Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận “Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.38 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -


Tiểu luận
“Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam
trước và sau mười năm đổi mới đến nay”
Trang 1
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
2
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN
CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
5
I. Thực tiễn 5
II. Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với quá trình nhận thức 6
III. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 8
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT
NAM
12
I. Vị trí địa lý 12
II. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam 12
III. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế 15
CHƯƠNG III:
ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI HIỆN NAY
18


I.Lý luận thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới hiện
nay
18
II.Ý nghĩa thực tiễn 21
III. Đề xuất nhiệm vụ và giải pháp cho tương lai 21
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
MỤC LỤC 26
Trang 2
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự
quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ
hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương
pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây
dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người
có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc
chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần
là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà
còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.
Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa
Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng
triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra
những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã
hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh
khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng

bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt.
Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh
chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với
sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề
còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết
Trang 3
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
định chọn đề tài “Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt
Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay”.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
I, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, sự thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bằng xã
hội cộng sản chủ nghĩa trong tiến trình lịch sử của nhân loại là một quy luật khách quan.
Việt Nam hiện nay đang ở vào thời kỳ quá độ, chúng ta đã bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy trong quá trình phát triển, luôn luôn nảy
sinh những mâu thuẫn cần giải quyết. Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ,
chúng ta đã có những chiến lược và sách lược đúng đắn.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận triết học Mác-
Lênin, chúng ta đã vạch rõ được con đường phát triển kinh tế đúng đắn đó là: ”luôn luôn
xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan.’(Trích’Văn kiện
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI”). Từ năm 1986, chúng ta đã tổng kết được những
bài học kinh nghiệm quý báu để đổi mới và cải cách kinh tế. Xây dựng một nền kinh tế
thị trường, một nền kinh tế nhiều thành phần, lành mạnh chính là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm chỉ đạo của Đảng vào thực tiễn hoàn cảnh trong nước và trên thế giới. Những
quan điểm đổi mới, tiến bộ đó là sự tôn trọng hoàn toàn những lý luận nhận thức và thực
tiễn chi phối nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm triết học Mác- Lênin, ta càng có cơ sở để khẳng định những
khởi sắc trong mười năm đổi mới cho dến nay từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI là những
thành công mang tính tất yếu do chúng ta đã vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
vào cải tạo thực tiễn. Chúng ta đã tôn trọng những bước phát triển có tính quy luật của

lịch sử, không đi ngược lại “guồng quay” của lịch sử.
II, MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Luôn luôn gắn lý thuyết với thực hành, nắm vững kiến thức thông qua sự hiểu biết
sâu rộngvấn đề là một phương châm hành động của sinh viên trong thời đại mới. Nghiên
Trang 4
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
cứu lý luận nhận thức và thực tiễn là một sự nghiên cứu sâu rộng của triết học trong mối
liên quan với phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Hơn thế nữa, đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thé hội nhập đang tăng
cao, nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát từ quá
trình nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của Đảng, Nhà
nước ta.
Muốn phát triển kinh tế vững mạnh thì phải luôn đặt nó với mối quan hệ với những
khoa học khác, đặc biệt là triết học. Sự thành công hay thất bại, phát triển hay lạc hậu của
bất cứ nền kinh tế nào là do có lập trường triết học đúng đắn. Bởi vì xuất phát từ một lập
trường triết học đúng đắn, con người có thể có được cách giải quyết phù hợp với những
vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm,
con ngưòi khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Trong hoạt dông kinh tế, một lập
trường triết học đúng đắn là tối cần thiết. Chỉ có triết học Mác - Lênin mới có được
những tính ưu việt này.
Đối với một sinh viên ngân hàng nói riêng và những cán bộ kinh tế nói chung, viếc
nắm vững triét học với những quy luật, lý luận, phương pháp của nó là không thể thiếu
được. Vì khi giải quyết những vấn đề phức tạp cụ thể như: các cán bộ làm công tác thực
tiễn này không thể tìm thấy được ở những cán bộ thuộc lĩnh vực chuyên ngành triết học
một câu trả lời cụ thể về vấn đề đó dược, nhưng trong hoạt động thực tiễn, những vấn đề
phức tạp này lại luôn nảy sinh.
III, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về sự
thống nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học và có
ý nghĩa về phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.

Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại nó gắn bó hết sức chặt
chẽ với cuộc sống, thực tiễn, chỉ đạo cho con người hành động. Nắm vững được mọi nội
dung của triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn sẽ làm cho con người
làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải tạo được xã hội, phát triển kinh tế mạnh mẽ.
Trang 5
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Vấn đề đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng VI có tác dụng tích cực đối với sự phát
triển của nền kinh tế hiện nay. Sau hơn mười năm đổi mới với những thành tựu nhất định
ta càng thấy rõ sự đúng đắn và cần thiết của bài học kinh nghiệm đó. Trong bài viết này,
chỉ tập trung phân tích vấn đề lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn của nền kinh tế Việt
Nam trong quá trình phát triển. Cùng với sự tổng kết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI trong văn kiện đã đánh dấu một mốc son lịch sử của Việt Nam chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động xây
dựng kinh tế, đổi mới kinh tế những năm gần đây và mối liên hệ của nó với thực tiễn và
các quy luật triết học là trung tâm của nội dung này.
IV, CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước văn kiện này, những bài học kinh nghiệm đã được
rút ra trong triết học Mác - Lênin và Đảng ta lấy đó làm “kim chỉ nam’ cho hoạt động của
mình. Triết học là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ; triết học
của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật
thế kỷ XVIII mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm
khi xem xét các hiện tượng xã hội. C.Mác và F.Enghen đã khắc phục những thiếu sót ấy,
đẩy triết học tiến lên hơn nữa bằng cách tiếp thu một cách có phê phán và có chọn lọc
những thành quả của triết hoc cổ điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hêghen.
Trong những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về
sự phát triển dưới hình thức toàn diện nhất, sâu sắc nhất và thoát hẳn được tính phiến
diện. Nhưng phép biện chứng của Heeghen là phép biện chứng duy tâm nên Mác và
Enghen đã cải tạo nó. Chính trong quá trình cải tạo này, Mác và Enghen đã gắn phép biện

chứng Hêghen với thực tiễn, phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, đẩy nó lên thành
chủ nghĩa duy vật bịên chứng.Vì vậy chính Mác và Enghen đã xây dựng một triết học
mới với thế giới quan duy vật nhất quán trong việc nhận thức xã hội. Cơ sở của những lí
luận trong học thuyết đó là những quy luật khách quan và thực tiễn xã hội (“Triết học
Mác- Lênin”- Chương trình cao cấp. Tập I;Tập san triết học).
Trang 6
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Vậy trong quá trình xây dựng nên triết học Mác, C.Mác và Enghen đã luôn đi từ
thực tiễn và những quy luật khách quan để định hướng lý luận nghiên cứu. Những lý luận
đó vì thế có cơ sở khoa học vững chắc, không sa vào siêu hình hay nhị nguyên luận như
các nhà triết học đi trước.
Để chỉ đạo hoạt động được đúng đắn, triết học Mác- Lênin chính là nền tảng bền
vững cho mọi mục tiêu, phương hướng phát triển mọi mặt của Đảng và Nhà nước ta.

Trang 7
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I. THỰC TIỄN
1. Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực quan
trọng đó là: hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật chất
đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi nó, tạo
ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.

Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang
tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở
đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
3. Tính chất lịch sử xã hội
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác nhau,
thay đổi về phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn vẻ
và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá trình
sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con người.
4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới, một
”thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện
Trang 8
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được giới tự nhiên mang lại
dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng phát triển và hoàn thiện
bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn là cơ sở của tất
cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con người không thích
nghi một cách thụ động mà thông qua hoạt động của mình, tác động một cách tích cực để
biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn.
a,Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là
tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với thế
giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật.
b.Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và
hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản
xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c. Hoạt động thực nghiệm khoa học

Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho thực
nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
II, THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn
của nhận thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự
vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của
chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con
người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động thực
tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức
cao hơn).
Trang 9
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác
quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương
tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
1,Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát
triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận
thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những
nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài
liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan
hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát
triển của sự vật.
2,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo

hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành
và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực
tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn,
thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người
mới có ý nghĩa.
3,Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục
vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
4,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a.Chân lý
Trang 10
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng
định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý tôn
giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá trình
nhận thức của nhân loại.
b.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động
thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực
hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận
thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được kiểm
tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng minh
hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn tiếp theo

chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có
khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c.Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường
mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng, bình
đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh
cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế
Trang 11
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to
lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt
động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn
cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ
đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ
nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những
quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên
bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.

2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực
tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là
hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả
mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Lý
Trang 12

×