Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

ÔN THI MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.46 KB, 29 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN PHÁP LUẬT
Nguồn gốc của nhà nước. Các đặc trưng cơ bản của nhà nước
Nguồn gốc Nhà nước:
Nhà nước là một phạm trù lịch sử , chỉ ra đời và tồn tại trong
một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội và cũng sẽ mất đi
với các cơ sở tồn tại của nó. Nhà nước ra đời từ các nguyên
nhân sau : + Sự phát triển của sản xuất cuối xã hội nguyên thuỷ
đã dẫn tới sự dư thừa tương đối của cải xã hội .
Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước có năm
đặc trưng cơ bản sau đây:


Nhà nước có quyền lực chính trị cơng cộng đặc biệt; có bộ
máy cưỡng chế, quản lý những công việc chung của xã hội.



Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ
thành các đơn vị hành chính.



Nhà nước có chủ quyền quốc gia.



Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có
quyền điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật.




Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế.

Đặc trưng cơ bản của pháp luật
Những đặc trưng cơ bản của pháp luật:
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc trưng cơ bản
sau:


 Tính quyền lực của pháp luật (tính nhà nước, tính cưỡng
chế):
Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một
cách khác, pháp luật được hình thành và phát triển bằng con
đường nhà nước chứ không thể bằng bất kỳ một con đường nào
khác. Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp,
cơng khai và có quyền lực bao trùm lồn xã hội. Vì vậy, khi
pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nó sẽ
có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến tất
cả mọi người. Đặc trưng này chỉ có ở pháp luật. Các loại quy tắc
xử sự khác chỉ có thể tác động trong một phạm vi hẹp, dưới
những phương thức "nhẹ nhàng” hơn và được bảo đảm bằng dư
luận xã hội, chứ không phải bằng quyền lực nhà nước như đối
với pháp luật (trừ những trường hợp đặc biệt được nhà nước
quan tâm).

 Tính quy phạm của pháp luật:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự đó là những khuôn mẫu,
những mực thước được xác định cụ thể, khơng trừu tượng,
chung chung. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần
thiết mà nhà nước quy định để mọi người (chủ thể) có thể xử sự
một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá giới hạn đó

là trái luật. Giới hạn đó được xác định ở nhiều khía cạnh khác
nhau như cho phép, cấm đốn, bắt buộc... Về nguyên tắc, pháp
luật phải cụ thể, khuôn phép, mực thước, khơng thể lạm dụng
hoặc tùy tiện. Vì vậy, nói đến pháp luật suy cho cùng là phải xét


đến các quy phạm cụ thể. Nếu khơng có quy phạm pháp luật
được đặt ra thì cũng khơng thể quy kết một hành vi nào là vi
phạm, là trái pháp luật. Những nguyên tắc: "Mọi người được
làm tất cả mọi việc trừ những điều mà pháp luật nghiêm cấm",
"mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” được hình thành là
dựa trên cơ sở của đặc trưng về tính quy phạm của pháp luật.
Chính đặc trưng cơ bản này đã làm cho pháp luật ngày càng có
"tính trội", hơn hẳn đối với các loại quy phạm xã hội trong xã
hội văn minh, hiện đại.

 Tính ý chí của pháp luật:
Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, khơng phải là kết
quả của sự tự phát hay cảm tính. Xét về bản chất, ý chí trong
pháp luật là ý chí của giai cấp, lực lượng cầm quyền. Y chí đó
thể hiện rõ Ơ mục đích xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật
và dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực tế đời
sống xã hội.
Trên thực tế chỉ có lực lượng nào nắm được nhà nước mới có
khả năng thể hiện ý chí và lợi ích của mình một cách tối đa trong
pháp luật. Một khi ý chí và lợi ích đã được hợp pháp hóa thành
pháp luật thì nó được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà
nước. Vì vậy mọi quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo
vệ pháp luật đều được diễn ra dưới những hình thức cụ thể, theo
những nguyên tắc và thủ tục chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tư

duy chủ động, tự giác của những nhà tư tưởng, những nhà chức
trách. Điều này cũng cho thấy rõ sự khác biệt giữa pháp luật với
các hệ thống quy phạm khác.


 Tính xã hội của pháp luật:
Mặc dù pháp luật có tính nhà nước, tính ý chí, nhưng tính xã hội
vẫn là một đặc trưng cơ bản không thể coi nhẹ. Như đã phân tích
trong mục 1 , muốn cho pháp luật phát huy được hiệu lực thì nó
phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội Ơ thời điểm
tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản ánh đúng những nhu
cầu khách quan của xã hội. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của
các mối quan hệ xã hội, pháp luật chỉ có khả năng mơ hình hóa
những nhu cầu xã hội khách quan đã mang tính điển hình, phổ
biến và thơng qua đó để tác động tới các quan hệ xã hội khác
hướng các quan hệ đó phát triển theo hướng đã được nhà nước
xác định. Như vậy ở đặc trưng này nét khác biệt của pháp luật so
với các quy phạm xã hội khác thể hiện ở tính tồn diện và tính
điển hình (phổ biến) của các mối quan hệ xã hội được pháp luật
điều chỉnh.
Xem xét những đặc trưng cơ bản nói trên của pháp luật càng cho
thấy rõ bản chất và sự khác biệt giữa pháp luật với các hiện
tượng khác. Cả bốn đặc trưng cơ bản đó đều có ý nghĩa quan
trọng và nằm trong mối quan hệ bản chất với nhau, không thể
chỉ chú trọng điểm này mà coi nhẹ điểm kia.
Tuy nhiên, những đặc trưng đã nêu chỉ là những đặc trưng cơ
bản, bên cạnh chúng cịn có những đặc trưng khác. Tùy thuộc
vào yêu cầu xem xét kỹ về một kiểu pháp luật, một hệ thống
pháp luật điển hình của một khu vực hoặc một quốc gia nhất



định, chúng ta sẽ đề cập một cách cụ thể hơn. Ví dụ: tính khái
quát và cụ thể, thành văn và khơng thành văn, tính nghiêm khắc
và nhân đạo...
QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Khái niệm
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự (quy định khuôn
mẫu của hành vi nghĩa là vào trong hồn cảnh này phải thực
hiện hành vi đó như thế nào) chỉ do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận.
Đặc điểm
Thể hiện ý chí của nhà nước.
– Mang tính bắt buộc chung.
– Được nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
– Được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Cơ cấu của quy phạm pháp luật
2.1. Giả định
Giả định thường nói về địa điểm, thời gian, các chủ thể, các
hoàn cảnh thực tế mà trong đó mệnh lệnh của quy phạm được
thực hiện tức là xác định môi trường cho sự tác động của quy
phạm pháp luật.
Ví dụ: Điều 161 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào trốn thuế
với số tiền từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng …”.


Trong quy phạm pháp luật trên bộ phận giả định là “ Người nào
trốn thuế …” – nói đến yếu tố chủ thể.
– Bộ phận giả định thường trả lời cho câu hỏi chủ thể nào? khi
nào? trong hoàn cảnh, điều kiện nào?
– Để áp dụng các quy phạm pháp luật một cách chính xác, nhất

quán phần giả định phải mơ tả rõ ràng những điều kiện, hồn
cảnh nêu ra phải sát hợp với thực tế. Do đó tính xác định là tiêu
chuẩn hàng đầu của một giả định.
2.2. Quy định
Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu quy
tắc xử sự buộc mọi chủ thể phải xử sự theo khi ở vào hoàn cảnh
đã nêu trong phần giả định của quy phạm.
Ví dụ: Điều 4 Thể lệ Bưu phẩm bưu kiện 1999 quy định: “Bưu
phẩm bưu kiện chỉ được mở kiểm tra trong các trường hợp: Hội
đồng xử lý bưu phẩm bưu kiện vô thừa nhận xác định là bưu
phẩm bưu kiện vô thừa nhận …”. Trong quy phạm pháp luật này
phần quy định là “BPBK chỉ được mở kiểm tra khi đã có xác
nhận của Hội đồng xử lý BPBK vô thừa nhận …”.
– Quy định là yếu tố trung tâm của quy phạm pháp luật bởi vì
trong quy định trình bày ý chí và lợi ích của nhà nước, xã hội và
cá nhân con người trong việc điều chỉnh những quan hệ xã hội
nhất định.
– Bộ phận quy định trả lời cho câu hỏi phải làm gì? được làm
gì? làm như thế nào?
2.3. Chế tài


Là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác
động mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không thực
hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong bộ phận quy
định của quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Điều 97 Bộ luật hình sự quy định “Người nào vơ ý làm
chết người thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”. Ở quy phạm
pháp luật này bộ phận chế tài là “thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5
năm”.

– Chế tài là một trong những phương tiện đảm bảo thực hiện bộ
phận quy định của quy phạm pháp luật. Chế tài chính là những
hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật.

Các hình thức thực hiện pháp luật
Tuân thủ pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật
không thực hiện các hành vi xử sự mà pháp luật cấm.
Ví dụ: Pháp luật cấm vượt đèn đỏ à không vượt à tuân thủ pháp
luật
Thi hành pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật chủ
động thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Ví dụ: Pháp luật quy định đến tuổi phải thực hiện nghĩa vụ quân
sự à đi nghĩa vụ à thi hành pháp luật
Sử dụng pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật thực
hiện các quyền của mình do pháp luật quy định.
Ví dụ: Pháp luật quy định cơng dân có quyền kết hơn à đi đăng
ký kết hơn à sử dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là việc các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước có thẩm quyền thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.


Ví dụ: Cơng dân đến UBND để đăng ký kết hôn à cán bộ UBND
xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn à áp dụng pháp
luật
Luật hiến pháp
Luật Hiến pháp là một ngành luật gồm tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức
quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ của công dân, về quốc

tịch.....[1] Đây là ngành luật chủ đạo, cơ bản nhất trong hệ thống
pháp luật của một quốc gia, nó điều chỉnh những quan hệ xã hội
quan trọng nhất, cơ bản nhất và tất cả những ngành luật khác đề
hình thành trên những nguyên tắc của hiến pháp. Nguyên thủy
của Luật Hiến pháp chỉ điều chỉnh hai vấn đề cơ bản là cách
thức tổ chức bộ máy nhà nước và quyền công dân.[2] Qua quá
trình phát triển của lịch sử, cùng với việc nhà nước ngày càng
can thiệp sâu vào đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa, phạm vi
điều chỉnh của Luật Hiến pháp ngày càng rộng rãi, bao gồm tất
cả những quan hệ cơ bản, quan trọng của một quốc gia bên cạnh
lĩnh vực tổ chức nhà nước như cơ sở kinh tế, chính trị, cơ sở văn
hóa... đây cũng là một điểm đặc trưng của Luật Hiến pháp theo
trường phái Xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời
Nếu xét về mặt thuật ngữ "Hiến pháp" đã tồn tại rất lâu với ý
nghĩa là xác định, quy định. Các Hoàng đế La Mã cổ đại dung từ
"Constitutio" để gọi các văn bản quy định của nhà nước. Từ
"Hiến" được sử dụng trong Kinh Thi với ý nghĩa khuôn phép
cho vua, chúa. Luật Hiến pháp ra đời cùng với sự ra đời của


Hiến pháp. Hiến pháp ra đời muộn so với các luật khác nhưng
ngay từ khi xuất hiện nó bắt tất cả các văn bản khác phải suy tơn
nó. Hiến pháp đầu tiên trên thế giới ra đời là Hiến pháp của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ (1787). Qua nhiều lần sửa đổi, hiện nay
hiến pháp Hoa Kỳ là một trong số hiến pháp hoàn thiện nhất trên
thế giới với các bộ phận là Hiến pháp (1787) và các Tu chính án.
Hiến pháp Hoa Kỳ gồm hai nội dung chính đó là: Sự phân chia
quyền lực Nhà nước thông qua tổ chức hoạt động bộ máy Nhà
nước và các quyền tự nhiên của con người. Mục đích của việc

quy định hai nội dung trên là để giới hạn quyền lực Nhà nước và
bảo vệ các quyền tự nhiên của con người tránh sự lạm quyền từ
phía các cơ quan Nhà nước.
Các giai đoạn phát triển của Luật Hiến pháp


Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn này được tính từ năm 1787
đến năm 1917. Đây là giai đoạn phát triển đầu tiên của Luật
Hiến pháp với hai đặc điểm chủ yếu là: phạm vi các nước có
Hiến pháp rất hẹp, chủ yếu là các nước có chính thể dân
chủ hoặc qn chủ lập hiến như Hoa
Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản và hiến pháp trong giai đoạn
này cũng chỉ quy định hai nội dung cơ bản là tổ chức bộ máy
Nhà nước và một số quyền cơ bản của công dân (các quyền tự
do, dân chủ), việc nghiên cứu, học tập về Luật Hiến pháp
cũng chỉ nằm ở một phạm vi nhất định.



Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn này được tính từ năm 1917
đến năm 1945. Sự phát triển của Luật Hiến pháp trong giai
đoạn này có 2 đặc điểm là: Bên cạnh Luật Hiến pháp các
nước theo hệ tư tưởng tư sản còn xuất hiện thêm Luật Hiến
pháp của các nước theo chính thể Xã hội chủ nghĩa (do ảnh
hưởng của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự


hình thành nhà nước Liên bang Cộng hịa Xã hội Chủ
nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô). Luật Hiến pháp xã hội chủ
nghĩa có 3 đặc trưng cơ bản là: Hiến pháp Xã hội chủ nghĩa

có khuynh hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh trong các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hóa, Giáo dục; khơng thừa nhận sự
phân chia quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc "Tam quyền
phân lập" của học giả người Pháp Montesquieu (tên thật là
Charles-Louis de Secondat) mà áp dụng nguyên tắc tập quyền
Xã hội chủ nghĩa; không thừa nhận khái niệm "Quyền tự
nhiên" của con người mà thay vào đó là các "Quyền cơng
dân".


Giai đoạn thứ ba: Giai đoạn này được tính từ năm 1946
đến năm 1989. Đây là giai đoạn mà Luật Hiến pháp bước đầu
được tồn cầu hóa. Thời kỳ đánh dấu sự thắng lợi của phong
trào đấu tranh giành độc lập của các nước Châu Phi kéo theo
một loạt nhà nước dân chủ ra đời nên việc ban hành hiến pháp
mang tính tồn cầu vì vậy Luật Hiến pháp cũng phát triển
rộng rãi, việc nghiên cứu, học tập về Luật hiến pháp ngày
càng được quan tâm.



Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn này được tính từ năm 1990
đến nay. Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự đa dạng trong
đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp. Sau khi Liên Xô và
các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ các nước theo
chính thể Xã hội chủ nghĩa ở châu Á và Mĩ la tinh như Trung
Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cuba, Lào,…) vẫn nỗ lực theo
đuổi con đường Xã hội chủ nghĩa thông qua hàng loạt cuộc
cải cách, đổi mới và đã có những sự điều chỉnh Hiến pháp của
mình cho phù hợp với tình hình mới. Nội dung của Hiến pháp

ngày càng đa dạng hơn.[6]


Xu hướng phát triển của Luật Hiến pháp
Kể từ khi bản Hiến pháp đầu tiên của nhân loại ra đời cho đến
nay (Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1787), lịch sử lập
hiến của tồn thế giới đã có những bước phát triển vươt bậc gắn
với sự phát triển của đời sống kinh tế chính trị của từng xã hội
cụ thể. Theo Giáo sư B.A. Xtraun, nhà Hiến pháp học
người Nga thì có ba xu thế phát triển cơ bản là: Xu thế xã hội
hóa Hiến pháp nói riêng và Luật Hiến pháp nói chung, theo đó,
các nước đều đưa những quan hệ về kinh tế, văn hóa - xã hội cơ
bản cùng với những quan hệ chính trị truyền thống vào phạm vi
đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp. Xu thế dân chủ hóa Luật
Hiến pháp, biểu hiện thông qua sự thay thế chế độ bầu cử hạn
chế bằng chế độ bầu cử phổ thông, sự mở rộng các quyền tự do,
dân chủ cá nhân, hình thức trưng cầu dân ý và các chế định dân
chủ mới như tư pháp hành chính, giám sát hiến pháp.... Xu thế
quốc tế hóa (hay tồn cầu hóa) Luật Hiến pháp, biểu hiện bằng
mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa Luật Hiến pháp của các
nước và luật pháp quốc tế.[7]
Vị trí của Luật Hiến pháp trong hệ thống pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của mỗi nước, Luật Hiến pháp giữ vị
trí chủ đạo vì nó có đối tượng điều chỉnh đặc biệt và là cơ sở để
liên kết các ngành Luật khác. Ví dụ: Luật Hiến pháp quy định cơ
cấu tổ chức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước, xác định nguyên tắc của mối quan hệ giữa
cơng dân và nhà nước, đó chính là những nguyên tắc chủ đạo để
xây dựng ngành luật hành chính,[8] hay là Luật Hiến pháp xác
lập những nguyên tắc cơ bản trong những quan hệ kinh tế, xác

lập nền tảng cơ bản cho việc xây dựng ngành luật dân sự,
[9]
thương mại,[10] kinh tế[11]...


Nói cách khác, đó là những quy định làm nền tảng cho các điều
luật về tổ chức quyền lực nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân và mối liên hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với nội dung như vậy,
Luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo, làm cơ sở pháp lý cao
nhất trong quốc gia, đề ra những quy tắc căn bản nhất, ban hành
các loại văn bản quy phạm pháp luật cho các ngành luật khác.[12]
Vị trí trung tâm của Luật Hiến pháp khơng có nghĩa là Luật
Hiến pháp sẽ bao trùm và thống nhất tất cả các ngành luật. Luật
Hiến pháp chỉ xác lập những nguyên tắc cơ bản cho các ngành
luật khác. Luật Hiến pháp cịn quy định cả trình tự, thơng qua,
sửa đổi quy phạm của các ngành luật khác.[13]
Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là những quan hệ xã
hội nảy sinh trong hoạt động của con người bao gồm những hoạt
động phổ biến nhất, cơ bản và quan trọng nhất của Nhà nước và
các quyền cơ bản của công dân. Phương pháp điều chỉnh của
Luật Hiến pháp gồm 03 phương pháp cơ bản là phương pháp bắt
buộc, phương pháp cho phép và phương pháp cấm.[14]
Nguồn của Luật Hiến pháp
Nguồn cơ bản của luật Hiến pháp là những văn bản quy phạm
pháp luật có chứa đựng quy phạm pháp luật hiến pháp gồm Hiến
pháp, đây là nguồn quan trọng, chủ yếu và phổ biến nhất; các
văn bản do cơ quan lập pháp, hành pháp, giám sát ban hành; các
văn bản pháp luật do cơ quan địa phương ban hành. Ngoài ra, ở

một số nước như các nước theo Hệ thống pháp luật Anglo-Saxon
như Anh, Hoa Kỳ, Ấn Độ,…, nguồn của Luật Hiến pháp còn
bao gồm cả án lệ (tiền lệ pháp). Một số nước khác còn bao gồm
cả những tập quán pháp, ví dụ ở Vương quốc Anh có tồn tại tập


quán sau: "Nhà Vua phải đồng ý với những sửa đổi do Nghị
Viện Anh thông qua" hoặc "Thượng Nghị viện khơng có quyền
trình dự án về tài chính". Ở Iran, bộ kinh thánh Coran là nguồn
của Luật Hiến pháp. Ngày nay, các điều ước quốc tế cũng đã trở
thành nguồn của Luật Hiến pháp của đa số các nước trên thế
giới.[15]
Các hình thức xử lí vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng với các tổ
chức, cá nhân vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
bao gồm các hình thức xử phạt chính (cảnh cáo; phạt tiền) và
các hình thức xử phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng đẻ vi phạm hành chính; trục xuất).
Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân tổ chức vi phạm chỉ
phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính. Tùy theo tính
chất,mức độ vi phạm, cá nhân tổ chức vi phạm hành chính cịn
có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung.
+ Cảnh cáo được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ, hoặc đối với mọi hành
vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện.
+ Phạt tiền được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm

hành chính và không thuộc trường hợp bị xử phạt cảnh cáo. Mức
phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính, tùy theo tính chất và


mức độ vi phạm, tối thiểu là 5.000 đồng và tối đa là 500.000.000
đồng. Tiền xử phạt vi phạm hành chính được đưa vào ngân sách
nhà nước.
+ Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được áp
dụng có thời hạn hoặc khơng có thời hạn đối với các tổ chức, cá
nhân vi phạm nghiêm trọng quy tắc sử dụng giấy phép.
+ Tịch thu tang vật, phương tiện được dùng để vi phạm hành
chính. Người có thẩm quyền xử phạt quyết định biện pháp tịch
thu để sung vào công quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng
hóa, tiền bạc… dùng để thực hiện vi phạm hành chính hoặc do
vi phạm kèm theo hình thức mà có.
+ Trục xuất được áp dụng với người nước ngồi có hành vi vi
phạm pháp luật Việt Nam, buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ Việt
Nam. Trục xuất có thể áp dụng như một biện pháp xử phạt chính
hoặc như một biện pháp xử phạt bổ sung khi được áp dụng kèm
theo hình thức phạt chính khác.Đi kèm theo các hình thức xử
phạt hành chính, đối với cá nhân tổ chức vi phạm hành chính, cơ
quan có thẩm quyền xử phạt hành chính cịn có thể áp dụng một
hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như sau:
– Buộc khơi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi
phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ cơng trình xây dựng
trái phép.
– Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ơ nhiễm
mơi trường sống, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây
ra.



– Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng
hóa, vật phẩm, phương tiện vi phạm.
– Buộc thiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật
ni, cây trồng và văn hóa phẩm độc hại.
– Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.
* Các biện pháp xử lý hành chính khác:
Ngồi các hình thức xử lý vi phạm hành chính nêu trên, việc xử
lý vi phạm hành chính cịn bao gồm các biện pháp xử lý hành
chính khác, chỉ áp dụng đối với các cá nhân:
– Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
– Đưa vào trường giáo dưỡng;
– Đưa vào cơ sở giáo dục;
– Đưa vào cơ sở chữa bệnh;
– Quản chế hành chính.
Các biện pháp xử lý hành chính nói trên nhằm mục đích giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng vi phạm pháp luật
về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà chưa đến mức phải xử lý
hình sự, nhằm tạo điều kiện cho những đối tượng này trở thành
công dân lương thiện, ngăn ngừa khả năng họ có thể tái phạm.
Các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành
chính.Bên cạnh các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, trong


việc xử lý vi phạm hành chính người ta cịn có thể áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành
chính là:
– Tạm giữ người theo thủ tục hành chính;
– Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
– Khám người;

– Khám phương tiện vận tải, đồ vật;
– Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
– Bảo lãnh hành chính;
– Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp
bỏ trốn.
Các nguyên tắc xử lí vi phạm hành chính
a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn
kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi
phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy
định của pháp luật;
Ngun tắc này địi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải tích cực
chủ động trong việc thanh tra, kiểm tra và thực thi công vụ để
kịp thời phát hiện vi phạm hành chính. Khắc phục kịp thời hậu
quả của nó gây ra nhằm đảm bảo lập lại trật tự pháp luật, phịng
ngừa và chống vi phạm hành chính, giáo dục người dân trong xã


hội có ý thức tơn trọng pháp luật, thực hiện các quy tắc sống
cộng đồng.
b) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh
chóng, cơng khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm
công bằng, đúng quy định của pháp luật;
Việc phát hiện hành vi vi phạm, đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền phải tiến hành xử lý một cách nhanh chóng, chính xác và
triệt để. Đảm bảo xử lý nghiêm minh và đúng pháp luật.
c) Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất,
mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm
nhẹ, tình tiết tăng nặng;
Nguyên tắc này địi hỏi người có thẩm quyền xử phạt trước khi

ra quyết định xử phạt phải làm rõ, phân tích mức độ cũng như
tính chất, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với từng hành vi
vi phạm hành chính cụ thể. Nếu vi phạm do nhiều người gây ra
thì phải đánh giá chính xác mức độ lỗi của mỗi người tham gia
thực hiện vi phạm hành chính đó để từ đó có thể ra các biện
pháp xử phạt hợp lý cho từng người. Và tất cả các tình tiết đó
đều phải được ghi trong biên bản xử phạt.
d) Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm
hành chính do pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành
chính chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người cùng thực hiện một
hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử
phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
Một hành vi bị coi là vi phạm hành chính khi hành vi đó đã được
pháp luật hành chính quy định, nếu pháp luật chưa quy định thì


khơng có vi phạm hành chính xảy ra và đương nhiên khơng thể
bị xử phạt hành chính đối với hành vi đó được.
Nếu một hành vi vi phạm đã bị một người có thẩm quyền lập
biên bản xử phạt hoặc ra quyết định xử phạt thì khơng được lập
biên bản hoặc ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với cùng một
hành vi đó nữa. Đối với trường hợp một người thực hiện nhiều
hành vi vi phạm, thì người đó sẽ bị xử phạt về từng hành vi, sau
đó tổng hợp lại thành hình phạt chung.
Trường hợp nhiều người cùng thực hiện một vi phạm hành chính
thì mỗi người đều bị xử phạt. Vì vi phạm hành chính đó tổng
hợp của tất cả các hành vi vi phạm của mỗi người.
đ) Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh
vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự
mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp chứng minh

mình khơng vi phạm hành chính;
Khi phát hiện có hành vi vi phạm hành chính, người có thẩm
quyền cần phải làm rõ, chứng minh cho người vi phạm thấy
được lỗi của mình, được quy định trong pháp luật. Người bị xử
phạt có thể chứng minh mình khơng có lỗi thơng qua người đại
diện Đây là điều kiện cần thiết và đảm bảo đảm quyền lợi cho
người bị xử lý hành chính.
e) Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt
tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá
nhân.


Nguyên tắc này nhằm xử lý nghiêm minh, công bằng đối trong
trường hợp vi phạm hành chính của một tổ chức. Mức phạt tiền
tăng gấp đôi so với cá nhân là một điều phù hợp.
Tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho Xã hội được quy định
trong BLHS do người có năng lực, trách nhiệm Hình sự thực
hiện một cách cố tình hay vơ ý. Xâm phạm độc lập chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, xâm phạm chế độ
nhà nước XHCN, chế độ kinh tế sở hữu XHCN, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự Pháp luật XHCN.
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây hại lớn cho Xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 05
năm tù, tù trung thân hoặc tử hình.
3. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính
nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể, thì khơng phải là tội phạm
và được xử lý bằng các biện pháp khác.

Phân loại tội phạm
1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm
được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt
tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức
độ nguy hiểmcho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình


phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù
đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên
07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất
của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ
trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm:
a. Khách thể tội phạm
Khái niệm: Là quan hệ trong xã hội bị hành vi phạm tội
xâm phạm và được luật hình sự bảo vệ. (Khách thể khác đối
tượng tác động)
b. Khách quan tội phạm
Khái niệm: Những việc biểu hiện của tội phạm diễn ra bên
ngồi, nó tồn tại một cách khách quan mà ta khơng thể bóp méo,

xun tạc.
Bao gồm hành vi phạm tội và hậu quả của hành vi đó (Lưu ý
phải có quan hệ nhân quả).
c. Chủ quan của tội phạm:
Là hoạt động và diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm (suy
nghĩ, hối cãi, ăn năn, xảo quyệt, không thành thật,..)
Xét kỹ xem hành vi phạm tội do cố ý hoặc vô ý, thấy được
những hậu quả của hành vi phạm tội hay khơng (có lỗi, khơng
có lỗi)
d. Chủ thể của tội phạm:


Là con người cụ thể đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi
mà luật hình sự quy định (Là con người cụ thể, có lý trí, ý chí,
đủ tuổi)
Chủ thể đặc biệt:
Ngoài những dấu hiệu chung, chủ thể đặc biệt địi hỏi phải
có dấu hiệu khác như:
- Chức vụ, quyền hạn
- Nghề nghiệp, tính chất cơng việc
- Liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện
- Đặc điểm về tuổi
- Giới tính
- Quan hệ gia đình, họ hàng.
Một là, Tội phạm ít nghiêm trọng, là loại tội phạm có tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất
của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy
là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm;
Hai là, Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức

độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình
phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm
tù đến 07 năm tù;
Ba là, Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ
trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
Bốn là, Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với


tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình.
Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng
thực hiện một tội phạm. Người tổ chức, người thực hành,
người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng
phạm
Các loại đồng phạm
(i) Người thực hành: là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
(ii) Người tổ chức: là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc
thực hiện tội phạm
(iii) Người xúi giục: là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người
khác thực hiện tội phạm
(iv) Người giúp sức: là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc
vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
Thừa kế
Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho
người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp

luật.
Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Trường hợp Tịa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm
mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ
luật dân sự 2015.


2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại
di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa
điểm mở thừa kế là nơi có tồn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di
sản.
Di sản
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác.
Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm
mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường
hợp người thừa kế theo di chúc khơng là cá nhân thì phải tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế.
Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường
hợp có thoả thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do



người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả
thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người
chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng
khơng vượt q phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di
sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc
hoặc do những người thừa kế thoả thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và
những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì
người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý
di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản
lý di sản.
3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa
có người quản lý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này
thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Nghĩa vụ của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều


616 của Bộ luật dân sự 2015 có nghĩa vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người
chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác;

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố,
thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu khơng
được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
c) Thơng báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây
thiệt hại;
đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại
khoản 2 Điều 616 của Bộ luật dân sự 2015 có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố,
thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;
b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây
thiệt hại;
d) Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để
lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.


×