Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.74 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM


Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
I.

3

Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

4

1. Khái niệm cơ bản về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 4
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lê nin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 4
3. Tính tất yếu của thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội

6

II. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 12
1. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.12
2. Khả năng tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

15


3. Nhận thức về quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB ở Việt Nam

16

III. Những phương hướng – nhiệm vụ cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
17
KẾT LUẬN 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


LỜI MỞ ĐẦU

Kể từ khi con người xuất hiện, nhiều hình thái xã hội hình thành: cuộc sống
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao đang hướng tới
xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với mỗi hình thái xã hội thì gắn liền với một hình thái kinh
tế mang nét đặc trưng riêng. Tư bản chủ nghĩa cũng vậy, đây là một giai đoạn mà của cải
vật chất của xã hội được sản xuất ra nhiều hơn tất cả các giai đoạn trước cộng lại. Một
giai đoạn chứng kiến bao sự biến đổi cả về mặt chất lẫn về mặt lượng của xã hội loài
người : kinh tế , khoa học kĩ thuật , chính trị , văn hố ... Tuy nhiên trong giai đoạn này
cũng là một giai đoạn phát triển còn nhiều thiếu sót như phân biệt giàu nghèo , khủng
hoảng kinh tế, chiến tranh bất công bằng trong xã hội ...Từ những khuyết tật đó , con
người muốn hướng tới một xã hội ở đó con người có quyền bình đẳng , khơng cịn đói
nghèo và áp bức bóc lột , vật chất sản xuất ra có thể đáp ứng mọi nhu cầu của con
người... đó chính là chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng liệu xã hội tiến lên cộng sản chủ
nghĩa bằng con đường nào và trong bao lâu, đây là một bài toán nan giải đã đang và sẽ
đặt ra với tất cả nhân loại. Để tiến lên xã hội chủ nghĩa thì cần phải trải qua hai giai đoạn:
đó là giai đoạn chủ nghĩa xã hội và giai đoạn chủ nghĩa cộng sản. Hiện nay nước ta đang

ở thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; một thời kì mang tính chất q độ, cái mới thì chưa
thành, cái cũ thì chưa hồn tồn dứt bỏ, thời kì này có sự giao nhập của nhiều tư tưởng.
Bài viết của em tìm hiểu về các vấn đề xung quanh tính tất yếu của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và liên hệ thực tiễn với Việt Nam. Bài viết được chia ra làm ba phần
chính: Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam và những phương hướng – nhiệm vụ cơ bản xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


I. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Khái niệm cơ bản về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Muốn hiểu được rõ thế nào là thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước hết ta phải
hiểu được thế nào là thời kỳ quá độ. Theo lý luận Mác-Lênin đã khẳng định muốn tiến từ
một phương thức sản xuất thấp lên một phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải
trải qua thời kỳ quá độ. Mác đã khái quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “Thời kỳ q độ là
thời kì cài biến Cách mạng khơng ngừng, triệt để và toàn diện từ phương thức sản xuất
này sang phương thức sản xuất khác. Trong thời kỳ quá độ xét về mặt kinh tế, chính trị,
xã hội đó là một thời kì có nhiều mâu thuẫn đặt ra đòi hỏi lý hiện phải giải quyết triệt để”.
Từ khái niệm về thời kỳ quá độ ở trên ta có cơ sở để tìm hiểu về thời kỳ quá độ lên
CNXH. Cũng trong di sản lý luận kinh điển Mác Xít thì q độ lên CNXH là sự phát
triển trực tiếp từ những luận chứng khoa học về tính tất yếu lịch sử của CNXH về vai trò
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo lý luận này thì: “Quá độ lên CNXH là
sự chuyển tiếp quá độ bằng Cách mạng để phủ định một trật tự của xã hội cũ sang một
trật tự xã hội mới với phương thức sản xuất mới, quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu mới
mang tính chất xã hội chủ nghĩa, với Nhà nước kiểu mới mà chai thế quyền lực là giai
cấp công nhân và nhân dân lao động”. Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới- xã hội XHCN. Nó diễn
ra trong tồn bộ nền các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra các tiền đề vật chất, tinh thần
cần thiết để hình thành một xã hội mới mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội
XHCN từng bước được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được

chính quyền, bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết thúc khi đã xây dựng
xong về cơ bản cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lê nin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh của Gota” C. Mác chỉ rõ: “Giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước


của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp
vơ sản”. Cái xã hội mà C. Mác nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
phát triển trên cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thốt
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện kinh tế, đạo đức,
tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra. Trong xã hội này
cịn nhiều thiếu sót “nhưng đó là những thiếu sót khơng thể tránh khoi trong giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xa hội tư ban chủ nghĩa ra,
sau những cơn đau để kéo dài. Như vậy, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản bao
gồm ba giai đoạn: một thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một giai đoạn mà ngày nay
gọi là chủ nghĩa xã hội (chính là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản) và một giai đoạn
là chủ nghĩa cộng sản đã đứng vững trên cơ sở của chính nó.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ lịch sử đặc biệt, thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để tự xã hội cũ (xã hội tư bản chủ nghĩa) thành xã hội
mới (xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa), tạo ra những tiền
đề vật chất, tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc
căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ được thực hiện. Thời kỳ này được bắt đầu từ khi
cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vơ sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng
xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị của
chủ nghĩa xã hội. Có hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Một là, quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây là hình thức quá độ
vận động theo quy luật phát triển tuần tự.
Hai là, quá độ gián tiếp từ xã hội trước hay tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây là hình

thức quá độ phản ánh sự phát triển nhảy vọt quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở những nước có nền kinh tế kém phát triển.
3. Tính tất yếu của thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội
Một là, Theo VI. Lênin tất yếu xảy ra quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc điểm
ra đời phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định. Chủ


nghĩa tư bản. và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây
dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về các tư liệu sản xuất, dựa trên chế độ áp
bức và bóc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể, khơng cịn các giai cấp
đối kháng, khơng cịn tình trạng áp bức, bóc lột.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Nhưng khơng
thể ngay tức khắc tước quyền sở hữu của giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản. Hơn nữa, chỉ
riêng việc tước đoạt quyền sở hữu cũng chưa giải quyết được vấn đề, mà còn phải thay
thế sự quản lý của giai cấp bóc lột bằng sự quản lý khác do giai cấp cơng nhân đảm
nhiệm. Hơn nữa, giai cấp bóc lột thống trị đã bị đánh đổ, nhưng nó vẫn sẽ cịn giữ được
nhiều ưu thế thực sự và lớn lao, vì họ cịn có tiền, bất động sản, cịn những mối liên hệ,
những kinh nghiệm về tổ chức quản lý, trình độ học vấn cao hơn và có cả những mối liên
hệ quốc tế.
Xóa bỏ giai cấp là một việc lâu dài, muốn thực hiện được việc đó phải đạt được
một bước tiến khổng lồ trong sự phát triển lực lượng sản xuất, chiến thắng tàn dư của sản
xuất nhỏ, phân tán, khả năng xóa bỏ giai cấp chỉ xuất hiện từ những điều kiện vật chất
của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa hiện đại mà thôi. Cách mạng vơ sản có điểm khác
biệt căn bản so với cách mạng tư sản. Đối với cách mạng tư sản, quan hệ sản xuất phong
kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
nên quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lịng xã hội phong kiến;
nhiệm vụ của nó chỉ là giải quyết về mặt chính quyền nhà nước làm kinh tế thị trường
thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kì lâu dài,

khơng thể ngay một lúc có thể hồn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng
năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây
dựng kiểu xã hội mới, cần khơng ít thời gian. Như vậy, sự hình thành chế độ mới có thể
ví như một cơn đau đẻ kéo dài do đó nó cần phải có thời gian, có những sự chuẩn bị và
những tích lũy vật chất cần thiết đủ cho nó lọt lịng và phát triển.


Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại cơng nghiệp với
trình độ khoa học kỹ thuật cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở
vật chất – kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn cho cơ sở vật chất kỹ
thuật đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian sắp xếp lại. Đối với những nước
chưa từng trải qua quá trình cơng nghiệp hóa muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá
độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có thể kéo dài với
nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Nền sản xuất đại cơng nghiệp với trình độ khoa học kỹ thuật cao đưa năng xuất lao
động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những
nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho
tồn dân. Nền đại cơng nghiệp đó phát triển trên cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân
và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại sẽ quyết
định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ
cao của phương thức thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương
ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của
lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (cơng nghệ) tương ứng mà lực
lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là sự biến
đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kỹ thuật; tính chất và
trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật

chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản
xuất đó. Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ
nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hố. Chủ nghĩa xã hội - giai
đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật


chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với
thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có cơng
nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ là
những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước này phải thực hiện quy
luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, tiếp
thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa học và cơng nghệ vào sản xuất,
hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học và cơng nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong
tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất y
mang tính phổ biến và được thực hiện thơng qua cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều
kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần
phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Chủ nghĩa tư bản, dưới hình thực hiện đại nhất của nó là chủ nghĩa tự do mới, đã
bị phê phán quyết liệt ngay từ bên trong và ở quy mơ tồn cầu. Đảng ta hồn tồn có căn
cứ khi khẳng định: “Chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất cơng.

Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tự bản
chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng


hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu
thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định vận
mệnh của chủ nghĩa tư bản”, đó là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế các
phương thức sản xuất, nhưng không phải phương thức sản xuất này kết thúc hoàn toàn rồi
mới ra đời phương thức sản xuất khác. Giữa phương thức sản xuất cũ và phương thức sản
xuất mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ, mà ở đó kết cấu kinh tế - xã
hội cũ bị suy thoái dần, kết cấu kinh tế - xã hội mới ra đời, lớn mạnh dần và tiến tới giữ
địa vị thống trị.
Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự biến
đổi và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác khẳng định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chắc chắn sẽ bị thay thế bằng
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đó là một quy luật khách quan của lịch sử và
thời đại ngày này chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Sở dĩ nói thời đại ngày nay là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế
giới là vì, thực tiễn lịch sử cho thấy, từ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thành
công ở nước Nga năm 1917, nhân loại đã thực sự bước vào một giai đoạn phát triển mới giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, mặc dù hệ thống chủ nghĩa xã hội thế
giới đã bị sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa nhìn chung đang trong giai đoạn thoái trào
" nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên
định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thắng lợi to lớn,
tiếp tục trỗi dậy, phát triển mạnh mẽ, phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có những
bước phục hồi. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển nhưng về bản chất vẫn
là chế độ áp bức bóc lột và bất cơng. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư
bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất

với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà
ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.


Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao
động quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản".
Đó là xu thế, là tiến trình vận động tự nhiên của lịch sử thế giới. Chủ nghĩa tư bản
mặc dù vẫn còn tiềm năng tồn tại và phát triển nhưng những mâu thuẫn nội tại của nó
ngày càng trở nên gay gắt khơng thể dung hịa được, những cuộc khủng hoảng trầm trọng
về kinh tế, chính trị và xã hội những năm đầu thế kỷ XXI báo hiệu chủ nghĩa tư bản đang
ở thời kỳ suy thối tồn diện; bên cạnh đó, cùng với sự cải cách, đổi mới thành công của
Việt Nam và Trung Quốc, phong trào cánh tả và xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới cũng
đang trỗi dậy mạnh mẽ. Hơn nữa, nhiều nước tư bản phát triển theo xu hướng xã hội dân
chủ cũng cho thấy nhiều dấu hiệu thực tế của một xã hội tương lai thay thế chủ nghĩa tư
bản đang hình thành và ra đời ở chính trong lịng những nước tư bản chủ nghĩa phát
tương lai thay thế chủ nghĩa tư bản đang hình thành và ra đời ở chính trong lịng những
nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Với những ý nghĩa trên, rõ ràng, xã hội lồi người đang
chuyển mình mạnh mẽ sang một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa như một tiến trình
phát triển lịch sử tự nhiên.
Độ dài của thời kỳ quá độ bao giờ cũng bị qui định bởi đặc trưng văn hóa và xuất
phát điểm khi bước vào thời kỳ quá độ của mỗi quốc gia cụ thể, VI Lênin cho rằng, cần
phải có một thời kỳ quá độ khá dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ơng cịn nói
cụ thể hơn: "tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ
nghĩa xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài) tiến lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa”. Như vậy theo VI. Lênin, bản thân những nước có điểm xuất phát khi | bước vào
thời kỳ quá độ là từ chủ nghĩa tư bản đã cần phải có độ dài của thời kỳ quá độ là khá lâu
dài thì đối với những nước có điểm xuất phát thấp hơn chủ nghĩa tư bản - tiền tư bản chủ
nghĩa, thì càng chắc chắn rằng sẽ có thời kỳ quá độ còn phải lâu dài hơn gấp nhiều lần.
Bởi lẽ, về mặt khách quan, chủ nghĩa xã hội ra đời trên cơ sở của sự phát triển chủ nghĩa
tư bản; hay nói cách khác, trong q trình phát triển mạnh mẽ của mình, chủ nghĩa tư bản

đã tạo ra tiền đề hiện thực (cả vật chất và tinh thần) cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Đó khơng chỉ là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, nền đại công


nghiệp, phương pháp quản lý, tổ chức sản xuất và xã hội mà cịn cả sự phát triển tồn
diện của văn hóa, xã hội và con người. Đó chính là tiền đề hiện thực của sự ra đời của xã
hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cơng việc khó khăn, phức tạp
và mới mẻ, phải cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những
cơng việc đó.
Thời kỳ q độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã
hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển.
Bởi lẽ, ở các nước này tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải
cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Đối với những
nước thuộc loại này, có nhiều thuận lợi hơn, do vậy thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn
hơn. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa thì càng phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài.
VI. Lênin từng nói, chúng ta biết rằng việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh vơ cùng khó khăn. Nhưng chúng ta sẵn sàng chịu hàng
nghìn khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và, khi chúng ta đã thực hiện được một
nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ thực hiện cái lần thử thứ một nghìn lẻ một. Chưa trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là chưa có đầy đủ cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở xã hội và con người để tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng và
vững chắc. Tuy nhiên, đối với những nước chưa trải qua quá trình phát triển chủ nghĩa tư
bản thì, muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải thực hiện thời kỳ
quá độ một cách lâu dài với những bước đi thích hợp và với một khối lượng cơng việc to
lớn bao gồm trong đó không chỉ những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà hơn thế, còn phải đồng thời đạt được cả những thành tựu
căn bản mà chủ nghĩa tư bản phải mất hàng trăm năm mới có được.
C. Mác cho rằng thời kì này bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có nghĩa là tiến

trình q độ khơng dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải qua nhiều khúc quanh;


những quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng. Điều đó cũng được Lênin khẳng định
rằng: Trong thời kỳ quá độ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội có khi phải “làm lại
nhiều lần” mới xong và trong thực tế diễn biến của tiến trình quá độ trong gần chín mươi
năm qua với những thất bại thăng trầm cũng đã chứng minh điều đó. Như vậy, chắc chắn
thời kỳ q độ khơng chỉ vơ cùng khó khăn, phức tạp mà còn là một giai đoạn phát triển
rất lâu dài đối với những nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

II. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ khi hịa bình lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1975, sau khi nước ta đã hoàn thành độc lập và thống nhất,
cách mạng dân tộc - dân chủ đã hoàn thành thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước
cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã xác
định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường
đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản”.
Thời kỳ quá độ là một thời kì lịch sử, thời kì chuyển biến cách mạng mà bất cứ quốc gia
nào đi lên chủ nghĩa xã | hội đều cũng phải trải qua. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
Thời đại chúng ta đang sống là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi thế giới. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã
hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay đổi bằng hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Cho dù
hiện nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm vững ưu thế về vốn, khoa học và cơng
nghệ, thị trường... nên nó có tiềm năng phát triển, song chủ nghĩa tư bản không thể khắc
phục nổi mà chỉ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có của nó là mâu thuẫn giữa tính chất

xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Nó


nhất định sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội vượt nó, mà C. Mác gọi là chủ nghĩa tư sản
với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân
đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị
tiến bộ của nhân loại, đại diện cho lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế xã hội
cao hơn chủ nghĩa tư bản. Nó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát
triển tự do và toàn diện của con người, vị tiến bộ chung của lồi người. Đi theo dịng
chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
Cần nhận thức rõ rằng, chủ nghĩa xã hội tuy bị thất bại tạm thời, song nó là chế độ
xã hội tiến bộ, là tương lai của loài người, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Cái
sụp đổ, thất bại là sự sụp đổ, thất bại của một mơ hình của chủ nghĩa xã hội, mơ hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã và đang thử
nghiệm qua nhiều loại mơ hình của nó. Khoa học và thực tiễn của lồi người sẽ tiếp tục
khẳng định, sáng tạo và phát triển các mơ hình hợp quy luật của chủ nghĩa xã hội. Vì thế,
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Chủ nghĩa xã
hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như khát vọng và sự thức
tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Đảng ta ngay từ
khi mới ra đời, trong cương lĩnh (năm 1930) đã khẳng định mục tiêu, lí tưởng đấu tranh
của nước ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ đi con đường ấy nhân dân ta đã
làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc khánh chiến
chống qn xâm lược, hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là, chúng ta xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây quả là những nhiệm

vụ nặng nề bởi trước hết xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội"


nghĩa là nền kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển vượt bậc để đến khi kết thúc thời
kỳ quá độ chúng ta đạt được nền kinh tế phát triển rất cao đủ cơ sở hiện thực để đưa xã
hội ta bước vào thời kỳ phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa; thứ hai, phải xây dựng được
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp với hạ tầng cơ sở phát triển
cao như thế.
Đây quả là vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, thời kỳ
quá độ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó diễn ra cuộc
đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội,
giữa giai cấp tư sản, những thế lực phản động và giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Nghĩa là, ở đó chúng ta khơng chỉ có xây dựng mà cơ bản hơn là phải đấu tranh quyết liệt
để giữ chính quyền, bảo vệ chế độ và xây dựng những "cơ sở để nước ta trở thành một
nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc".
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục
tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt và thực
hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, dân chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mơ hình chủ nghĩa
xã hội Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết sức sâu sắc, toàn
diện. Đảng ta khẳng định, "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã

hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền


kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng
đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Xã hội trong thời kỳ quá độ chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa mà chỉ là xã hội
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Khả năng tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Với những điều kiện để quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa Mac - Lê nin đã
chỉ ra, xét trong bối cảnh quốc tế và nước chúng ta có đủ khả năng để đi lên CNXH
không qua giai đoạn phát trien TBCN bao gồm cả khả năng khách quan và khả năng chủ
quan.
Về khả năng khách quan: Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên giúp chúng ta
tiến lên CNXH là Liên Xơ lúc đó đã tiến hành thành cơng cuộc Cách mạng xã hội chủ
nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tính thần. Sau đó hệ thống xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã đưa ra cho chúng ta tấm gương khá sinh động
về sự thành công và thất bại đã sâu sắc và chi tiết đến mức có thể từ đó đưa ra những giải
pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng. Cịn đến ngày nay, xu
thế quá độ lên CNXH trên phạm vi tồn thế giới đã đóng vai trị tích cực, không những
làm cho quá độ bỏ qua CNTB là tất yếu mà còn đem lại điều kiện và khả năng khách
quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hoả sản xuất, tồn cầu hố với sự phát triển
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo khả năng cho những nước kém phát
triển đi sau tiếp thu, vận dụng đưa vào nước mình lực lượng sản xuất hiện đại và kinh
nghiệm của những nước đi trước cũng như tạo khả năng khách quan cho việc khan phục
khó khăn về nguồn vốn, kĩ thuật hiện đại. Điều kiện đó giúp chúng ta tranh thủ được cơ
hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
để rút ngắn thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta.



Về khả năng chủ quan: Mọi thành công của chúnii ta đạt được phải kể đến yếu tố
quan trọng bậc nhất là sự lãnh đạo của Đảng và Liên minh công nông vững chắc. Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin ln ln nhấn mạnh vai trị của Đảng vơ sản trong
việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện quá trình phát triển rút ngắn ở
các nước tiền tư bản nói riêng thì ở Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố có
vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh sự phát trien đất nước và trong công cuộc đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những kết quả khả quan như: đã củng
cố và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn. Sự lựa
chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN của nước ta là phù hợp với sự lựa chọn
của nhân dân ta. Các tầng lớp lao động cơng nhân, nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã cùng nhau chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập dân tộc và cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc. Do đó họ sẵn sàng liên minh chặt chẽ với nhau và cùng với Đảng
để vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành cơng CNXH.
Ngồi ra, khả năng và nguồn lực trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu của thời
kì quá độ lên CNXH. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, chăm chỉ, khéo léo, dễ đào
tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta
cũng hết sức giàu có và phong phú tạo điều kiện hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước tạo tiền đề xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa
3. Nhận thức về quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB ở Việt Nam
Ngay từ khi thành lập Đảng ta đã khẳng định con đường tiến lên CNXH ở Việt
Nam là “bỏ qua” CNTB. Những cụm tù" “bỏ qua” đã đưa ra những nhận thức khác nhau
về quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Từ thời kì đầu của quả độ đến trước đội mới (từ 1945 đến 1986) trong một thời
gian dài nước ta có quan điểm đi lên CNXH bỏ qua CNTB là phủ nhận sạch trơn những
gì CNTB có bao gồm cả quan điểm về kinh tế, chính trị cũng như các sản phẩm do nền
kinh tế CNTB tạo ra. Trong thời kì đó Việt Nam đã đồng nhất giữa phát triển rút ngắn và
phát triển ngắn lầm tưởng có thể đi nhanh, xây dựng nhanh chóng dễ dàng CNXH, sớm
kết thúc thời kì quá độ. dễ dàng đạt tới mục tiêu của CNXH. Nhận thức này đã gây ra



những hậu quả nghiêm trọng. Do đó, Đảng ta đã phải thực hiện đổi mới vào năm 1986 cá
về kinh tế và tư duy. Chúng ta chỉ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì nó đẻ ra chế độ bóc
lột và bất bình đẳng trong xã hội về chính trị chúng ta bị qua sự thống trị của giai cấp tư
sản và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, về kinh tế chúng ta bỏ qua sự thông trị của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cịn chúng ta khơng thể bỏ qua nền kinh tế hàng hoá và
các quan hệ kinh tế của sản xuất hàng hố, sự rút ngán phải được thơng qua việc sử dụng
biện pháp kế hoạch đồng thời với biện pháp thị trường có quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện “rút ngắn” thời kì q độ chúng ta khơng
được bỏ qua những thành tựu khoa học công nghệ mà chủ nghĩa tư bản đã mất hơn một
thế kỉ để nghiên cứu tạo ra. Muốn phát trien kinh tế thị trường chung ta phải để cho các
quy luật khách quan hoạt động không thể chỉ sử dụng bàn tay hữu hình mà phải kết hợp
cả hai bàn tay hữu hình và vơ hình. Mặt khác nước ta xuất phát từ kinh tế nhỏ lẻ nên chưa
có kinh nghiệm sản xuất lớn. Do đó, khơng nên bỏ qua kinh nghiệm tổ chức sản xuất lớn
từ chủ nghĩa.
Như vậy, bỏ qua CNTB không đúng nghĩa với việc bỏ qua tất yếu tố tồn xã hội tư
kinh tế tư Con đường lên nước ta phát triển độ lên CNXH bỏ qua chế độ tự chủ nghĩa tức
bỏ qua việc xác lập vị tri thong trị quan hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng tự chủ nghĩa
tiếp thu, kế thừa thành tựu mà nhân loại đại chế độ tự chủ nghĩa, đặc biệt khoa học công
nghệ để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế đại Chúng ta “ bỏ qua” làm nhanh
chóng Điều Hồ Chí Minh khẳng định tác phẩm Hồ Chí Minh tồn tập “tiến lên CNXH
không thể một sớm một chiều”, cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì độ lên CNXH Đại
hội Đảng Vũ Trường Chinh khẳng định độ lên CNXH trình lịch sử tương đối dài, phải
trải qua chặng đường đầy khó khăn.

III. Những phương hướng – nhiệm vụ cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền



dân chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính
với mọi tội phạm và kẻ thù của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm, nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập tưng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa,
làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị tri chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình,
hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
cơng nhân, đồn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân
dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.



Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


KẾT LUẬN

Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con
đường phát triển của hình chái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử
có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà
giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hồn thành các nội dung đó.
Trên con đường phát triển, những bước quanh co khúc khuỷu là bình thường.
CNXH đang ở bước quanh của lịch sử, cũng như nhiều nước tư bản đã từng gặp khơng ít
cơn sóng gió, khủng hoảng. Lịch sử ghi nhận những năm 60-70 của thế kỷ trước, khi
nhiều nước XHCN đang phát triển, giá trị nhân văn của cuộc sống xã hội trở thành niềm
mong ước của nhân dân nhiều nước thì cũng là thời điểm chủ nghĩa tư bản hốt hoảng biết
tự điều chỉnh để thích ứng. Bằng thành tựu đổi mới, Việt Nam đang cho thế giới thấy rõ
sự tồn tại của chế độ XHCN, đồng thời qua tổng kết lý luận từ thực tiễn, chúng ta cũng
đang làm giàu thêm kho báu tư tưởng của CNXH thế giới. Con đường chúng ta đã chọn
đó là con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và cho dù gặp nhiều khó khăn thử thách
nhưng chúng ta vẫn quyết tâm hồn thành tốt nhiệm vụ đã đạt ra để xây dựng một nước
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Dành cho bậc
đại học - khơng chun lý luận chính trị, Hà Nội.

2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 1995.
3. V.I.Lê-nin: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006.
4. GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS. Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ biên):
Những quan điểm cơ bản của C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
5. TS. Phạm Ngọc Dũng. Quan điểm kinh tế và chính trị về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong một số tác phẩm kinh điển Mác – Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
8. PGS.TS. Vũ Văn Phúc (2018), Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Một tất yếu lịch sử,
, xem 12/3/2021.



×