần... Các doanh nghiệp trồng cây công nghiệp
không được cấp đất đúng tiến độ hoặc cấp khơng đủ diện tích đất, để tái lấn chiếm đất;
Lào chưa có quy hoạch phân loại đất nên việc giao đất mất rất nhiều thời gian và tốn
thêm chi phí của doanh nghiệp.
1.2.3. Tác động của môi trường nước sở tại đối với doanh nghiệp Việt Nam
kinh doanh ở nước ngồi
Tác động của mơi trường nước sở tại có ảnh hưởng khơng nhỏ đến doanh
nghiệp Việt Nam khi hoạt động kinh doanh. Trong môi trường thuận lợi về điều
kiện tự nhiên, con người, pháp luật tạo sự kinh doanh cạnh tranh bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh phát triển. Cụ thể
như tại Campuchia: Quan hệ hữu nghi ̣hơ ̣p tác truyề n thố ng giữa hai nước luô
đươ ̣c duy trì và ngay càng phát triể n tớ t đe ̣p

n

. Chính phủ Campuchia ln dành

những ưu tiên và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư , kinh doanh
tại Campuchia. Việt Nam và Campuchia gần gũi về địa lý, hoạt động trao đổi về
kinh tế cũng như đi lại, xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động giữa 2 nước rất thuận
lợi. Tại Mianma: Hơn nửa thế kỷ qua, chính phủ và nhân dân hai nước luôn giành

16


cho nhau sự ủng hộ tinh thần và vật chất. Trong các nước ASEAN, Mianma coi
trọng quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam khơng chỉ vì Việt Nam kiên trì ủng
hộ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của Mianma ở Liên hợp quốc, các diễn đàn quốc tế
và khu vực, mà Việt Nam cịn là mơ hình tham khảo, học tập của Mianma về phá bỏ
bao vây cấm vận, đối với phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Do vậy, doanh

nghiệp Việt Nam rất thuận lợi khi đầu tư tại Mianma.
Tuy vậy, cũng có những tác động của mơi trường nước sở tại, gây khó khăn
cho doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, như khi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào
Campuchia, thì lực lượng lao động tại Campuchia rất hạn chế, trình độ chun mơn
thấp, khơng đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn
chất lượng, ý thức, kỷ luật của lao động Campuchia kém, thường tùy tiện nghỉ việc,
thêm vào đó Campuchia có rất nhiều lễ hội (1 năm có khoảng 30 ngày lễ), người lao
động thường xuyên nghỉ việc để tham dự lễ hội, gây khó khăn cho doanh nghiệp
trong việc thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Một số ngành nghề, lĩnh
vực đòi hỏi lao động trình độ cao rất khó tuyển dụng, phần lớn các doanh nghiệp
phải đưa lao động từ Việt Nam sang, dẫn đến phải tăng chi phí đầu tư.
Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của Campuchia đang trong q trình
sửa đổi, hồn thiện nên có nhiều thay đổi, không thống nhất, chưa thật sự minh bạch
và khó tiếp cận. Thêm vào đó, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa thật sự
đồng bộ làm ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách. Nhìn chung, trao đổi về việc
đầu tư ban đầu giữa doanh nghiệp và các cơ quan có thẩm quyền của Campuchia rất
thuận lợi nhưng khi triển khai, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thủ tục hành
chính, quy hoạch đất đai, sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc biệt là
các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng ngồi các chính sách của nhà nước.
Đây là khó khăn cơ bản nhất trong hoạt động đầu tư tại Campuchia.
Doanh nghiệp Việt Nam hoạt động đầu tư tại Lào còn tồn tại một số bất cập, cụ
thể như nhiều dự án đã được cấp phép chưa thực hiện theo đúng các điều khoản đã cam
kết với Chính phủ Lào, trong đó có một số dự án đầu tư quy mô lớn của doanh nghiệp
nhà nước nhưng tiến độ bị chậm lại do khó khăn về vốn cho dự án như dự án Thủy điện
Sekaman1 công suất 322 MW, dự án Sekaman 4 công suất 80MW. Một số dự án phải

17


gia hạn nhiều lần Bản ghi nhớ (MOU) và hợp đồng đã ký kết. Một số dự án nảy sinh

mâu thuẫn giữa các bên trong liên doanh hoặc trong nội bộ các nhà đầu tư Việt Nam.
Một số dự án không triển khai thực hiện hoặc chuyển nhượng dự án. Trên cơ sở phối hợp
với các bộ, ngành liên quan đánh giá tình hình thực hiện của các dự án, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư Lào đã phân loại và xếp hàng các dự án đầu tư của Việt Nam theo các mức A
(tốt), B (trung bình), C (yếu kém).
Tuy nhiên, cũng cần phải có đánh giá thêm về các tiêu chí phân loại dự án của các
doanh nghiệp Việt Nam tại Lào để từ đó có cách nhìn nhận và đánh giá khách quan hơn
đối với từng dự án cụ thể. Thực tế các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào cũng gặp phải
những khó khăn trở ngại mang tính khách quan cần được các cơ quan của hai nước xem
xét, giải quyết.
Với thị trường Liên bang Nga, theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp xuất nhập
khẩu Việt Nam, thị trường Nga tuy tiềm năng nhưng hiện cũng gặp không ít khó
khăn. Trong đó, những khó khăn chủ yếu là thủ tục thanh tốn chưa thuận lợi, thiếu
thơng tin về thị trường, khơng có văn phịng đại diện, hệ thống phân phối chưa phù
hợp, thiếu một địa điểm kinh doanh ổn định, tập trung và uy tín...
1.3. Vai trị của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài
Trong những năm qua, doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngồi, có
vai trị trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và nước tiếp nhận đầu tư.
Thực hiện đúng các quy định pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam và
nước sở tại. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa doanh
nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước được sửa đổi bổ sung kịp thời. Ví dụ như, Luật
đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005, thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam ngày 12/11/1996 và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ngày
22/6/1994. Đây cũng là thời điểm Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) với những cam kết mạnh mẽ về mở cửa thị
trường hàng hóa, dịch vụ và tự do hóa hoạt động đầu tư. Luật đầu tư và các hiệp
định thương mại song phương và đa phương đã giúp cho doanh nghiệp Việt Nam
hoạt động kinh doanh, ở nước ngoài giành nhiều cơ hội, cụ thể như:
1.3.1. Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước sở tại


18


Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, tính đến hết tháng
02/2011, Việt Nam có 575 dự án đầu tư ra 55 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng
vốn đầu tư đạt trên 10 tỷ Đô la Mỹ.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, tính đến hết tháng 5/2012,
Việt Nam có 214 dự án đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đầu tư sang Lào còn hiệu lực,
với tổng vốn đăng ký đầu tư đạt trên 3,45 tỷ USD. Lào đứng thứ nhất trong tổng số 60
quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam và Việt
Nam hiện đứng vị trí thứ 3 trong tổng số 52 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu
tư trực tiếp tại Lào. Năm 2011, Việt Nam có 15 dự án đầu tư được cấp Giấy chứng nhận
đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 477,4 triệu USD, tương đương năm 2010, đứng
vị trí thứ 2 trong tổng số 19 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư của các doanh nghiệp
Việt Nam trong năm 2011; trong 6 tháng đầu năm 2012 đã có 7 dự án được cấp với tổng
vốn đầu tư khoảng 42,1 triệu USD [6].
Các dự án mới được Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đầu
tư sang Lào gồm: dự án thủy điện Nậm Cơng 2&3 của CTCP Thủy điện Hồng Anh Gia
Lai (134,9 triệu USD); dự án thủy điện Sê kông 3 thượng và hạ lưu của Tập đồn Sơng
Đà (275,2 triệu USD); dự án thành lập Công ty TNHH Đầu tư SBS Lào của CTCP
Chứng khốn Ngân hàng Sài Gịn Thương Tín (chuyên đầu tư mua cổ phần các doanh
nghiệp trong lĩnh vực thủy điện, khai khống, ngân hàng, tài chính, nơng sản..) (20 triệu
USD); dự án khai thác chế biến quặng sắt của CTCP Khống sản Hồng Anh Gia Lai
(15,6 triệu USD), dự án kinh doanh xăng dầu tại Lào (Petrolimex Lào) của Tổng Công ty
Xăng dầu Việt Nam (4,5 triệu USD); dự án thành lập chi nhánh Ngân hàng Thương mại
cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank) tại Lào với tổng vốn đầu tư 11 triệu
USD…
Đầu tư của Việt Nam tại Lào tập trung vào các lĩnh vực: thư nhất là năng lượng,
với tổng vốn đầu tư 1,06 tỷ USD chiếm 32,1% tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp Việt
Nam tại Lào; thứ hai là lĩnh vực dịch vụ, nghệ thuật, giải trí, với tổng vốn đầu tư trên 1 tỷ

USD, chiếm 32% (trong đó lớn nhất là dự án đầu tư phát triển sân golf, khách sạn 5 sao
và nhà villa tại thủ đô Viên Chăn với tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD); thứ ba là lĩnh vực nông
lâm nghiệp, với tổng vốn đầu tư khoảng 526 triệu USD, chiếm 15,4%; thứ tư là lĩnh vực

19


×