Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Di sản VH thế giới (Cồng chiêng Tây Nguyên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.2 KB, 5 trang )

Không gian văn hoá và nghệ thuật biểu diễn Cồng Chiêng Tây
Nguyên
Việc bảo tồn và phát huy cồng chiêng Tây Nguyên
không thể tách rời khỏi môi trường sống của nó - đời
sống tinh thần của người dân Tây Nguyên. Vì vậy,
những chính sách bảo tồn và phát huy cồng chiêng Tây
Nguyên phải được khởi nguồn từ những mong muốn
của chính đồng bào các dân tộc thiểu số. Dưới đây là
bài viết của nhạc sĩ Linh Nga Niê Kdam - Chủ tịch Hội
Văn học Nghệ thuật Đắc Lắc - về vấn đề này.
Một không gian diễn xướng
Trước tiên phải nói đôi lời về hai chữ "cồng chiêng". Đây thực ra chỉ là cách gọi của các
nhà nghiên cứu, theo lối gọi của một số dân tộc thiểu số phía bắc (cồng Mường). Còn các
tộc người ở Tây Nguyên gọi những chiếc chiêng có núm là ching, chưng, hoặc goong.
Những chiếc không có núm (chiêng bằng) có thể được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau,
tuỳ theo mỗi tộc người (ví như dàn ching knah của người Ê Đê, ching Arap của Jrai...).
Theo chúng tôi, dùng hai tiếng ching chêng theo cách gọi của tộc người Ba Na là tương đối
chung nhất.
Chưa ở đâu trên đất nước ta, có một tập hợp đông đảo về số lượng trong một dàn và nhiều
dàn diễn tấu ching chêng như ở Tây nguyên. Và, mà song hành với âm điệu của các dàn
ching chêng là cả một nền văn hoá đa dạng, phong phú...
Tín ngưỡng đa thần và phương thức canh tác trên đất dốc đã sản sinh ra nền văn minh
nương rẫy, mà trong đó bao gồm cả không gian văn hoá ching chêng đa dạng và phong phú
ở hầu hết mọi tộc người trên vùng miền núi Trường Sơn - Tây Nguyên. Thuở xa xưa, ching
chêng là phương tiện giao lưu với các thần linh, là phương thức thông tin với cộng đồng
gần xa về những việc vui buồn lớn diễn ra trong một bộ tộc, một gia đình. Gắn liền với
nông lịch và vòng đời, ching chêng luôn luôn hiện diện và song hành cùng con người ngay
từ lúc mới cất tiếng khóc chào đời, cho đến lúc đi về "chốn mang lung". Ching chêng
không chỉ là tiếng nói tâm linh, là sự phản ảnh tâm hồn của mỗi tộc người, mà còn thật sự
có một "đời sống" phong phú, bởi tạo nên quanh và trong "nó" một không gian văn hoá,
bao gồm cả nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật diễn xướng, văn chương truyền miệng, nghệ


thuật ẩm thực lẫn các trò chơi dân gian... vừa riêng biệt trong cộng đồng của mình, vừa độc
đáo so với các nền văn minh khác.
Tuy nhiên, kể từ khi các tôn giáo khác biệt với tín ngưỡng truyền thống thâm nhập vào đời
sống tâm linh Tây Nguyên, đặc biệt là việc thay đổi phương thức sản xuất, từ luân canh,
độc canh cây lúa rẫy, sang các loại cây công nghiệp dài ngày (càphê, tiêu, điều...), cây
nông nghiệp ngắn ngày (bông vải, lúa nước...) thì môi trường diễn xướng cổ truyền của
chinh chêng đã mất dần chỗ đứng trong cộng đồng. Đồng thời việc chuyển đổi kinh tế từ
tự cấp tự túc, rồi bao cấp, sang kinh tế thị trường, cũng nảy sinh nhiều nguyên nhân dẫn tới
nạn "chảy máu" ching chiêng ở Tây Nguyên.
Song bên cạnh đó, cuộc sống mới cũng làm xuất hiện một không gian diễn xướng khác, đó
là trong các hoạt động nghệ thuật quần chúng, hay các dịch vụ phục vụ khách du lịch trong
và ngoài nước. Ching chêng thoát khỏi vòng cương toả của tín ngưỡng, trở thành một trong
những loại nhạc cụ phổ biến, để cùng với nhiều hình thức nghệ thuật dân gian Tây Nguyên
khác có thêm đời sống mới ngoài cộng đồng.
Và những mong ước
Hiểu rõ những điều trên, mới có thể tìm ra biện pháp để
nghệ thuật chinh chêng thực sự có đời sống trong cộng
đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, như đã từng tồn
tại một cách tự nhiên hàng trăm năm nay tại các buôn,
bon, kon, plei. Muốn làm được điều ấy, theo chúng tôi,
cần phải có sự thông hiểu, đồng lòng góp sức của cả
phía nhà nước và phía đồng bào dân tộc. Về phía các
sinh hoạt trong cộng đồng người dân Tây Nguyên,
trước hết, cần khôi phục lại một cách có chọn lọc môi
trường diễn xướng trong các cộng đồng, thông qua một
số lễ hội truyền thống định kỳ hàng năm, như: ăn cơm mới, dọn bến nước, chúc sức khoẻ...
Việc này phải được bàn bạc dân chủ trong các buôn, bon, kon, plei, để bà con tự lựa chọn.
Địa phương và ngành văn hoá một vài năm đầu nên hỗ trợ kinh phí, cũng như tham gia
hướng dẫn (không áp đặt) giảm phần lễ, tăng phần hội. Khi đã thành nếp thì để bà con tự
giác và tự nguyện tổ chức. Có thể gắn với một số hoạt động kỷ niệm của các đoàn thể

(thanh niên, phụ nữ, người cao tuổi, ngày thành lập địa phương... thành những ngày hội
văn hoá thể thao định kỳ hoặc luân phiên của từng tiểu vùng, có sự tham gia của những
buôn, bon, kon, plei xung quanh).
Cần khuyến khích, hỗ trợ và khích lệ, động viên những địa phương, cá nhân có thành tích
hoặc công trạng góp phần gìn giữ, truyền dạy văn hoá truyền thống, nghệ thuật diễn tấu
chinh chêng. Mặt khác, nhà nước cần duy trì thường xuyên có định kỳ những cuộc liên
hoan văn hoá chinh chêng khu vực, khuyến khích sự tham gia của thế hệ trẻ. Các phương
tiện thông tin đại chúng (nhất là truyền hình & phát thanh) xây dựng nhiều hơn nữa những
chương trình không chỉ giới thiệu vẻ đẹp mà còn mang tính chất giáo dục ý thức bảo tồn
đời sống văn hoá truyền thống Tây Nguyên, trong đó có chinh chêng...Với người Tây
Nguyên cồng chiêng là loại nhạc khí biểu hiện tính cộng đồng rất cao mang những giá trị
về nghệ thuật âm nhạc, phong tục tập quán và còn là biểu tượng của sức mạnh kinh tế.
Trong tất cả các loại lễ hội ở Tây Nguyên kể cả những công việc nhỏ của từng gia đình đều
không thể thiếu cồng chiêng. Cồng chiêng đã thực sự gắn bó với đời sống hằng ngày của
đồng bào Tây Nguyên, xuyên suốt cả cuộc đời người, thực sự là linh hồn, là xương, là thịt
của các dân tộc ở đây.
Nói đến nhạc khí có chất liệu hoàn toàn bằng kim loại có lẽ không ở đâu trên đất nước ta
lại có nhiều và đa dạng như ở Tây Nguyên. Tây Nguyên là một vùng văn hóa còn lưu lại
một kho tàng nhạc khí được chế tác hoàn toàn bằng kim loại rất đồ sộ. Ðó là ching chêng
mà người Việt quen gọi là cồng-chiêng. Từ ching tương ứng với chiêng, từ chêng tương
ứng với cồng. Bên cạnh ching chêng còn có Yao Prông. Greng neng (lục lạc, chũm chọe).
Nói đến cồng chiêng (theo cách gọi của người Việt)
hoặc ching chêng (theo cách gọi của người Gia Rai, Ba
Na) có nghĩa là chỉ cả hai loại: cồng bằng không có
núm và chiêng có núm. Tuy nhiên, người Gia Rai và
người Ba Na cũng có những cách gọi khác nhau: người
Ba Na gọi cồng chiêng là ching chêng. Người Gia Rai
có cách gọi riêng tùy từng vùng và nhóm dân tộc. ở Tây
Nguyên, hầu như đến nhà nào, buôn nào của đồng bào
Tây Nguyên đều cũng thấy có cồng chiêng. Nhà ít cũng

có một bộ, có nhà hàng chục bộ. Tuy vậy không phải
cồng chiêng nào cũng giống nhau. Mỗi dân tộc, mỗi vùng đều có các loại cồng chiêng
riêng của dân tộc mình và đặc biệt là phương pháp, mục đích và phạm vi sử dụng.
Cồng chiêng được đúc bằng đồng. Có nhiều loại rất quý được đúc bằng các hợp kim như
gang, chì, đồng... Có loại phần núm được pha cả vàng và bạc. Cồng chiêng là loại nhạc khí
tự thân vang. Có nhà nghiên cứu âm nhạc thế giới đã xếp cồng chiêng vào nhóm nhạc khí
hàm âm. Trải qua nhiều thế kỷ vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến đấu chống kẻ thù,
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã sáng tạo và định hình những loại nhạc khí phù hợp
với cuộc sống của núi rừng. Cồng chiêng là loại nhạc khí biểu hiện tính cộng đồng rất cao.
Trong tất cả các loại lễ hội ở Tây Nguyên kể cả những công việc nhỏ của từng gia đình đều
không thể thiếu tiếng nói của cồng chiêng. Cồng chiêng đã thực sự gắn bó với đời sống
hằng ngày của đồng bào Tây Nguyên như hình tượng cây tre trong đời sống của dân tộc
Việt ở các làng xóm thân yêu. Tiếng cồng chiêng xuyên suốt cả đời người, thực sự là linh
hồn, là xương, là thịt của các dân tộc ở đây. Từ khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã được thưởng
thức âm thanh của cồng chiêng qua lễ "thổi tai". Khi lớn lên theo tiếng cồng chiêng trong
lễ "mừng sức khỏe", "hội mùa", "mừng lúa mới", "pơ thi"... Những đêm tụ hội ở nhà Rông,
tiếng cồng chiêng vang vọng, tràn ngập cả núi rừng. Cả cuộc đời lúc nào cũng đầy ắp tiếng
cồng chiêng. Ðến khi từ giã cuộc đời thì cồng chiêng vẫn vang vọng tiễn đưa và... mãi đến
khi lễ "pơ thi" tiếng cồng chiêng lại u hoài, ảm đạm, day dứt. Ðể rồi từ đó người đời mới
thực sự lãng quên. Cái cồng, con chiêng đã ăn ở với con người đời đời kiếp kiếp. Nó thể
hiện đầy đủ tâm tư, tình cảm mừng vui, buồn đau, căm giận của con người Tây Nguyên.
Ðồng bào các dân tộc ở đây đã sử dụng và giữ gìn với hình thức cha truyền con nối. Chẳng
những cồng chiêng có giá trị về mặt nghệ thuật âm nhạc, về phong tục tập quán xã hội mà
còn có giá trị kinh tế cao. Cồng chiêng biểu hiện sự giàu có, sự hùng mạnh và chiến thắng
của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Về nguồn gốc của cồng chiêng cho đến nay vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau chung quanh câu hỏi: cồng chiêng ở Tây Nguyên có từ bao
giờ? Ðược nhập từ nơi nào vào Tây Nguyên hay do chính đồng bào bản địa vào đây đúc
nên, mà đến nay nó vẫn quy tụ tại vùng đất này phong phú đến thế? Trong quá trình đi
điền dã chúng tôi thấy đồng bào các dân tộc thường gọi: ching Lào, ching Joăn, ching Kúr.
Qua một số tên gọi như vậy chúng ta có thể biết rằng cồng chiêng không phải do đồng bào

các dân tộc Tây Nguyên đúc nên, mà được du nhập từ nhiều nơi khác đến. Bởi lẽ ở Tây
Nguyên đồng bào các dân tộc còn đang ở nền văn minh "lúa khô nương rẫy cao nguyên".
Họ chưa có kỹ nghệ để tự đúc được cồng chiêng. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra một số
giả thiết về nguồn gốc của cồng chiêng:
- Ching Lào đã được đưa từ Lào sang. Có người còn cho rằng ching Lào được đúc từ
Myanmar, qua con đường trao đổi, buôn bán đã đến Tây Nguyên. Ðây là loại chiêng rất
quý, được đúc bằng đồng có pha bạc, tiếng kêu to vang xa.
- Ching Joăn do người Kinh đúc. Ðây cũng là vấn đề còn bàn cãi, tranh luận khá sôi nổi.
Tại sao người Kinh đúc chiêng mà lại không sử dụng? Có lẽ thời bấy giờ người Kinh đã
tìm thấy một thị trường lớn tiêu thụ cồng chiêng rồi sản xuất và đem lên Tây Nguyên buôn
bán, trao đổi. Theo các nghệ nhân thì hiện nay loại ching Joăn ở Tây Nguyên không còn
nhiều. Vì qua sử dụng âm thanh không âm vang nên đồng bào đã loại dần.
- Ching Kúr đã được đưa từ Thailand, Cambodia sang.
Theo thống kê bước đầu ở các địa phương, trong các dân tộc Gia Rai, Ba Na còn bảo lưu
được một lượng cồng chiêng lớn nhất so với các dân tộc khác dọc Trường Sơn.
"Dãy Trường Sơn có thể xem như chính là cái nôi sản sinh và truyền bá toàn khu vực
nền văn hóa âm nhạc độc đáo của cồng chiêng".
Từ địa vực cư trú của người Gia Rai, Ba Na nhìn sang các địa phương khác : người ?Ðê,
M'nông ở Ðác Lắc, người Mạ, Kơ Ho ở Lâm Ðồng, người Mường ở Hòa Bình, Thanh
Hóa, người Hơ Rê ở Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, người Sé Dang, Brâu, Rơ Măm ở Kon Tum
cũng có những loại cồng chiêng và phong tục sử dụng cồng chiêng lâu đời.
Nói đến cồng chiêng là nói đến âm thanh của chúng. Âm thanh chính là linh hồn của cồng
chiêng vậy. Nhưng khi cồng chiêng từ nơi khác đưa đến Tây Nguyên, âm thanh của nó còn
mang tính tự nhiên, chưa hợp với tai nghe của đồng bào. Vì vậy việc sửa, chỉnh lại âm
thanh để sắp xếp hàng âm theo ý thích của đồng bào là một vấn đề có tính đặc trưng. Muốn
làm được việc này họ dùng những chiếc búa nhỏ bằng đồng để điều chỉnh độ dày, mỏng ở
các vị trí khác nhau trên mặt chiêng, tìm ra độ cao theo ý muốn. Việc chỉnh âm (tul chiêng)
đòi hỏi người chỉnh phải có tai nghe chính xác và thông hiểu thanh âm của dân tộc. Việc
tul chiêng như trên không phải ai cũng làm được. Mỗi plei chỉ có một vài người, mà đồng
bào thường gọi với cái tên trân trọng là Ông trùm chiêng (Po ania chêng).

Về phương pháp sử dụng cồng chiêng thì mỗi vùng, mỗi dân tộc có những cách đánh khác
nhau. Có khi dân tộc này đánh bằng dùi, dân tộc khác lại dùng nắm tay để đấm. Cũng là
đánh bằng dùi nhưng có nơi đánh tự nhiên để tiếng chiêng vang xa, có nơi dùng tay bịt lại
để tiếng chiêng ngừng, ngắt. Dùi đánh chiêng có hai loại: một lại có bọc giẻ hoặc cao su ở
đầu để đánh cồng có núm; một loại bằng một đoạn gỗ mềm để đánh chiêng bằng. Thường
thường khi đánh cồng người ta gõ vào phần núm của chúng. Khi đánh chiêng bằng người
ta gõ vào tâm điểm của mặt chiêng. Cũng có vùng đồng bào Gia Rai đánh vào mặt sau của
chiêng. Trong những ngày hội, lễ khi xuất hiện cồng chiêng là xuất hiện văn nghệ. Tùy
theo khả năng kinh tế (rượu thịt) mức độ từng nơi có khác nhau. Nhưng về hình thức mỗi
con người hầu như bộc lộ hết mình trong các sinh hoạt cộng đồng. Ðánh chiêng, múa hát
đã trở thành phong tục truyền thống, thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống
đồng bào. Vì thế cồng chiêng đã đạt tới mức độ hoàn chỉnh khá cao về giai điệu, tiết tấu,
hòa âm và đối vị. Con người Tây Nguyên thông qua nghệ thuật biểu hiện của cồng chiêng
đã biểu lộ tinh thần thượng võ, đoàn kết thương yêu nhau, hiểu biết tâm tư, tình cảm của
nhau. Nó còn biểu lộ những khả năng sử dụng cồng chiêng tuyệt vời của từng cá nhân và
tập thể. Một thực tế hiện nay ở Tây Nguyên là nạn "chảy máu cồng chiêng". Cồng chiêng
đã bị mua bán, cân lên như những thứ phế liệu khác. Theo điều tra gần đây nhất, số lượng
cồng chiêng ở Tây Nguyên đã giảm 80% so với trước đây. Việc săn lùng cồng chiêng như
một món đồ cổ là vấn đề quan tâm hiện nay ở Tây Nguyên. Cồng chiêng là vốn di sản văn
hóa dân tộc cần phải được bảo vệ và tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm và phát huy vốn truyền
thống này.

×