Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nhu cầu lập pháp của hành pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NGỌC HẢI

Nhu cầu lập pháp của hành pháp

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NGỌC HẢI

Nhu cầu lập pháp của hành pháp

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số
: 60.38.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung

Hà Nội - 2010


MỤC LỤC


Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
PHẦN MỞ ĐẦU ..............................................................................

1

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU XÂY DỰNG PHÁP
LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH PHÁP VÀ HOẠT ĐỘNG XÂY
DỰNG PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƢỚNG CHÍNH
PHỦ, BỘ TRƢỞNG, THỦ TRƢỞNG CƠ QUAN NGANG BỘ ..........

5

1. Khát quát về Nhà nước và pháp luật ...............................................

5

2. Hành pháp tham gia hoạt động lập pháp là một yêu cầu thực tiễn
được ghi nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới .....................................

8

3. Pháp luật Việt Nam khẳng định vai trò quan trọng của Chính
phủ trong hoạt động xây dựng pháp luật .............................................

14

4. Kết luận Chương I ..........................................................................


23

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP
LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ, BỘ
TRƢỞNG, THỦ TRƢỞNG CƠ QUAN NGANG BỘ ...........................

24

1. Trong những năm qua, Chính phủ và các cơ cấu của Chính phủ
đã đạt được những kết quả nhất định trong hoạt động xây dựng
pháp luật ............................................................................................

24

2. Hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ còn nhiều hạn chế,
bất cập ................................................................................................

25

2.1. Trong việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh ................

26


2.2. Công tác soạn thảo dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội .....................................................................

34


2.2.1. Trong việc soạn thảo dự án luật, pháp lệnh ...............................

34

2.2.2.Trong việc trình dự án luật, pháp lệnh ra Uỷ ban thường vụ
Quốc hội.............................................................................................

51

2.2.3. Trong việc tiếp thu, chỉnh lý các dự thảo luật giữa hai kỳ
họp Quốc hội, dự thảo pháp lệnh giữa hai phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội ............................................................................

51

2.3. Công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ .......................................................

54

2.4. Công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ .............................................

65

2.5. Kết luận Chương II ......................................................................

69


Chƣơng 3. XÁC ĐỊNH LẠI TRỌNG TÂM CƠNG VIỆC CỦA
CHÍNH PHỦ LÀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT .....................................

72

1. Giải pháp tổng thể ..........................................................................

73

2. Một số giải pháp cụ thể ..................................................................

75

KẾT LUẬN ........................................................................................

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................

79


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1: Thống kê số lượng nội dung phải chỉnh sửa trong một số 45
dự án luật.
Bảng 2: thống kê một số dự án luật trình Quốc hội không bảo đảm 47
thời gian quy định.
Bảng 3: thống kê một số dự án luật trình Quốc hội khơng bảo đảm 50
thời gian quy định.

Bảng 4: Các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính 58
phủ ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật quốc phòng.
Bảng 5: Các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật 60
quốc phòng đang soạn thảo cần được tiếp tục ban hành (tính đến tháng 8
năm 2008)./.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ở nhiều nước trên thế giới, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc tam quyền phân lập - phân chia quyền lực Nhà nước thành ba
nhánh: lập pháp - hành pháp và tư pháp.
Bộ máy Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
tổ chức theo nguyên tắc tập trung - dân chủ, quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng nhiệm vụ giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước, trong
đó Quốc hội có chức năng lập pháp, Chính phủ có chức năng hành pháp và
Tồ án có chức năng tư pháp.
Mặc dù nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước khác nhau, sự phân chia
quyền lực Nhà nước khác nhau và tính độc lập của các nhánh quyền lực khác
nhau, nhưng có thể nói ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam,
pháp luật đều quy định Chính phủ (cơ quan hành pháp) là một chủ thể (và là
chủ thể quan trọng nhất) nắm quyền soạn thảo và trình dự án pháp luật trước
Quốc hội (nghị viện).
Trong vài năm trở lại đây, ở nước ta có quan điểm cho rằng, Quốc hội
(gồm cả các cơ quan của Quốc hội) - với vai trò là cơ quan lập pháp - phải
chủ động hơn nữa trong hoạt động lập pháp, mà cụ thể là phải chủ động và
đẩy mạnh hoạt động xây dựng pháp luật, bao gồm việc trình sáng kiến pháp
luật, soạn thảo dự án pháp luật và trình dự án pháp luật ra Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội. Ở khía cạnh khác, cũng đã xảy ra hiện tượng Chính phủ,
các cơ quan của Chính phủ dường như cũng khơng mặn mà lắm với hoạt động

lập pháp.
Vậy, vấn đề đặt ra là ai (Quốc hội - bao gồm các cơ quan của Quốc
hội, hay Chính phủ - bao gồm các cơ quan của Chính phủ) là chủ thể chính

1


soạn thảo và trình dự án pháp luật? Vai trị của Chính phủ trong hoạt động
xây dựng pháp luật ở nước ta như thế nào?
Với cách tiếp cận đó, Luận văn “Nhu cầu lập pháp của hành pháp” sẽ
tìm hiểu, phân tích làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn để trả lời câu hỏi
này, qua đó đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm góp phần đẩy mạnh và
nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của nước ta hiện nay.
2. Mục đích
Với việc nghiên cứu đề tài này, tác giả muốn làm rõ một số vấn đề sau:
- Khẳng định việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
xuất phát từ nhu cầu điều hành, quản lý xã hội của Chính phủ;
- Xác định rõ vai trị của Chính phủ trong hoạt động xây dựng pháp
luật ở nước ta hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xây dựng pháp luật, trong đó
đi sâu phân tích, đánh giá sự tham gia của Chính phủ vào hoạt động xây dựng
pháp luật; qua đó chỉ ra những bất cập đối với hoạt động xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay;
- Đề xuất những giải pháp khắc phục những bất cập, nâng cao hiệu quả
hoạt động xây dựng pháp luật trong thời gian trước mắt và lâu dài.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, hoạt động xây dựng
pháp luật của cơ quan hành pháp rất rộng, bao gồm việc xây dựng, đề xuất
ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ

trưởng - Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp v.v...
Với mục đích nghiên cứu của đề tài, cùng với nguồn tư liệu hạn chế,
phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn trong hoạt

2


động xây dựng pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, bao gồm các hoạt động chủ yếu sau:
+ Soạn thảo, trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành
luật, pháp lệnh;
+ Soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng - Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chủ yếu là phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp
diễn giải, phương pháp quy nạp...
5. Tổng quan về đề tài
Đề tài là kết quả nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động
xây dựng luật, pháp lệnh, xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ cũng như thực trạng hoạt động soạn thảo luật, pháp lệnh, soạn thảo, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của bộ máy hành pháp ở trung ương.
Trong những năm qua, nhiều tác giả đã có những bài viết, tác phẩm
hoặc cơng trình nghiên cứu về hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ,
nhưng chủ yếu tiếp cận theo từng mảng công việc nhất định mà chưa nghiên
cứu một cách tổng thể, toàn diện về hoạt động này của Chính phủ. Các tài liệu
này chưa tiếp cận, đánh giá sâu về các khâu trong quy trình xây dựng luật,
pháp lệnh thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
Điểm mới của đề tài là đã tổng hợp, khái quát, hệ thống và đánh giá

được tồn bộ thực trạng tình hình hoạt động của Chính phủ trong công tác
soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả việc soạn thảo,

3


trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành luật, pháp lệnh, cả việc
soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đặc biệt đề tài đã phân
tích, đánh giá tương đối tồn diện, sâu sắc, đầy đủ về tình hình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Chính phủ trong mọi giai đoạn của quy trình xây dựng
luật, pháp lệnh cũng như chất lượng soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh trình
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành, trong đó chỉ ra nhiều hạn
chế, bất cập trong cơng tác này.
6. Bố cục của luận văn
Với mục đích và cách tiếp cận như đã nêu trên, luận văn được bố cục
như sau:
- Chương I - Cơ sở lý luận về nhu cầu xây dựng pháp luật của cơ quan
hành pháp và hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Chương II - Thực trạng hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Chương III - Xác định lại trọng tâm cơng việc của Chính phủ là xây
dựng pháp luật
- Kết luận.

4


Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU XÂY DỰNG PHÁP LUẬT CỦA
CƠ QUAN HÀNH PHÁP VÀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ, BỘ TRƢỞNG,
THỦ TRƢỞNG CƠ QUAN NGANG BỘ
1. Khát quát về Nhà nƣớc và pháp luật
Nhà nước là hình thức tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực
chính trị cơng cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích
trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh
từ bản chất của xã hội [13, tr.87].
Quá trình hình thành và phát triển Nhà nước ở các quốc gia trên thế
giới là một quá trình lịch sử lâu dài, cùng với sự vận động, phát triển của xã
hội lồi người, Nhà nước cũng dần hình thành, phát triển và từng bước hoàn
thiện nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội, phục vụ nhân dân trong xã hội đó.
Về nguồn gốc xuất hiện Nhà nước, trong lịch sử có nhiều trường phái,
học thuyết khác nhau bắt nguồn từ sự khác biệt về quan điểm tiếp cận trong
việc nghiên cứu, giải thích sự xuất hiện của Nhà nước. Chẳng hạn như theo
thuyết gia trưởng, Nhà nước chính là sự kế tục, phát triển tự nhiên của tổ chức
gia đình trên bình diện xã hội. Theo quan điểm bạo lực thì Nhà nước chính là
kết quả của các cuộc chiến tranh bạo lực mà kẻ chiến thắng có quyền thiết lập
bộ máy cai trị của mình. Theo thuyết khế ước xã hội thì Nhà nước là kết quả
của khế ước (hay hợp đồng) xã hội, đồng nghĩa với việc Nhà nước được hình
thành thơng qua sự thoả hiệp giữa các thành viên trong xã hội nhằm lập ra bộ
máy cai quản xã hội. Theo quan điểm duy tâm thì Nhà nước chính là sản
phẩm của những thế lực siêu tự nhiên như thần thánh, chúa trời..., được các
thế lực này tạo ra để cai trị xã hội, cai trị loài người.

5


Với quan điểm duy vật, Mác - Lênin đã khẳng định, Nhà nước là một

hiện tượng xã hội, nảy sinh bởi những ngun nhân xã hội, có q trình phát
sinh, phát triển và tiêu vong. Học thuyết Mác - Lênin đã chứng minh rằng, sự
hình thành, phát triển Nhà nước là một q trình tất yếu của lịch sử lồi
người, gắn liền với quá trình phát triển của xã hội. Học thuyết Mác - Lênin đã
chỉ ra rằng, lịch sử phát triển của Nhà nước đã trải qua nhiều hình thái kinh tế
- xã hội khác nhau như xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư
sản, xã hội xã hội chủ nghĩa với các kiểu Nhà nước tương ứng như Nhà nước
chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù vậy, cho dù tồn tại dưới nhiều kiểu Nhà nước khác nhau, nhưng với
tư cách là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt trong xã hội, bất cứ Nhà
nước nào cũng có những đặc trưng cơ bản giống nhau (1) tạo nên sự khác biệt
giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội khác, trong đó có một đặc trưng quan
trọng là Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực thi trên thực tế.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị
trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của tồn xã hội, được đảm bảo thực
hiện bằng Nhà nước, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự
và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [13, tr.288].
Là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước, sự hình thành và
phát triển pháp luật gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước, trở
thành một công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Tuy nhiên,

(1) Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước: 1. Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị cơng
cộng đặc biệt với bộ máy thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã hội; 2. Nhà nước có
lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ; 3. Nhà nước
có chủ quyền quốc gia; 4. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và
bảo đảm sự thực hiện pháp luật; 5. Nhà nước có quyền định ra và thu các loại thuế dưới
hình thức bắt buộc.

6



quá trình hình thành pháp luật diễn ra chậm chạp, phức tạp và lâu dài hơn so
với sự hình thành Nhà nước. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, pháp luật được
hình thành thơng qua ba phương thức chủ yếu là tập quán pháp, tiền lệ pháp
và văn bản quy phạm pháp luật.
+ Tập quán pháp là việc Nhà nước thừa nhận các tập quán đã từng tồn
tại trước có giá trị pháp lý, mang tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực
hiện bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước.
+ Tiền lệ pháp là những quyết định của các cơ quan hành chính, của cơ
quan tư pháp về những vụ việc cụ thể được Nhà nước thừa nhận có giá trị
pháp lý bắt buộc để giải quyết những vụ việc tương tự xảy ra sau đó.
+ Văn bản quy phạm pháp luật là một hình thức của pháp luật, được Nhà
nước xây dựng và ban hành theo một trình tự, thủ tục, hình thức nhất định.
Hiện nay, các phương thức hình thành pháp luật nêu trên vẫn tồn tại và
được công nhận tại các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tuỳ theo quan niệm
của từng quốc gia, việc công nhận các phương thức hình thành pháp luật có
khác nhau. Một số quốc gia tồn tại cả tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản
quy phạm pháp luật. Một số quốc gia khác thì chỉ cơng nhận văn bản quy
phạm pháp luật.
Ở Việt Nam, về nguyên tắc thì Nhà nước chỉ chấp nhận sự tồn tại của
văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên, trong một số trường hợp, tập quán
pháp cũng được chấp nhận để giải quyết các quan hệ xã hội phát sinh trong
cuộc sống, tuy nhiên, việc sử dụng tập quán pháp phải được pháp luật cho
phép. Chẳng hạn nhưng trong một số quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế, các văn
bản quy phạm pháp luật cũng ghi rõ khi quan hệ đó khơng có pháp luật điều
chỉnh thì thực hiện theo tập quán.

7



2. Hành pháp tham gia hoạt động lập pháp là một yêu cầu thực
tiễn đƣợc ghi nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới
Cho dù bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung - dân
chủ hay nguyên tắc tam quyền phân lập, thì các nước đều khẳng định chức
năng của Quốc hội là lập pháp; chức năng của Chính phủ là hành pháp. Xét
về mặt lý luận thì dường như điều đó là hồn tồn chính xác, nhưng thực tế
thì thế giới đều giao cho Chính phủ một số quyền năng nhất định trong hoạt
động lập pháp - xây dựng pháp luật.
Tuy việc xác định phương thức hình thành pháp luật có sự khác biệt
giữa các quốc gia trên thế giới, nhưng nhìn chung, các quốc gia đều đề cao vai
trò của văn bản quy phạm pháp luật, tức là khẳng định tầm quan trọng của
hoạt động xây dựng pháp luật, trong đó nhấn mạnh vai trị của Chính phủ (cơ
quan hành pháp) trong việc soạn thảo, trình dự án pháp luật.
Nhận định về vai trị của cơ quan hành pháp trong hoạt động xây dựng
pháp luật, trong tác phẩm “Sự hạn chế quyền lực nhà nước”, PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung đã viết:
“Quốc hội không thể hoạt động một mình, kể cả trong việc lập pháp.
Mặc dù Hiến pháp trao cho Quốc hội “mọi quyền lập pháp”, song quyền này
khơng thể được thi hành mà khơng có sự dính líu đến hành pháp và tư pháp.
Theo Điều 2 của Hiến pháp Hoa Kỳ, cũng như hiến pháp một số nước khác,
người đứng đầu các cơ quan hành pháp có quyền triệu tập các phiên họp của
lập pháp. Mặc dù không trực tiếp đề ra luật, song Tổng thống “thỉnh thoảng
phải trao cho Quốc hội những thông tin về tình trạng liên bang, và khuyến
nghị họ xem xét các biện pháp, mà Tổng thống cho là cần thiết”. Tổng thống
khơng những có quyền phủ quyết những đạo luật đã được Quốc hội thông
qua, mà Tổng thống hoặc người đứng đầu hành pháp còn là tác giả phần lớn
các dự án luật của Quốc hội - lập pháp.

8



Ngồi ra những nhiệm vụ gì xuất hiện, chưa được luật pháp phân định
thuộc quyền lực nào, mà nhà nước cần phải đảm nhiệm, thì khơng ai khác
ngồi cành hành pháp phải đứng ra gánh chịu. Thậm chí những nhiệm vụ,
quyền hạn được Hiến pháp ghi nhận rõ ràng là của lập pháp hoặc tư pháp,
thì muốn cho hai cành quyền lực này thực thi tốt vẫn phải có sự trợ tá của
hành pháp” [5, tr.504].
Nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng, dù ở quốc gia nào, dù với nguyên tắc
và phương thức tổ chức bộ máy Nhà nước thế nào, thì sự tham gia của Chính
phủ (cơ quan hành pháp) vào hoạt động xây dựng pháp luật là rất quan trọng
và khơng thể phủ nhận. Chính phủ có vai trò quan trọng như vậy trong hoạt
động xây dựng pháp luật bởi lẽ “Chính phủ, cùng các bộ, ngành là những cơ
quan hành pháp điều hành công việc hàng ngày của đất nước. Do tính chất
như vậy, nên các cơ quan hành pháp là nơi thường nhận biết một cách sớm
nhất các nhu cầu của vấn đề cần phải giải quyết. Để xử lý các vấn đề phát
sinh trong nhiều trường hợp ban hành pháp luật là một giải quyết hữu hiệu nhất.
Đây cũng là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số các sáng kiến pháp luật
không những của nước ta, mà của cả nước khác trên thế giới phải xuất phát từ
Chính phủ - hành pháp, mà không từ nghị sĩ/đại biểu Quốc hội.” [5, tr.267].
Như vậy, xét một cách khách quan thì phần lớn, việc xây dựng luật,
pháp lệnh hay văn bản quy phạm pháp luật khác trước hết phải xuất phát từ
nhu cầu của Chính phủ (cơ quan hành pháp) trong q trình thực hiện chức
năng quản lý, điều hành xã hội, nhằm phục vụ hoạt động của Chính phủ và
phải do Chính phủ soạn thảo, chuẩn bị.
Nghiên cứu về quy trình lập pháp và vai trị của Chính phủ trong quy
trình lập pháp ở nhiều nước trên thế giới, ông Nguyễn Sỹ Dũng cho rằng:
“Quy trình lập pháp có thể có hai cơng đoạn, mỗi cơng đoạn có một ý
nghĩa riêng, chứ nhất thiết không phải là một việc làm hai lần. Mỗi công


9


đoạn đều có trách nhiệm phải bổ sung thêm giá trị của sản phẩm pháp luật
được sáng tạo ra. Công đoạn thứ nhất là cơng đoạn của Chính phủ. Cơng
đoạn này là cơng đoạn có chức năng chủ yếu là nhận biết vấn đề và thiết kế
chính sách để xử lý vấn đề. Công đoạn thứ hai là công đoạn của Quốc hội.
Cơng đoạn này có mục đích thẩm định và thơng qua chính sách, biến chính
sách thành luật.
Cơng đoạn của Chính phủ có thể bao gồm 4 bước sau đây: 1- Nhận
biết vấn đề; 2- Nghiên cứu, phân tích và đề ra chính sách để xử lý vấn đề; 3Phê chuẩn chính sách; 4- Soạn thảo văn bản luật để thể chế hố chính sách.”
[5, tr.267].
Tham khảo quy trình lập pháp của các nước [16, tr.159-183] ta thấy,
tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của từng quốc gia, nguyên tắc và phương thức
tổ chức bộ máy nhà nước của các nước có sự khác biệt và theo đó, quy trình
lập pháp của từng quốc gia cũng có những điểm khác biệt. Tuy nhiên, nhìn
chung quy trình lập pháp đầy đủ của các quốc gia đều bắt đầu từ sáng kiến lập
pháp, tiếp đến là soạn thảo dự án luật, đưa ra xem xét tại các Uỷ ban và cuối
cùng là thông qua tại nghị viện.
+ Sáng kiến lập pháp:
Sáng kiến lập pháp có thể được bắt đầu từ rất nhiều nguồn khác nhau
và nhìn chung nghị viện các nước khơng quy định hạn chế về nguồn của sáng
kiến lập pháp. Sáng kiến lập pháp có thể bắt nguồn từ nghị sĩ, từ các Uỷ ban
của nghị viện, có thể bắt nguồn từ hoạt động của cơ quan hành pháp, từ hoạt
động của cơ quan tư pháp hoặc có thể là từ ý kiến, kiến nghị của cử tri v.v...
Nhưng nhìn chung, dù có quy định hay khơng quy định thì thực tế là ở hầu
hết các quốc gia, sáng kiến lập pháp xuất phát từ hoạt động của cơ quan hành
pháp là một nguồn rất quan trọng và chủ yếu trong hoạt động lập pháp.

10



+ Quyền trình dự án pháp luật:
Mặc dù sáng kiến lập pháp được xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau,
nhưng chủ thể có quyền trình các dự án luật ra trước nghị viện để ban hành
đạo luật thì lại có những hạn chế.
Nhìn chung, chủ thể có quyền trình dự án pháp luật ra trước nghị viện
thường chỉ gồm một số chủ thể sau: nghị sĩ, uỷ ban của nghị viện, nguyên thủ
quốc gia, Chính phủ.
Trên thực tế, các dự án pháp luật được nghị viện các nước thông qua
phần lớn có nguồn gốc từ cơ quan hành pháp. Điều này có ngun nhân từ vị
trí của cơ quan hành pháp, là cơ quan trực tiếp điều hành các chính sách của
quốc gia, thực thi pháp luật, Chính phủ có thể nắm bắt tường tận các yêu cầu
thực tế, tường tận mọi vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật, từ
những điểm phù hợp cho đến các hạn chế, thiếu sót. Do vậy, nếu khơng có sự
tham gia của cơ quan hành pháp trong quá trình lập pháp thì các đạo luật do
nghị viện ban hành có nhiều khả năng không phù hợp thực tế, dẫn đến khó
khăn cho chính cơ quan hành pháp trong q trình thực thi. Hơn nữa, với bộ
máy hành chính đồ sộ, hành pháp là cơ quan có điều kiện nhất để nghiên cứu,
phân tích mọi khía cạnh của dự án pháp luật.
+ Chuẩn bị các dự án pháp luật:
Đối với các dự án do Chính phủ trình: thơng thường, q trình chuẩn bị
các dự án của Chính phủ được thực hiện qua những bước rất công phu. Công
đoạn chuẩn bị các dự án pháp luật được xem là công đoạn rất quan trọng và làm
mất nhiều thời gian cùng với sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc Chính phủ.
Ví dụ như ở Ca-na-đa, xuất phát từ các nguồn sáng kiến khác nhau, bộ
phận phân tích chính sách của các bộ chuyên môn ở nước này sẽ tập hợp và
chuẩn bị dự thảo hoặc chuẩn bị một kế hoạch cụ thể miêu tả ý tưởng lập pháp,

11



tính hợp lý của ý tưởng đó, các tác động có thể có đối với xã hội, kế hoạch xin
ý kiến rộng rãi về dự án, kinh phí thực hiện dự án v.v... Sau khi trao đổi ý
kiến với các bộ có liên quan, bộ chủ quản sẽ chuẩn bị một tài liệu như một
bản ghi nhớ, trong đó ghi rõ nội dung và các phần chính của dự án để trình
Chính phủ. Tại phiên họp của Chính phủ, các báo cáo có liên quan của bộ sẽ
được cho ý kiến và được tập hợp lại thành một tài liệu hoàn chỉnh gửi Bộ Tư
pháp để dự thảo thành một dự án pháp luật hoàn chỉnh.
Trên thực tế, việc soạn thảo các dự án pháp luật được tiến hành dựa
trên sự phối hợp chặt chẽ giữa chuyên gia của các bộ chuyên ngành và các
chuyên gia pháp lý của Bộ tư pháp để nhằm bảo đảm dự án luật phản ánh
đúng đắn chính sách đã được Chính phủ đề ra qua báo cáo của các bộ chuyên
ngành trước đó và cũng đảm bảo được tính chính xác và thống nhất về mặt
pháp lý của dự thảo. Các dự thảo sau khi soạn thảo xong sẽ được thông qua
tại phiên họp Chính phủ và được trình lên nghị viện với biên bản thơng qua
tại phiên họp Chính phủ.
Quy trình chuẩn bị một dự án pháp luật của Ca-na-đa, phần chuẩn bị
đối với dự án Chính phủ trình, có thể được coi là quy trình mẫu của các nước
trên thế giới. Quy trình này được áp dụng ở nhiều nước, tuy có ít nhiều điểm
khác biệt ở một số nước.
Như vậy, việc chuẩn bị các dự án pháp luật của Chính phủ các nước
thường trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất - giải quyết các vấn đề về
chính sách; giai đoạn thứ hai - giải quyết các vấn đề về kỹ thuật. Các vấn đề
về chính sách chủ yếu do các bộ chun mơn xây dựng, cịn các vấn đề về kỹ
thuật chủ yếu do Bộ tư pháp thực hiện với các chuyên gia pháp lý có nhiều
kinh nghiệm.

12



+ Thủ tục trình dự án pháp luật:
Khi các dự án pháp luật đã được chuẩn bị xong sẽ được trình ra nghị viện.
Đối với dự án do Chính phủ trình, thơng thường các dự án này được
trình ra nghị viện thơng qua Văn phịng nghị viện. Để tạo thuận lợi cho q
trình xem xét, thơng qua dự án, nghị viện các nước thường quy định các dự án
pháp luật của Chính phủ cần được gửi kèm theo biên bản thơng qua dự án ở
Chính phủ cùng các tài liệu cơ sở của dự án. Các tài liệu cơ sở của dự án
thường bao gồm tài liệu phân tích chính sách, các bản ghi nhớ, các bản giải
trình về cách thức sử dụng kỹ thuật lập pháp v.v... Ở Thuỵ Điển, tất cả các tài
liệu liên quan đến quá trình xây dựng các dự án pháp luật đều được lưu giữ
thành từng tập, phục vụ cho công tác đối chiếu, so sánh, tìm hiểu căn nguyên
của các vấn đề trong quá trình nhận xét, thẩm tra dự án.
+ Thủ tục xem xét ở nghị viện:
Sau khi dự án pháp luật được Chính phủ trình ra nghị viện, dự án sẽ được
xem xét ở các uỷ ban và ở các phiên họp toàn thể của nghị viện. Đối với các
quốc gia tổ chức theo mơ hình hai viện thì dự án sẽ được xem xét ở cả hai viện.
Nhìn chung, nghị viện các nước thường xem xét, thông qua dự án pháp
luật theo quy trình ba lần đọc, tức là một lần công bố nội dung dự án, một lần
nghị viện xem xét, quyết định về các vấn đề chính sách của dự án và một lần
nghị viện xem xét, thông qua dự án hoàn chỉnh. Trong giai đoạn này, dự án
pháp luật sẽ thường xuyên được đưa ra xem xét, thảo luận ở uỷ ban của nghị
viện phụ trách về dự án và Chính phủ với vai trị là cơ quan trình dự án
thường xun phải có mặt để báo cáo, thuyết trình về nội dung dự án cũng
như bảo vệ chính sách mà Chính phủ đã trình trong dự án.

13


3. Pháp luật Việt Nam khẳng định vai trò quan trọng của Chính

phủ trong hoạt động xây dựng pháp luật
Hiện nay, Nhà nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa với yêu cầu phải xây dựng một hệ thống pháp luật hồn chỉnh,
đồng bộ, có tính khả thi cao; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được sửa
đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001
của Quốc hội khố X đã khẳng định:
“Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” [11, tr.1].
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cũng quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam khố IX tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ 10 của Đảng cũng ghi rõ:
“xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hồn thiện hệ thống
pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp
luật.” [1, tr.13].

14


Với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cùng

với những định hướng chiến lược mà Đảng đã đề ra, việc xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật là một yêu cầu khách quan ở nước ta hiện nay.
Đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta,
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị (khố
IX) đã chỉ rõ:
“Xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả
thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản
cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp
luật để góp phần quản lý xã hội…” [2, tr.7].
Trước yêu cầu đó, trong nhiều năm qua, bộ máy Nhà nước với vai trị
chính là Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều cố
gắng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Đánh giá về những kết quả bước đầu trong việc xây dựng và hồn thiện
hệ thống pháp luật, ngun Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu đã viết:
“Hệ thống pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung, tạo cơ sở cho việc quản
lý nhà nước bằng pháp luật, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Nguyên tắc pháp
quyền từng bước được đề cao và phát huy hiệu quả trên thực tế. Trong các
nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX, X và XI, số văn bản luật và pháp lệnh được ban
hành gấp nhiều lần so với tất cả các nhiệm kỳ trước cộng lại” [7, tr.525].
Với vai trị là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là một trong những nhiệm vụ chủ yếu
của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, cũng như ở bất kỳ quốc gia

15


nào trên thế giới, trong hoạt động xây dựng pháp luật, vai trị của Chính phủ

là rất quan trọng.
Khoản 3, Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định Chính phủ có nhiệm
vụ và quyền “trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội
và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.”. Tuy nhiên, trong điều kiện hệ thống pháp
luật của Nhà nước ta hiện nay còn thiếu và chưa hồn thiện thì việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật trong những lĩnh vực đời sống xã hội chưa có
pháp luật điều chỉnh hoặc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành những nội
dung của luật, pháp lệnh nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội chưa ổn định
mà không thể quy định cụ thể trong văn bản luật, pháp lệnh là rất cần thiết
nhằm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Vì vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định giao
cho một số chủ thể khác quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong
đó có Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ (theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996
thì có cả Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ).
Hiện nay, hoạt động lập pháp và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
ở nước ta được thực hiện theo quy định của nhiều văn bản khác nhau như
Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc,
các Uỷ ban của Quốc hội, Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm
2009 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật và nhiều luật, pháp lệnh, văn bản quy phạm pháp luật
khác liên quan. Trong đó, có thể nói quan trọng nhất là Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.

16


Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành lần đầu tiên

tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khố IX, ngày 12 tháng 11 năm 1996, có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1997. Trước đó, việc xây dựng luật,
pháp lệnh được thực hiện theo quy định tại Quy chế xây dựng luật và pháp
lệnh ban hành kèm theo Nghị quyết ngày 06 tháng 8 năm 1988 của Hội đồng
Nhà nước. Sau năm năm thực hiện, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua
ngày 16 tháng 12 năm 2002 tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá XI.
Trước những biến động của các quan hệ xã hội và nhu cầu mới đặt ra
đối với hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động xây dựng luật, pháp lệnh và
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khoá XI,
ngày 03 tháng 6 năm 2008, Quốc hội đã ban hành Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật mới thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
1996, Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Như vậy,
cho đến nay, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mới được
thực hiện trong hơn 9 tháng. Tuy cịn q sớm để có thể đánh giá một cách
chính xác, tồn diện về việc thi hành Luật, nhưng bước đầu có thể khẳng định
những tác động tích cực của Luật.
Về chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật quy định gồm các chủ thể sau:
+ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
+ Chủ tịch nước;
+ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

17


+ Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân
dân tối cao;

+ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Tổng kiểm toán Nhà nước;
+ Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp;
+ Cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
1996 thì cịn một chủ thể khác có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật là Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ.
Điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam gồm:
+ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
+ Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
+ Nghị định của Chính phủ.
+ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao, Thơng
tư của Chánh án Tồ án nhân dân tối cao.
+ Thơng tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
+ Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
+ Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa
Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.
+ Thơng tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan

18


ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
+ Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.

Cũng theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì
một số văn bản quy phạm pháp luật được xác định như sau:
+ Luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế,
xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tơn
giáo, văn hố, giáo dục, y tế, khoa học, cơng nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức,
quyền và nghĩa vụ của công dân.
+ Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương; điều chỉnh ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc
thẩm quyền của Quốc hội.
+ Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề
được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét,
quyết định ban hành luật.
+ Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành để giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân
dân; quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tổng động viên hoặc động
viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương
và quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội.

19


+ Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:
1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

2. Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã
hội, quốc phịng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tơn giáo,
văn hố, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ
công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác
thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ;
3. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền
của Chính phủ;
4. Quy định những vấn đề cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng
thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế, quản lý xã hội. Việc ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội.
+ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các
vấn đề sau đây:
1. Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống
hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các thành
viên Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính
phủ; kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
+ Thơng tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban
hành để quy định các vấn đề sau đây:

20


×