Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN VIỆT NGA

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN THANH TOÁN
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VIỆT NGA

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN THANH TOÁN
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương

HÀ NỘI - 2012

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI KHOẢN THANH

7

TOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÀI KHOẢN THANH TOÁN
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

1.1.

Những vấn đề lý luận về tài khoản thanh tốn

7


1.1.1.

Lược sử hình thành tài khoản thanh tốn

7

1.1.2.

Khái niệm, đặc điểm của tài khoản thanh toán

11

1.1.2.1. Khái niệm

11

1.1.2.2. Đặc điểm của tài khoản thanh tốn

15

1.1.3.

16

Vai trị của tài khoản thanh toán trong nền kinh tế

1.1.3.1. Đối với khách hàng

18


1.1.3.2. Đối với ngân hàng

18

1.1.3.3. Đối với nền kinh tế

19

1.1.4.

Phân loại tài khoản thanh toán

19

1.1.5.

Bản chất pháp lý của tài khoản thanh toán

22

1.2.

Pháp luật về tài khoản thanh toán

24

1.2.1.

Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về tài khoản thanh toán


25

1.2.2.

Nội dung của pháp luật về tài khoản thanh toán

25

1.2.3.

Khái quát tình hình pháp luật về mở và sử dụng tài khoản
thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay

26

4


Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MỞ VÀ SỬ DỤNG

29

TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

2.1.


Quy định về chủ thể quản lý, mở và sử dụng tài khoản
thanh toán

29

2.1.1.

Chủ thể cung ứng tài khoản thanh tốn

29

2.1.2.

Chủ thể mở tài khoản thanh tốn

30

2.2.

Quy định về hình thức, điều kiện và thủ tục mở tài khoản
thanh tốn

34

2.2.1.

Hình thức mở tài khoản thanh toán

34


2.2.2.

Điều kiện và thủ tục mở tài khoản

37

2.2.2.1. Đối với tổ chức

37

2.2.2.2. Đối với cá nhân

41

2.2.2.3. Đối với đồng chủ tài khoản

45

2.3.

Quy định về sử dụng tài khoản thanh toán

47

2.3.1.

Nội dung sử dụng tài khoản

47


2.3.2.

Phương thức sử dụng tài khoản thanh toán

53

2.3.3.

Sử dụng tài khoản bằng ngoại tệ

55

2.4.

Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên

57

2.4.1.

Quyền và nghĩa vụ của chủ tài khoản

57

2.4.1.1. Sử dụng tài khoản thanh toán

57

2.4.1.2. Phong tỏa tài khoản thanh tốn


60

2.4.1.3. Đóng tài khoản thanh tốn

61

2.4.2.

Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng

61

2.4.2.1. Quản lý tài khoản thanh toán của khách hàng

61

5


2.4.2.2. Phong tỏa tài khoản thanh tốn

63

2.4.2.3. Đóng tài khoản thanh toán

64

2.5.

Quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động

mở và sử dụng tài khoản thanh toán

67

2.6.

Quy định thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động quản lý và
sử dụng tài khoản thanh tốn

68

Chương 3:

72

ĐỊNH HƯỚNG HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MỞ
VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ

3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về mở và sử dụng tài
khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở việt nam

72

3.2.

Một số kiến nghị


74

3.2.1.

Nhóm kiến nghị về đảm bảo an tồn cho hoạt động nghiệp vụ

74

3.2.2.

Nhóm kiến nghị về bảo vệ quyền, lợi ích của chủ sở hữu tài
khoản thanh tốn

78

3.2.3.

Nhóm kiến nghị về đơn giản hóa thủ tục mở và sử dụng tài
khoản thanh tốn

90

3.2.4.

Kiến nghị về bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba

81

KẾT LUẬN


83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84

6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hòa chung với xu hướng phát triển của thời đại, Việt Nam đã và đang
tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bởi đây là con
đường tất yếu để các nước đang phát triển có thể thoát khỏi nghèo nàn và lạc
hậu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực
xây dựng các chính sách để hiện đại hóa lĩnh vực thanh tốn nhằm thực thi có
hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ
quan quản lý nhà nước, minh bạch hóa nền kinh tế, góp phần tích cực vào
cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí; thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Việt Nam, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay việc
sử dụng tiền mặt để thanh toán trong nền kinh tế là khá phổ biến, gây tốn kém
trong việc in ấn, vận chuyển và sử dụng tiền; đồng thời hạn chế về hiệu quả
sử dụng vốn cũng như khó kiểm sốt những giao dịch tiền mặt khơng hợp
pháp, khó kiểm sốt thuế của các tổ chức, cá nhân. Thêm vào đó, hệ thống
ngân hàng không tận dụng được nguồn vốn lớn tiềm tàng, nhàn rỗi trong dân,
không giải quyết được bài tốn hóc búa về huy động vốn, tăng đầu tư vốn vào
nền kinh tế quốc dân.

Để giải quyết bài toán này, Quyết định số 101/NH-QĐ ngày 30/7/1991
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành thể lệ thanh toán qua Ngân hàng
và Thông tư số 110/1991/TT-NHNN ngày 20/8/1991 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam hướng dẫn thực hiện thể lệ thanh toán qua Ngân hàng ra đời đã đánh
dấu một bước tiến mới đưa tài khoản thanh toán thành một phần trong cơ cấu
thanh toán của nền kinh tế. Tuy nhiên, với thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt
của người dân, việc thanh tốn khơng dùng tiền mặt nói chung và việc sử dụng
tài khoản tiền gửi thanh tốn nói riêng vẫn còn xa lạ với đa số người dân.

7


Để đẩy mạnh thanh tốn khơng dùng tiền mặt, năm 2007 Chính phủ
đã có chỉ thị u cầu trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương
từ ngân sách nhà nước. Năm 2008, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
129/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia
tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thuế giá trị gia tăng quy định rõ tại Khoản 1.3 Mục III Phần B: "Hàng hoá,
dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn trên hai mươi triệu đồng theo giá đã
có thuế giá trị gia tăng nếu khơng có chứng từ thanh tốn qua ngân hàng thì
khơng được khấu trừ" [12]. Đó là những bước đi quan trọng đưa hoạt động
mở và sử dụng tài khoản thanh toán từng bước trở thành một trong những nhu
cầu thiết yếu của mọi tổ chức, cá nhân tại Việt Nam. Cung ứng dịch vụ này
cũng là một trong những nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại.
Ngày 16/6/2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã được Quốc
hội khóa X2, kỳ họp thứ 7 thơng qua và có hiệu lực từ 01/01/2011. Luật đã có
những thay đổi cơ bản về khái niệm "Tài khoản thanh toán". Tuy nhiên, cho
tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn Luật về vấn đề này,
do đó việc mở và sử dụng tài khoản thanh tốn vẫn đang được thực hiện theo

Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
ban hành "Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
và Tổ chức tín dụng" (sau đây gọi tắt là Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN)
và các quy định có liên quan tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Giao dịch
điện tử năm 2005, các hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về cung ứng dịch
vụ thanh toán... Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các quy định này còn chưa cụ
thể, chưa đáp ứng và dự liệu được các giao dịch ngày càng phức tạp và ẩn
chứa nhiều rủi ro trong hoạt động sử dụng tài khoản thanh tốn; ngồi ra, cịn
có một số nội dung chưa phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010
(như về khái niệm tài khoản thanh toán, kỳ hạn số dư tiền gửi trên tài khoản
thanh toán) hoặc việc áp dụng trên thực tế cịn gặp vướng mắc và khơng

8


thống nhất, gây lúng túng cho các bên tham gia giao dịch cũng như đối với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ - thông tin, các giao dịch
điện tử, các giao dịch thông trên ATM, internet banking, mobile banking ngày
càng phổ biến và được người sử dụng dịch vụ ưa chuộng vì những tiện ích ưu
việt của nó. Tuy nhiên các rủi ro tiền ẩn được được dự liệu và điều chỉnh trong
các quy định pháp luật đã dẫn đến những lúng túng trong quá trình thực hiện.
Từ những thực tế phát sinh trong hoạt động mở và thanh toán qua
ngân hàng trong thời gian qua, tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Pháp luật về hoạt
động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt
Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004 được ban hành đã có
một số cơng trình nghiên cứu khoa học về việc mở và sử dụng tài khoản thanh

toán tại các ngân hàng, nhưng các cơng trình này chỉ nghiên cứu về hoạt động
này dưới góc độ kinh tế như Khóa luận tốt nghiệp "Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về hợp đồng tài khoản tiền gửi thanh toán" của Vũ Thị Hợp (Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2004); "Chế độ mở và sử dụng tài khoản thanh toán ở
các ngân hàng thương mại - một vài ý kiến đề xuất" của Trần Thảo Nguyên
(Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007);… Tuy nhiên, sau khi Luật Các tổ chức
tín dụng năm 2010 ra đời cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu chun sâu và riêng biệt về pháp luật điều chỉnh hoạt động mở và sử
dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Do vậy,
việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản
thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam" vẫn mang tính cấp thiết
cần phải nghiên cứu và làm sáng rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong
giai đoạn hiện nay.

9


3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu những vấn đề pháp lý và
thực tiễn về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở
Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp và kiến
nghị nhằm thúc đẩy hoạt động thanh toán qua Ngân hàng.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Từ mục tiêu tổng quát nêu trên đó, mục tiêu cụ thể được xác định là:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và pháp luật về mở và sử dụng tài
khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại như khái niệm, đặc điểm, bản
chất pháp lý của tài khoản thanh toán; khái niệm, đặc điểm của pháp luật về
tài khoản thanh toán, nội dung của pháp luật về tài khoản thanh tốn.
- Phân tích thực trạng pháp luật về tài khoản thanh toán tại các ngân

hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, từ đó phát hiện những bất cập, tồn tại
về mặt pháp lý trong thực tiễn áp dụng tài khoản thanh toán.
- Trên cơ sở những bất cập, học viên đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và phát triển hệ thống pháp luật về tài khoản
thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài được nghiên cứu khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã có
hiệu lực thi hành được một thời gian nhưng cho đến nay vẫn chưa có các văn
bản hướng dẫn về vấn đề nghiên cứu cũng như chưa có những sửa đổi, bổ
sung tương ứng đối với các văn bản quy phạm hiện hành về hoạt động mở và
sử dụng tài khoản thanh toán.
Theo Quyết định số 2367/QĐ-NHNN ngày 07/10/2010 của Ngân hàng
Nhà nước về việc phê duyệt Danh mục văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng (Sau đây

10


gọi tắt là Quyết định số 2367/QĐ-NHNN), trong quý IV/2011 Ngân hàng Nhà
nước sẽ chủ trì soạn thảo thơng tư của Ngân hàng Nhà nước quy định về mở, sử
dụng tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại
để thay thế Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN. Tuy nhiên, cho tới thời điểm
hiện tại văn bản thay thế vẫn chưa được ban hành.
Vì vậy, với đề tài này, học viên tập trung nghiên cứu pháp luật hiện
hành về tài khoản thanh tốn, đồng thời phân tích thực hiện hoạt động thanh
toán qua tài khoản tại ngân hàng thương mại nhằm tìm ra những điểm bất cập,
từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được giới hạn trong các văn bản quy phạm
pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng

thương mại ở Việt Nam, bao gồm tài khoản tiền Việt Nam đồng, tài khoản
ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân người cư trú và người không cư trú.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được thực hiện từ khi Nghị định số
64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ra đời đến nay (sau đây gọi tắt là
Nghị định số 64/2001/NĐ-CP).
Trong đối tượng và phạm vi nghiên cứu, học viên tập trung nghiên
cứu thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh tốn và khơng đề cập sâu đến
nghiệp vụ dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại như thanh tốn thẻ,
séc, thư tín dụng.... cũng như những nghiệp vụ kế toán ngân hàng đối với các
dịch vụ thanh tốn đó.
6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu, học viên tập trung nghiên cứu những
nội dung dưới đây:

11


- Một số vấn đề lý luận và pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh
toán tại các ngân hàng thương mại như khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý
của tài khoản thanh toán; khái niệm, đặc điểm của pháp luật về tài khoản
thanh toán, nội dung của pháp luật về tài khoản thanh toán....
- Thực trạng pháp luật về tài khoản thanh toán tại các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam hiện nay, từ đó phát hiện những bất cập, tồn tại về
mặt pháp lý trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tài khoản thanh tốn.
- Kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật và phát triển hệ thống pháp luật về
tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
6.2. Địa điểm nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, học viên tập trung nghiên cứu thực trạng

áp dụng pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh tốn tại các ngân hàng
thương mại có trụ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội - là nơi tập trung trụ sở
của nhiều ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam như: Ngân hàng Thương
mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội;…
6.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, phương pháp thu thập và tổng hợp thơng tin, so sánh,
phân tích, đối chiếu… từ đó rút ra những vấn đề cịn tồn tại trong hệ thống
pháp luật và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tài khoản thanh toán và pháp luật
về tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh
toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật về mở và sử dụng tài khoản
thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI KHOẢN THANH TOÁN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÀI KHOẢN THANH TOÁN
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI KHOẢN THANH TỐN


1.1.1. Lược sử hình thành tài khoản thanh tốn
Có thể nói, sự hình thành của tài khoản thanh tốn gắn liền với lịch sử
hình thành của phương thức thanh toán qua Ngân hàng:
Vào thời kỳ đầu của nền sản xuất hàng hóa, các quan hệ trao đổi là
trao đổi trực tiếp, hàng đổi hàng, đòi hỏi các bên phải đáp ứng được cả nhu
cầu giá trị sử dụng, về giá trị trao đổi, về thời gian và địa điểm. Nhưng quan
hệ trao đổi trực tiếp càng ngày càng trở nên kìm hãm sản xuất, tạo ra những
mâu thuẫn của nền sản xuất xã hội, từ đó dẫn đến một nhu cầu thiết yếu phải
tìm kiếm và thay thế phương thức trao đổi cũ bằng một phương thức trao đổi
mới tiến bộ hơn, đó là hình thái trao đổi hàng hóa - tiền tệ. Bản chất của
phương thức này là tìm ra một thứ hàng hóa làm trung gian thanh tốn - loại hàng
hóa đặc biệt mà con người có thể dùng nó để đổi lấy bất kỳ thứ hàng hóa nào.
Hình thái tiền tệ đầu tiên là những hàng hóa phổ thơng trong trao đổi
và tiêu dùng như lúa gạo, muối, vải… sau đó là những vật phẩm quý hiếm và
khó kiếm hơn như vỏ sị, lơng thú, kim loại… Tuy nhiên, giá trị của nó bị suy
giảm nhiều do bị hao mịn theo thời gian hoặc do được sản xuất ngày càng
nhiều hơn, mặt khác lại cần có chi phí bảo quản cao. Vì vậy, tiền kim loại ra
đời, trong đó có tiền vàng. Tuy nhiên, dần dần vàng cũng trở nên khan hiếm.
Do đó, tiền giấy đã dần dần thay thế tiền vàng và được coi là phương tiện
thanh toán rất hữu hiệu do tính ưu việt của nó là chi phí sản xuất rẻ, có tính
bền vững cao và khơng bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, tiền

13


giấy vẫn có nhược điểm là dễ bị làm giả và việc phát hành nó đơi khi bị chi
phối bởi ý chí chủ quan của Chính phủ - nhà phát hành.
Khi nền sản xuất càng phát triển thì những hạn chế của việc thanh
toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ. Việc vận chuyển khối lượng tiền mặt
lớn để thanh toán giữa các khu vực địa lý ở rất xa nhau, thậm chí là ở những

quốc gia, những châu lục khác nhau trở nên khó khăn vì chi phí vận chuyển,
bảo vệ cao nhưng độ an tồn lại thấp. Đó là điều kiện cho một phương thức
thanh toán mới ra đời - phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt mà
trung gian thực hiện là các ngân hàng. Với phương thức này, các bên có thể
thanh tốn cho nhau từ xa mà không dùng tiền mặt và không cần trực tiếp
gặp nhau. Điều kiện là các bên phải mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng
và thực hiện thanh toán qua Ngân hàng. "Trên cơ sở tài khoản và tiền gửi
trong tài khoản ở ngân hàng, việc thanh toán được thực hiện thông qua ngân
hàng bằng cách ngân hàng sẽ ghi chuyển từ tài khoản của người chi cho
người thụ hưởng" [46].
Với những mục đích sử dụng khác nhau, khách hàng có thể mở nhiều
loại tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng để thực hiện các giao dịch phù hợp. Tại Mỹ,
tiền gửi được phân thành hai loại: tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch.
* Tiền gửi giao dịch:
"Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng
cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Tiền gửi
giao dịch địi hỏi ngân hàng phải thanh tốn ngay lập tức các lệnh rút tiền cho
một cá nhân hay bên thứ ba, được chỉ rõ là người thụ hưởng" [37].
* Tiền gửi phi giao dịch:
Tài khoản tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của
người muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho
một nhu cầu về tài chính được dự tính trong tương lai. Lãi suất áp
dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch.

14


Trong khi chi phí trả lãi cao, chi phí duy trì và quản lý đối với tài
khoản tiền gửi tiết kiệm nói chung thấp.
Một số ngân hàng đưa ra tài khoản tiết kiệm thơng báo

(statement savings deposits) trong đó thơng qua việc truy nhập trên
máy vi tính, khách hàng sẽ nhận được các bản thống kê thể hiện số
tiền gửi, lệnh rút tiền, lãi và số dư của tài khoản hàng tháng. Tuy
nhiên nhiều ngân hàng vẫn sử dụng tài khoản tiết kiệm lập sổ
truyền thống. Theo phương pháp này, khách hàng được cấp một
cuốn sổ mỏng ghi nhận số dư của tài khoản, thu nhập lãi, tiền gửi,
cũng như các quy định ràng buộc cả hai bên và người gửi tiền phải
trình quyền sổ này cho người thu ngân khi gửi hay rút tiền.
Từ nhiều năm nay, những người giàu có và các doanh
nghiệp được cung cấp tài khoản tiền gửi kỳ hạn trả lãi suất cố định
với kỳ hạn xác định (thường kéo dài 30, 60, 90 hay 180 ngày).
Cơ cấu tiền gửi ở Mỹ năm 1996 là: Tiền gửi giao dịch
21,1% và Tiền gửi phi giao dịch 78,9% (trong đó Tiền gửi tiết kiệm
chiếm 39,8%, Tiền gửi kỳ hạn chiếm 38,1%) [37].
Tương tự, với hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành, các loại tiền
gửi của khách hàng tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay bao gồm
tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi vốn chuyên dùng và tiền ký
quỹ (Báo cáo tài chính riêng lẻ Quý 2/2012 của ngân hàng thương mại cổ
phần Quân đội, ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, ngân
hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam). Phân theo loại tài
khoản tiền gửi gồm có:
* Tài khoản thanh tốn: Là tài khoản phản ánh số tiền mà khách hàng
gửi vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là thực hiện các giao dịch thanh toán
qua ngân hàng. Khoản tiền này khách hàng có thể gửi vào hoặc rút ra bất cứ
lúc nào, do đó nó cịn được gọi là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn hay tài

15


khoản tiền gửi giao dịch. Mục đích chính của tài khoản này là để thanh tốn

qua ngân hàng, mục đích hưởng lãi chỉ là thứ yếu. Thông qua tài khoản này,
ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán thu - chi hộ, rút tiền, chuyển tiền
mặt, séc chuyển tiền, séc bảo chi, séc chuyển khoản… cho chủ tài khoản. Tài
khoản thanh tốn được áp dụng đối với mọi hình thức thanh tốn khơng dùng
tiền mặt. Ưu điểm của loại tài khoản này so với tài khoản khác là khách hàng
có thể vay tạm thời ngân hàng nếu được chấp thuận (thấu chi). Như vậy, tài
khoản này có thể dư có hoặc dư nợ phản ánh cả hai q trình huy động vốn và
sử dụng vốn.
* Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: Là tài khoản phản ánh số tiền gửi của
khách hàng (cá nhân hoặc doanh nghiệp) gửi theo một kỳ hạn nhất định tại
ngân hàng. Đối tượng chính mở tài khoản này là các doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế nhưng họ đã đưa ra được kế hoạch thu chi tài chính. Ngồi ra,
những khách hàng cá nhân thuộc nhóm có nguồn vốn lớn, Mục đích gửi tiền
vào ngân hàng là nhằm kiếm lợi tức. Đối với các ngân hàng, tiền gửi có kỳ
hạn là nguồn vốn ổn định ngân hàng có thể sử dụng trong kinh doanh.
* Tài khoản tiền gửi tiết kiệm: Là tài khoản phản ánh số tiền gửi của
khách hàng cá nhân vào ngân hàng để tiết kiệm hưởng lãi. Tài khoản tiền gửi
tiết kiệm bao gồm hai loại:
- Tài khoản tiết kiệm khơng kỳ hạn: với hình thức này, người gửi có
thể gửi nhiều lần và có thể rút ra bất cứ khi nào theo nhu cầu sử dụng mà
không phải báo trước nhưng khác với Tài khoản thanh toán là khách hàng
khơng được hưởng các dịch vụ thanh tốn nhưng được trả lãi suất cao hơn.
- Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm gửi
vào ngân hàng với mục đích tích luỹ hưởng lãi suất cao trong một khoảng thời
gian nhất định. Đối tượng mở tài khoản này là các gia đình, cá nhân. tài khoản
này tương đối ổn định và ít rủi ro nhất, được ngân hàng thương mại sử dụng
chủ yếu để kinh doanh, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng.

16



* Tài khoản ký quỹ: đảm bảo thanh toán L/C phát hành tại ngân hàng
thương mại, đảm bảo thanh toán cho chứng thư bảo lãnh do ngân hàng thương
mại phát hành, đảm bảo thanh toán séc và một số trường hợp khác, khách
hàng phải mở tài khoản ký quỹ không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn, theo đó, số tiền
trên tài khoản ký quỹ sẽ bị phong tỏa và được hưởng lãi theo thỏa thuận. Tài
khoản ký quỹ có thể do cá nhân hoặc doanh nghiệp đứng tên và bị phong tỏa
cho tới khi bên có nghĩa vụ đảm bảo bởi tài khoản kỹ quỹ hoàn thành được
nghĩa vụ. Trường hợp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, số dư trên tài khoản
ký quỹ sẽ được sử dụng để thanh toán nghĩa vụ được đảm bảo.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tài khoản thanh tốn
1.1.2.1. Khái niệm
Để có thể thực hiện thanh toán qua ngân hàng, trước tiên khách hàng
phải mở tài khoản thanh tốn. Theo Giáo trình Luật ngân hàng của Trường
Đại học Luật Hà Nội:
Tài khoản là công cụ để ghi chép, phản ánh vốn tiền tệ của
chủ tài khoản. Tài khoản được sử dụng trong thanh toán gọi là tài
khoản thanh toán. Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử
dụng dịch vụ thanh toán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước [46].
Hiện nay, đang tồn tại nhiều khái niệm về tài khoản thanh toán trong
các văn bản pháp luật. Có thể chia ra thành hai dạng khái niệm: Khái niệm tại
các văn bản ban hành trước Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và Khái niệm tại
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
- Khoản 8 Điều 3 Nghị định 64/2001/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt
động thanh tốn qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định: "Tài
khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các

17



tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước" [2].
- Khoản 1 Điều 3 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi
tại Ngân hàng Nhà nước và Tổ chức tín dụng quy định: "Tài khoản tiền gửi là
tài khoản thanh toán do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các Ngân
hàng với mục đích gửi, giữ tiền hoặc thực hiện các giao dịch thanh toán qua
Ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán" [20].
- Khoản 22 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định:
"Tài khoản thanh tốn là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng mở
tại ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng" [43].
Như vậy, để có thể hiểu tồn diện tài khoản thanh tốn là gì, cần phải
hiểu dịch vụ thanh tốn do ngân hàng cung cấp là những dịch vụ gì? Khoản 15
Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định:
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng
phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi,
ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và
các dịch vụ thanh tốn khác cho khách hàng thơng qua tài khoản
của khách hàng [43].
Như vậy, tài khoản thanh toán được hiểu là tài khoản tiền gửi không
kỳ hạn của khách hàng mở tại ngân hàng mà thơng qua đó, khách hàng sử
dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng như: phát hành phương
tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác.
Theo Điều 12 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP thì các phương tiện thanh
tốn bao gồm: Tiền mặt, séc, lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ
ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của pháp luật.


18


Như vậy, nếu hiểu theo cách như trên thì tài khoản mà thơng qua đó
Ngân hàng phát hành tiền mặt cho khách hàng cũng được coi là tài khoản
thanh toán. Theo đó tài khoản tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn cũng được coi
là tài khoản thanh toán.
Tuy nhiên, Khoản 6 Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy
định hoạt động cung ứng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại là:
- Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy
nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ
và chi hộ;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác
sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Như vậy, tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng mở tại ngân
hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy
nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ
và chi hộ; dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác được gọi
là tài khoản thanh toán. Đặc trưng của tài khoản thanh toán theo khái niệm tại
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 là:
(i) Là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn: các loại tài khoản mà số dư có
kỳ hạn đều khơng thuộc khái niệm tài khoản thanh toán;
(ii) Khách hàng mở tại ngân hàng: các tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước,
Quỹ Hỗ trợ phát triển, … đều không thuộc khái niệm tài khoản thanh toán;
(iii) Để sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng: các tài
khoản mở với mục đích khác (như gửi, giữ tiền …) đều khơng thuộc khái
niệm tài khoản thanh tốn;
Có thể nói, với khái niệm tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, tài
khoản thanh tốn có sự thay đổi cơ bản về hình thức số dư trên tài khoản.
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP nêu trên thì


19


Số dư trên tài khoản thanh tốn khơng bắt buộc phải là số dư khơng kỳ hạn
mà có thể là số dư khơng kỳ hạn hoặc số dư có kỳ hạn. Tuy nhiên, trên thực tế
hầu như rất khó thực hiện hình thức số dư có kỳ hạn trên tài khoản thanh toán
do khách hàng mở tài khoản thanh toán nhằm mục đích chính là để thanh tốn
qua ngân hàng. Bởi vậy, các ngân hàng thương mại đều áp dụng số dư tiền
gửi không kỳ hạn đối với tài khoản thanh toán (trừ một số giao dịch đặc thù
như: ngân hàng thương mại thỏa thuận bằng văn bản với khách hàng về việc
khách hàng cam kết duy trì một số dư tiền gửi nhất định trên tài khoản trong
một thời hạn nhất định).
Trước thực tế đó, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã có sự thay
đổi phù hợp về khái niệm tài khoản thanh tốn. Theo đó, số dư tiền gửi trên
tài khoản thanh tốn phải là khơng kỳ hạn và để sử dụng các dịch vụ thanh
toán do ngân hàng cung ứng.
Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa
ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 nói chung
và hướng dẫn về tài khoản thanh tốn nói riêng. Do đó, hiện tại các ngân hàng
đều thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tài khoản thanh toán dựa trên các quy
định của Nghị định số 64/2001/NĐ-CP và Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN.
Theo đó, tài khoản tiền gửi thanh toán (theo định nghĩa của Quyết định số
1284/2002/QĐ-NHNN) vẫn có thể thực hiện dưới hình thức số dư có kỳ hạn.
Hơn nữa, tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng được coi là một tài khoản
thanh tốn. Trong khi đó, Khoản 6 Điều 6 Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN
ngày 13/09/2004 của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế về tiền
gửi tiết kiệm quy định: "Tài khoản tiền gửi tiết kiệm là tài khoản đứng tên
một cá nhân hoặc một số cá nhân và được sử dụng để thực hiện một số giao
dịch thanh toán" [21].

Mặt khác, theo Điều 11 Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN thì tài khoản
tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng để phát hành séc và thực hiện các giao

20


dịch thanh toán mà chỉ được sử dụng để chuyển khoản thanh tốn tiền vay của
chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại
tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển sang tài khoản khác do chính
chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ
tài khoản tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó.
Như vậy, tài khoản tiền gửi tiết kiệm chỉ được sử dụng để thực hiện
02 giao dịch thanh tốn đặc thù nêu trên. Ngồi hai giao dịch thanh tốn đặc
thù đó, mục đích chính của tài khoản tiền gửi tiết kiệm là gửi, giữ tiền và
hưởng lãi. Do đó, tài khoản tiền gửi tiết kiệm khơng có đầy đủ các đặc trưng
(i) và (iii) theo khái niệm tài khoản thanh toán của Luật Các tổ chức tín dụng
năm 2010 đã nêu ở trên.
Ngồi tài khoản tiền gửi tiết kiệm, chỉ được áp dụng cho khách hàng
cá nhân, Ngân hàng có thể ký‎kết các hợp đồng tiền gửi với cả khách hàng cá
nhân và khách hàng doanh nghiệp cũng với mục đích để gửi, giữ tiền và
hưởng lãi. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước chưa có văn bản quy phạm hướng
dẫn cũng như điều chỉnh hợp đồng tiền gửi giữa khách hàng và Ngân hàng.
Do đó, nghiệp vụ huy động vốn theo hình thức hợp đồng tiền gửi đang được
ngân hàng thương mại thực hiện dưới sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Để
quản lý các hợp đồng tiền gửi, Ngân hàng mở các tài khoản tương ứng. Tuy
nhiên, cũng tương tự như tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tài khoản mở theo hợp
đồng tiền gửi khơng có đầy đủ các đặc trưng (i) và (iii) theo khái niệm tài
khoản thanh toán của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã nêu ở trên.
1.1.2.2. Đặc điểm của tài khoản thanh tốn
Có thể nói, hai loại tài khoản phổ biến nhất trong các nghiệp vụ ngân

hàng, đồng thời cũng là hai loại tài khoản được khách hàng sử dụng nhiều nhất
là tài khoản thanh toán và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Bởi vậy, việc nghiên cứu
những đặc điểm của tài khoản thanh toán trong sự so sánh với tài khoản tiền
gửi tiết kiệm sẽ giúp làm sáng rõ hơn những đặc trưng của loại tài khoản này.

21


Tài khoản thanh toán và tài khoản tiền gửi tiết kiệm đều mang những
đặc điểm chung của tài khoản. Theo đó, tài khoản thanh tốn và tài khoản tiền
gửi tiết kiệm đều là công cụ để ghi chép, phản ánh vốn tiền tệ của chủ tài
khoản. Tuy nhiên, hai loại tài khoản này có những điểm khác nhau dưới đây:
- Về mục đích sử dụng:
Có thể nói, đặc điểm đặc trưng nổi bật của tài khoản thanh tốn là mục
đích sử dụng của loại tài khoản này. Thay vì mục đích gửi, giữ tiền như tài
khoản tiết kiệm, chủ sở hữu tài khoản thanh toán sử dụng tài khoản này để
thực hiện các giao dịch thanh toán. Các giao dịch thanh toán rất đa dạng như
giao dịch thanh toán trong nước, giao dịch thanh toán quốc tế, giao dịch thu
hộ, chi hộ… và các giao dịch khác theo yêu cầu của chủ sở hữu tài khoản
thanh toán phù hợp với quy định pháp luật.
- Về kỳ hạn của số dư tiền gửi:
Thơng thường, các giao dịch thanh tốn của chủ sở hữu diễn ra thường
xuyên và liên tục, vì vậy thay vì mang tính chất tĩnh và ổn định như tài khoản
tiền gửi tiết kiệm, tài khoản thanh toán thường mang tính chất động và thường
xun thay đổi. Do đó, tài khoản thanh toán bắt buộc phải là số dư không kỳ
hạn trong khi tài khoản tiền gửi tiết kiệm có thể có số dư có kỳ hạn hoặc
khơng có kỳ hạn.
Ngồi ra, thay vì chỉ được phép mở cho cá nhân như tài khoản tiền gửi
tiết kiệm thì tài khoản thanh toán được mở cho cả cá nhân và tổ chức, bao
gồm cả Kho bạc nhà nước và các Tổ chức tín dụng trong và ngồi nước. Hơn

nữa, nếu như đối tượng được mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ chỉ
là cá nhân người cư trú, thì tài khoản thanh tốn được mở cho cả người cư trú
và người không cư trú nếu đáp ứng các điều kiện quy định.
1.1.3. Vai trò của tài khoản thanh toán trong nền kinh tế
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tiền tệ đã ra đời và ngày
càng phát triển và hiện đại hơn. Tiền trong lưu thông bao gồm hai bộ phận là

22


tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền ghi sổ) bởi vậy, hoạt động thanh toán
cũng được thực hiện theo hai phương thức là thanh toán bằng tiền mặt và
thanh toán khơng dùng tiền mặt.
Thanh tốn bằng tiền mặt là q trình thanh tốn tiền hàng hố trực
tiếp trong đó có một lượng tiền mặt tương ứng với giá trị vật tư hàng hoá
được trao đổi, vận động ngược chiều với sự vận động của vật tư hàng hố đó.
Cách thức tiền tệ này chỉ phù hợp với nền kinh tế khi sản xuất hàng hố cịn ở
trình độ thấp, sản phẩm hàng hố dịch vụ khơng nhiều và hoạt động mua bán
chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp. Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá
phát triển, với khối lượng hàng hoá được trao đổi lớn phạm vi mua bán rộng
thì cách thức thanh tốn bằng tiền mặt đã bộc lộ các nhược điểm như: chi phí
in ấn, vận chuyển bảo quản và kiểm đếm lớn, tốc độ thanh tốn chậm, khả
năng đảm bảo an tồn khơng cao, hơn nữa với một khối lượng tiền mặt cần
thiết trong lưu thơng q lớn dễ gây nên tình trạng lạm phát. Thực tế khách
quan đó địi hỏi phải có một cách thức thanh tốn mới, tiên tiến hơn chính vì
vậy thanh tốn khơng dùng tiền mặt đã ra đời và nhanh chóng chiếm ưu thế
trong nền kinh tế.
"Thanh tốn khơng dùng tiền mặt là quan hệ thanh toán được thực
hiện và tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của đơn vị này sang tài
khoản của đơn vị khác hoặc bù trừ lẫn nhau giữa các đơn vị thông qua ngân

hàng" [15].
Khi nền kinh tế thị trường phát triển thì thanh tốn khơng dùng tiền
mặt nói chung và thanh tốn bằng tài khoản thanh tốn nói riêng có vị trí vơ
cùng quan trọng. Việc thanh tốn qua tài khoản đã mang lại hiệu quả kinh tế
cao và là một phần không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế, điều đó đã
khẳng định vai trị đặc biệt quan trọng của thanh tốn qua tài khoản cũng như
vai trị của tài khoản thanh tốn trong nền kinh tế. Vai trị này được thể hiện
trên các khía cạnh sau đây.

23


1.1.3.1. Đối với khách hàng
Đối với tiền gửi thanh toán, ngồi tiền lãi khách hàng cịn được cung
cấp các dịch vụ thanh tốn để đảm bảo an tồn, nhanh chóng, tiện lợi trong
thanh toán như: séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ ATM …
Việc thanh toán qua tài khoản cịn mang lại lợi ích kinh tế lớn cho
khách hàng, nhờ tiết kiệm được các chi phí vận chuyển, chi phí kiểm đếm…
từ đó, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Không những vậy, thanh tốn qua tài khoản cịn tiện lợi, chính xác, an
tồn và bảo mật cho khách hàng khi sử dụng. Đặc biệt với dịch vụ thanh toán
điện tử, chỉ bằng một lệnh của chủ tài khoản, giao dịch có thể được thực hiện
ngay lập tức, khơng kể thời gian.
Hơn nữa, sự đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực
thanh toán, nhất là các loại thẻ ngân hàng, đã và đang được các ngân hàng
thương mại cung cấp, tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn sao
cho có lợi nhất: tính tiện ích và chi phí giao dịch thấp.
1.1.3.2. Đối với ngân hàng
Để có thể thanh tốn qua tài khoản, khách hàng cần nộp tiền vào tài
khoản. Đây chính là một nguồn vốn dồi dào cho ngân hàng thương mại vì

khơng phải khách hàng nào nộp tiền vào cũng chuyển tiền đi ngay. Hơn nữa,
do số dư tiền gửi trên tài khoản thanh tốn là số dư tiền gửi khơng kỳ hạn, có
lãi suất thấp nhất so với các tài khoản tiền gửi khác nên đây là nguồn vốn giá
rẻ nhất trong các nguồn vốn huy động được của ngân hàng thương mại.
Ngồi ra hoạt động thanh tốn qua tài khoản cũng là hoạt động kinh
doanh đem lại nguồn thu nhập cho ngân hàng thương mại thơng qua các
khoản thu phí dịch vụ. Đây là nguồn thu ổn định so với các hoạt động dịch vụ
khác thường có mức rủi ro gắn liền như cấp tín dụng, kinh doanh ngoại hối...
Tăng trưởng và phát triển hoạt động dịch vụ này, tạo điều kiện cho các ngân

24


hàng tăng thu nhập, thay đổi cơ cấu thu nhập trong tổng thu nhập, nâng cao
khả năng tài chính và tạo sự phát triển bền vững.
Thanh toán qua tài khoản còn là tăng khả năng thu hút khách hàng và
đồng thời, thơng qua hoạt động thanh tốn, ngân hàng nắm được thơng tin về
tình hình tài chính khách hàng, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tìm
kiếm khách hàng, thẩm định và xét duyệt cấp tín dụng của ngân hàng thương
mại đối với khách hàng.
1.1.3.3. Đối với nền kinh tế
Là một trong các phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, vai trị
đầu tiên của tài khoản thanh tốn làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu
thơng. Từ đó, giúp giảm các chi phí liên quan như: chi phí vận chuyển, kiểm
đếm tiền mặt, đồng thời giảm áp lực tiền mặt, nạn tiền giả trong lưu thơng từ
đó góp phần ổn định tiền tệ. Hơn nữa, các giao dịch thanh toán qua tài khoản
đều được thực hiện bởi ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
quản lý vĩ mơ của Nhà nước, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, giảm thiểu
những tác động tiêu cực của các hoạt động kinh tế ngầm.
Việc thanh tốn thơng qua thẻ, thanh toán bằng dịch vụ ngân hàng

điện tử rất nhanh chóng, chính xác, an tồn và bảo mật đã giúp cho quá trình
sản xuất kinh doanh được tiến hành trôi chảy, nhịp nhàng, thúc đẩy đồng vốn
luân chuyển nhanh chóng, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hố.
Từ đó, góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển.
1.1.4. Phân loại tài khoản thanh toán
Việc phân loại tài khoản thanh tốn có ý nghĩa quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn. Điều đó thể hiện ở chỗ, dựa trên kết quả phân loại mà các
nhà làm luật có thể xây dựng những quy định điều chỉnh các loại tài khoản
thanh toán phù hợp với hoạt động thực tiễn nghiệp vụ của các Tổ chức tín
dụng. Mặt khác cũng dựa trên kết quả phân loại mà mỗi Tổ chức tín dụng có

25


thể xây dựng, hoạch định cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp, mang tính
khả thi và hiệu quả; đồng thời giúp cho các Tổ chức tín dụng có cơ sở lý luận
để xây dựng thành các quy tắc kỹ thuật nghiệp vụ tương ứng với từng loại
hình tài khoản nhằm triển khai các hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong
thực tế.
Dựa trên các tiêu chí phân loại khác nhau, tài khoản thanh toán được
phân thành nhiều loại khác nhau như dưới đây:
* Phân loại dựa trên loại hình chủ sở hữu
Theo tiêu chí phân loại này, tài khoản thanh toán được chia thành hai
loại: tài khoản thanh toán của cá nhân và tài khoản thanh toán của tổ chức.
Tài khoản thanh toán của cá nhân là tài khoản do cá nhân đứng tên mở
tài khoản với hồ sơ và thủ tục mở được quy định phù hợp. tài khoản thanh
toán của tổ chức do các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp nhà
nước, tổ chức kinh tế và tổ chức khác mở và sử dụng để phục vụ hoạt động
của tổ chức đó.
* Phân loại dựa trên số lượng chủ sở hữu

Theo tiêu chí phân loại này, tài khoản thanh toán được chia thành hai
loại: tài khoản thanh toán của một chủ sở hữu (một cá nhân hoặc một tổ chức)
và tài khoản thanh toán của nhiều đồng chủ sở hữu (nhiều cá nhân hoặc tổ
chức cùng sở hữu một tài khoản).
Tài khoản thanh toán của một chủ sở hữu được áp dụng phổ biến và
dễ dàng quản lý, sử dụng. Trong khi đó, tài khoản thanh toán của nhiều đồng
chủ sở hữu chỉ được áp dụng theo thỏa thuận giữa các đồng chủ sở hữu trong
trường hợp: nhiều bên cùng hợp tác về vốn để thực hiện những dự án cụ thể,
vợ chồng cùng lập tài khoản chung… Việc mở và quản lý tài khoản do nhiều
đồng chủ sở hữu phức tạp hơn vì phải phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên
về phương thức sử dụng tài khoản.

26


×