Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận QLNN Phân tích tình huống Khiếu nại đơn giá thu tiền sử dụng đất tại tỉnh D

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.76 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo nhà trường, Phịng Đào tạo,
q thầy, cơ giáo Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy trong
suốt quá trình học tập tại trường, đồng thời hướng dẫn tận tình tơi hồn thành
tiểu luận tình huống này.
Là chun viên cơng tác tại Phịng Thanh tra 7 thuộc Thanh tra tỉnh D.
Phịng Thanh tra 3 có chức năng tham mưu giúp Chánh Thanh tra tỉnh quản lý
nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra tỉnh trong công
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của UBND tỉnh. Qua quá trình học tập chương trình: “Bồi
dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước ngạch Chuyên viên” tại Phân hiệu Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội tại thành phố Hồ Chí Minh, kết hợp giữa kinh nghiệm
công tác của bản thân với những kiến thức được học trong khóa bồi dưỡng, học
viên đã lựa chọn đề tài: “Giải quyết tình huống về bồi thường đất đai tại tỉnh D”.
Do thời gian hạn chế và kinh nghiệm chưa nhiều, việc phân tích đề tài khơng
tránh khỏi những thiếu sót, những hạn chế cả về nội dung và hình thức. Tôi rất
mong nhận được những góp ý của q thầy, cơ giáo để bài tiểu luận này hoàn
thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn.


2

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật quy định là cơ sở pháp
lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy cơ quan nhà nước đồng
thời cũng qua đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước, nếu giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình


chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ trước đến nay
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân, Chính phủ đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, các văn bản
quy phạm pháp luật để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế phát các
triển đất nước, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; làm
cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định
của pháp luật.
Chính sách pháp luật về đất đai đã dần đi vào cuộc sống, tuy nhiên trong quá
trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bấp cập, cụ thể như: đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu nhưng
trên thực tế nhận thức của người sử dụng đất về quyền sở hữu của Nhà nước,
quyền sử dụng của mình chưa thật đầy đủ dẫn đến những vướng mắc trong quan
hệ quản lý và sử dụng đất đai giữa Nhà nước và người sử dụng đất khi Nhà nước
thực hiện quyền định đoạt về đất đai. Bên cạnh đó, hiện nay giá đất do Nhà nước
xác định chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố thị trường nên đã dẫn đến bất bình
đẳng trong việc thực hiện chính sách tài chính đất đai. Mặt khác, chính sách bồi
thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất hiện nay đang là vấn đề
bức xúc của các cấp thẩm quyền chưa có những tiêu chuẩn pháp lý rõ ràng, nhất
quán để việc thực hiện, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của người sử dụng đất và
Nhà nước.


3

Chính từ nhừng lý do trên mà khi Nhà nước thực hiện bồi thường giải phóng
mặt bằng đối với Dự án Khu dân cư phía Bắc đường DDA, phường N, thành
phố Q. Một số hộ dân vì để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của mình đã
khiếu nại các cấp từ chính quyền phường, thành phố và lên đến tỉnh.
Trong các khiếu nại về đất đai thì khiếu nại về việc cấp đất tái định cư và
khiếu nại về đơn giá nộp tiền sử dụng đất vẫn đang là vấn đề bức xúc hiện nay.

Từ thực tế phát sinh khi tham gia giải quyết khiếu nại của công dân khi bị ảnh
hưởng Dự án Khu dân cư phía Bắc đường DDA, phường N, thành phố Q, tôi
chọn tình huống dưới đây là điển hình: “Giải quyết tình huống về bồi thường đất
đai tại tỉnh D”.
Thông qua việc phân tích tình huống trên, có thể giúp học viên cũng nhưng
những cơ quan ban hành quy định và cơ quan thực hiện cơng tác bồi thường giải
phóng mặt bằng có thể kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến
cơng tác bồi thường, giải phóng mặt bằng một cách cụ thể và chi tiết hơn, bảo
đảm thực hiện đúng quy định Nhà nước và bảo đảm quyền lợi chính đáng của
công dân.
2. Mô tả tình huống
a) Tóm tắt tình huống
Thực hiện Dự án Khu dân cư phía Bắc đường DDA, bao gồm công trình
đường quy hoạch (mở rộng nối dài đường trước đây là đường bờ kè) từ đường
DDA đến Công viên giáp đường Quốc lộ 39 lộ giới 25m, sẽ góp phần tạo quy
đất, đáp ứng nhu cầu về đất ở cho Nhân dân thành phố và phát triển đô thị theo
quy hoạch.
Từ năm 2002, vợ chồng bà Lê Thị Thủy được mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Hoa
cho căn nhà rầm có diện tích 60 m2. Năm 2014, Thực hiện dự án Khu dân cư
phía Bắc đường DDA, nhà nước thu hồi phần diện tích nhà rầm vợ chồng bà
Thủy đang ở nhưng không bồi thường, hỗ trợ. Bà Lê Thị Thủy khiếu nại UBND
thành phố Q: Yêu cầu cho bà Lê Thị Thủy mua 01 lô đất ở theo giá hỗ trợ.


4

UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 5XX/QĐ-UBND ngày 13/9/2019
về việc giải quyết khiếu nại của bà Thủy với nội dung: “Việc yêu cầu cho ba
Thủy mua một lô đất ở theo giá hỗ trợ la không có cơ sở; vì ba Hoa dựng nha
rầm vao năm 2002 va cho con gái la ba Thủy sử dụng từ đó đến nay la không có

cơ sở vì hộ gia đình ba không cung cấp được giấy tờ hợp pháp chứng minh việc
ba dựng nha va cho lại ba Thủy từ năm 2002; bản đồ đo vẽ hiện trạng năm
2014 thì nha rầm do ba Thủy sử dụng không thể hiện la có lối đi riêng ra hẻm
200 đường DDA va phần nha rầm nay được đo đạc gắn liền trong thửa đất 97
tờ bản đồ số 77 diện tích 300 m2, chủ sử dụng đất la ba Nguyễn Thị Hoa.”.
Do không được bồi thường, hỗ trợ và giải quyết đất ở, bà Lê Thị Thủy đã có
đơn khiếu nại UBND phường N yêu cầu, xác nhận thời điểm sử dụng nhà rầm
của bà là năm 2002 và có lối đi độc lập, không chung thửa đất với mẹ. UBND
phường N trả lời bà tại Quyết định số 28/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 với nội
dung: “Việc ba Thủy yêu cầu xác nhận thời điểm xây dựng nha rầm của ba la
vao năm 2002 la không có cơ sở, vì căn cứ Bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm
2006 không thể hiện có nha rầm của ba; công nhận nha của ba có lối đi riêng
phía sau nha ba Nguyễn Thị Hiền - số 200 đường DDA ra đường luồng đi
chung công cộng.”.
Qua quá trình giải quyết khiếu nại của UBND thành phố Q, để bảo đảm căn
cứ pháp lý cho công tác thu hồi đất và giải phóng mặt bằng của dự án, UBND
thành phố Q ban hành Quyết định số 6XX/QĐ-UBND ngày 23/9/2019 về việc
điều chỉnh diện tích đất bị thu hồi của bà Nguyễn Thi Hoa từ 70 m 2 thành 130
m2 (bổ sung diện tích rầm của hộ bà Thủy là 60 m2).
Bà Thủy cho rằng Hội đồng bồi thường, GPMB của dự án đã không bảo đảm
tính chính xác, kịp thời trong việc thực hiện kiểm kê thu hồi đất của hộ bà,
không bảo đảm công bằng trong việc áp dụng chính sách giữa hộ bà Thủy và 04
hộ bà so bì có nhà rầm bị giải tỏa trắng, làm ảnh hưởng quyền lợi của hộ bà. Bà
Lê Thị Thủy tiếp tục khiếu nại lên cấp trên và được Chủ tịch UBND tỉnh D giao
Thanh tra tỉnh kiểm tra, rà soát hồ sơ vụ việc. Bà Thủy khiếu nại, yêu cầu tách hồ


5

sơ bồi thường ngôi nhà rầm của bà, vì cho rằng vợ chồng bà xây dựng và ở ổn

định từ năm 2002 đến nay, là hộ độc lập không cùng chung với thửa đất của mẹ là
bà Nguyễn Thi Hoa.
Ngày 27/02/2020, làm việc với Tổ Xác minh - Thanh tra tỉnh, UBND
phường N đã lấy ý kiến các cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
phường, Hội Liên hiệp Phụ nữ phường, Ban Thanh tra nhân dân phường,
Trưởng Khu phố và 04 hộ dân lân cận nhà bà Thủy cùng thống nhất xác nhận:
Bà Thủy khi có chồng có dựng nhà rầm sau nhà mẹ là bà Nguyễn Thị Hoa, bà
dựng nhà rầm sau năm 2004, có lối đi riêng phía sau nhà bà Nguyễn Thị Hiền - ra
hẻm số 200 đường DDA là đường luồng đi chung cơng cộng. Hộ bà khơng có chỗ
ở nào khác trên địa bàn phường.
Ngày 04/3/2020, Thanh tra tỉnh đã báo cáo đề xuất tại Văn bản số 1XX/TTT
và được Chủ tịch UBND tỉnh thống nhất tại Văn bản số 2XX/UBND-TD ngày
18/3/2020 về việc giải quyết khiếu nại của bà Lê Thị Thủy với nội dụng: “Giao
Chủ tịch UBND thanh phố Q chỉ đạo Hội đồng Bồi thường hỗ trợ va tái định cư
thuộc dự án Khu dân cư phía Bắc đường DDA giao cho hộ ba Lê Thị Thủy 01 lô
đất ở theo sát giá thị trường để hộ ba có chỗ ở va ổn định cuộc sống.”.
Ngày 17/4/2020, UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 1XX/QĐUBND về việc giao đất cho hộ bà Lê Thị Thủy lô đất ở số 24b - khu 10, diện tích
50 m2, đường số 13 (lộ giới 19m), khu tái định cư Đông, phường B, thành phố Q;
tiền sử dụng đất phải nộp: 50 m2 × 20.000.000 đồng/m2 = 1.000.000.000 đồng. Vì
đơn giá thu tiền sử dụng đất quá cao, bà Thủy tiếp tục khiếu nại đến Hội đồng
nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh chuyển đơn đến UBND tỉnh; UBND tỉnh
giao Thanh tra tỉnh kiểm tra, rà soát báo cáo kết quả cho UBND tỉnh xem xét, giải
quyết.
Bà Lê Thị Thủy tiếp tục khiếu nại với nội dung: Yêu cầu giải quyết việc giao
đất ở cho hộ bà tượng tự như các hộ dân (ông Phan Văn An, Phan Văn Bê, Phan


6

Văn Ca) cùng bị ảnh hưởng trong dự án để bảo đảm quyền lợi và sự công bằng

giữa các hộ dân trong cùng một dự án.
b) Phân tích tình huống
- Cơ sở pháp lý liên quan đến tình huống: Luật Khiếu nại ngày 11 tháng 11
năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Đất đai năm 2013; các Nghị
định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, quy
định về giá đất; quy định về thu tiền sử dụng đất; quy định về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND
ngày 07/7/2015 của UBND tỉnh D về việc ban hành chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh D.
- Các nguyên nhân dẫn đến tình huống:
+ Do tổ kiểm kê thuộc Hồi đồng bồi thường của dự án đã không xác định
chính xác điều kiện, hoàn cảnh của hộ gia đình bà Lê Thị Thủy có phải là hộ độc
lập hay không, nên chỉ xem bà là hộ phụ với hộ mẹ trong suốt quá trình áp dụng
chính sách bồi thường.
+ Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh về việc cấp đất ở cho hộ bà Thủy theo
giá sát giá thị trường nhưng UBND thành phố Q chưa chỉ đạo Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án áp dụng đúng quy định của UBNĐ tỉnh
đã quy định đơn giá đất bồi thường áp dụng riêng cho các hộ dân bị ảnh hưởng
của dự án.
- Hậu quả của vấn đề để lại:
+ Vụ việc trên đã gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, trên địa bàn mất uy tín của cơ quan, cơng chức giảm lịng tin của nhân dân,
gây bất bình trong nhân dân, mất đi tình cảm họ hàng, giữa hàng xóm, giảm lịng
tin của nhân dân đối với chính quyền, nhân dân không chấp hành chủ trương
đường lối của Đảng chính sách pháp luật của Nhà nước ở nơi cư trú.


7

+ Hội đồng bồi thường của dự án không bồi thường, hỗ trợ và cấp tái định

cư cho hộ bà Lê Thị Thủy kịp thời, làm ảnh hưởng đển quá trình giải phóng mặt
bằng cho dự án, để hộ bà khiếu nại kéo dài, ảnh hưởng đến việc ổn định cuộc
sống của hộ.
- Sự cần thiết phải giải quyết tình huống: Giúp cơ quan chức năng thực hiện
đúng chính sách bồi thường đối với hộ dân, giải phóng nhanh mặt bằng cho dự
án và giúp cơ quan thực hiện chính sách bồi thường có nhìn nhận cụ thể, chính
xác hơn trong quy trình thực hiện kiểm kê, bồi thường và giải phóng mặt bằng.
3. Phương án giải quyết vấn đề
Để giải quyết tình huống khiếu nại về bồi thường của bà Lê Thị Thủy, tôi đề
xuất 03 phương án sau:
a) Phương án 1:
UBND tỉnh ban hành văn bản trả lời đơn kiến nghị, so bì của bà theo hướng
phân cấp thẩm quyền là: UBND tỉnh ban ban hành văn bản trả lời với nội dung
hướng dẫn bà Lê Thị Thủy khiếu nại Quyết định số 1XX/QĐ-UBND ngày
17/4/2020 của UBND thành phố Q về việc giao đất tái định cư cho hộ bà Lê Thị
Thủy với đơn giá 20.000.000 đồng/m2.
- Ưu điểm: Áp dụng đúng quy trình giải quyết khiếu nại đúng theo cấp thẩm
quyền. UBND tỉnh giao vụ việc cho UBND thành phố giải quyết theo trình tự.
- Nhược điểm: Tuy vụ việc đã được UBND tỉnh có văn bản trả lời lần đầu
cho hộ bà Lê Thị Thủy, vì bà Thủy khiểu nại Quyết định của UBND thành phố
Q, nên UBND tỉnh giao lại cho UBND thành phố Q trả lời bà theo quy định.
Việc này sẽ kéo dài thời gian khiếu nại vụ việc của hộ bà Thủy, tốn thời gian và
tiền bạc của công dân; ảnh hưởng đến việc giao trả mặt bằng thực hiện dự án;
ảnh hưởng đến việc ổn định cuộc sống của hộ bà Thủy.


8

b) Phương án 2:
UBND tỉnh trả lời đơn theo hướng không công nhận nôi dung kiến nghị, so

bì của bà, cụ thể là: UBND tỉnh ban hành văn bản trả lời đơn kiến nghị, so bì
của bà với nội dung việc kiến nghị, so bì của hộ bà là không có cơ sở; vì hộ bà
Lê Thị Thủy được xét giao đất tái định cư thuộc diện thu tiền sử dụng đất theo
giá thị trường, nên việc áp dụng đơn giá thu tiền sử dụng đất áp dụng tại thời
điểm giao đất theo Quyết định giao đất số 1XX/QĐ-UBND ngày 17/4/2020 của
UBND thành phố QN về việc giao đất tái định cư cho hộ bà Lê Thị Thủy với
đơn giá 20.000.000 đồng/m2 là đúng quy định tại thời điểm.
- Ưu điểm: Áp dụng đúng quy định về đối tượng không còn chỗ ở nào khác
được xét cấp đất tái định cư, còn đơn giá thu tiền sử dụng đất áp dụng theo giá
thị trường do UBND thành phố Q xem xét là 20.000.000 đồng/m 2 đúng tại thời
điểm giao đất cho hộ bà Thủy. Giúp giải quyết nhanh vụ việc khiếu nại của hộ,
tiến hành giải phóng mặt bằng, nếu cần thiết thì cưỡng chế thu hồi đất giao trả
mặt bằng nhanh để thực hiện dự án.
- Nhược điểm: Việc áp dụng đơn giá thu tiền sử dụng đất theo giá thị trường
khác nhau giữa các hộ có cùng điều kiện, nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất
tương tự nhau cùng bị ảnh hưởng thu hồi đất trong một dự án là không bảo đảm
công bằng giữa các hộ. Gây bức xúc giữa hộ dân và chính quyền, hộ dân có thể
sẽ tiếp tục khiếu nại hoặc kiện ra tòa hành chính.
c) Phương án 3:
UBND tỉnh ban hành văn bản trả lời đơn kiến nghị, so bì của bà theo hướng:
Giao Chủ tịch UBND thành phố Q chỉ đạo Hội đồng Bồi thường Dự án Khu dân
cư phía Bắc đường DDA căn cứ Quyết định số 3xx/QĐ-UBND ngày 03/10/2017
của UBND tỉnh về việc phê duyệt giá đất cụ thể để thu tiền sử dụng đất ở tái
định cư đối với các hộ dân bị ảnh hưởng do giải phóng mặt bằng thực hiện cơng
trình Khu dân cư phía Bắc đường DDA để làm cơ sở thu tiền sử dụng đất ở của


9

hộ bà Lê Thị Thủy với giá 10.000.000 đồng/m2 tượng tự như các hộ Phan Văn

An, Phan Văn Bê, Phan Văn Ca.
- Ưu điểm: Áp dụng đúng quy định về đối tượng bị thu hồi đất, khơng cịn
chỗ ở nào khác được xét cấp đất tái định cư và áp dụng đúng theo Quyết định số
3XX/QĐ-UBND ngày 03/10/2017 của UBND tỉnh để áp dụng đơn giá thu tiền
sử dụng đất ở với giá 10.000.000 đồng/m2 cho hộ bà Thủy, bảo đảm công bằng
giữa các hộ dân bị ảnh hưởng GPMB trong cùng dự án. Giải quyết nhanh kiến
nghị của công dân, báo đảm đúng quyền lợi của hộ, UBND thành phố Q sớm
thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh để bồi thường cho hộ dân được thuận tiện,
sớm giao trả mặt bằng để thực hiện dự án.
- Nhược điểm: UBND thành phố Q phải ra quyết định để sửa đổi, bổ sung
Quyết định giao đất số 1XX/QĐ-UBND ngày 17/4/2020 của UBND thành phố
Q về việc giao đất tái định cư cho hộ bà Lê Thị Thủy với đơn giá 20.000.000
đồng/m2 thành đơn giá 10.000.000 đồng/m2. UBND thành phố chỉ đạo Hội đồng
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án phải thực hiện đúng chỉ đạo của
UBND tỉnh, kiểm điểm các cá nhân, tổ chức có hành vi thiếu trách nhiệm trong
việc thực hiện bồi thường, làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của hộ dân,
làm kéo dài tình hình khiếu nại của vụ việc, gây kéo dài tiến độ thực hiện giải
phóng mặt bằng cũng như tiến độ thi công của dự án.
Phương án lựa chọn: Trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của từng phương
án đã nêu trên tôi cho rằng phương án đã nêu trên tôi cho rằng phương án 3 là
phương án có tính khả thi cao, giải quyết đúng theo quy định pháp luật, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của cơng dân có đất bị thu
hồi, bảo đảm công bằng giữa các hộ dân trong cùng dự án.
4. Phương pháp tổ chức thực hiện
Phương án 3 được tổ chức thực hiện theo các bước sau.
- Bước 1: Sau khi thống nhất với Báo cáo của của Thanh tra tỉnh, UBND
tỉnh D ra văn bản trả lời bà Lê Thị Thủy với nội dung khiếu nại của hộ bà là có


10


cơ sở. Giao UBND thành phố QN điều chỉnh Quyết định giao đất số 1XX/QĐUBND ngày 17/4/2020 của UBND thành phố QN về việc giao đất tái định cư
cho hộ bà Lê Thị Thủy với đơn giá 20.000.000 đồng/m 2 sửa thành đơn giá
10.000.000 đồng/m2.
- Bước 2: UBND thành phố chỉ đạo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư của dự án phải thực hiện đúng các chỉ đạo của UBND tỉnh, nhanh chóng thực
hiện việc bồi thường và giao đất tái định cư thu tiền sử dụng đất theo quy định,
giao mặt bằng mới cho hộ bà sớm ổn định cuộc sống. Hội đồng bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư của dự án phải nghiêm túc kiểm điểm các cá nhân, tổ chức có
hành vi thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện bồi thường, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi chính đáng của hộ dân, làm kéo dài tình hình khiếu nại của vụ việc,
gây kéo dài tiến độ thực hiện giải phóng mặt bằng cũng như tiến độ thi công của
dự án.
- Bước 3: Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án tiến thành
chỉ đạo các tổ công tác thực hiện nhanh các yêu cầu nêu trên, báo cáo kết quả
thực hiện gửi UBND thành phố Q, UBND thành phố gửi báo cáo thực hiện chỉ
đạo của UBND tỉnh và các cơ quan có liên quan.
5. Đề xuất
Cơ sở pháp lý, thực tế: Việc quy định chính sách và áp dụng chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định khi Nhà nước thu hồi đất của Nhân dân chưa được quy
định cụ thể về trình tự tiến hành kiểm kê, áp giá, xác minh, bồi thường, thu hồi
và giải phóng mặt bằng..., quy trình kiểm tra rà soát trong nội bộ cơ quan, đơn vị
thực hiện chính sách là chưa có; quy định tên gọi các loại đơn giá thu tiền sử
dụng đất còn rất mơ hồ, dễ gây lầm tưởng cho nhân dân.
Nội dung đề xuất để khắc phục các hạn chế trong công tác giải quyết khiếu
nại của công dân, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại,
không để công dân khiếu nại vượt cấp, khiếu nại kéo dài và khiếu nại đông
người đến các trụ sở cơ quan Nhà nước tại địa phương và Trung ương. Trước hết



11

các cấp, các ngành phải quán triệt nghiêm túc thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW
ngày 26.5.2014 của Bộ Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo", Kế hoạch số 81-KH/TU
ngày 11.9.2014 của Ban Thường vụ Tỉnh và Kế hoạch số 44/KH-UBND ngày
12.11.2014 của UBND tỉnh, cần phải tập trung vào các vấn đề sau:
- Phải làm tốt công tác chính trị tư tưởng trong việc triển khai thực hiện
chính sách pháp luật nói chung, về lĩnh vực bồi thường, giải phóng mặt bằng nói
riêng. Phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trong đó có
các tổ chức đồn thể tham gia vào công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, công
chức, quần chúng, nhân dân nhận thức và thực hiện đúng chính sách, pháp luật
của Nhà nước, chủ trương thu hồi đất thực hiện dự án theo quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Tăng cường vai trị trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan xây dựng
chính sách (Sở Tài ngun và Mơi trường, Phịng Tài nguyên và Môi trường), cơ
quan thực hiện chức năng bồi thường, giải phóng mặt bằng (Trung tâm Phát
triển Quy đất tỉnh / huyện; Ban Bồi thường và GPMB tỉnh/ huyện, các Ban quản
lý dự án các cấp); xây dựng quy trình thực hiện cơng tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh.
- Chủ động quy nhà ở xã hội, quy đất tái định cư để phục vụ nhu cầu của hộ
dân trong nhiều năm tiếp theo, trên nguyên tắc các điều kiện của nơi ở tái định
cư: điều kiện hạ tầng ky thuật, tái tạo thu nhập cuộc sống phải bằng hoặc tốt hơn
nơi ở cũ của các hộ dân trước khi di chuyển. Bồi thường giá đất phải sát với giá
thị trường trong điều kiện bình thường theo quy định của pháp luật đất đai, tránh
gây thiệt thòi quyền và lợi ích chính đáng của người dân có đất bị thu hồi.
- Thưc hiện tốt việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân: giải
quyết dứt điểm, đúng pháp luật, đúng thời hạn, thời hiệu, gắn liền với việc xử lý
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân cụ thể.



12

- Phải dân chủ, công khai trong việc lấy ý kiến của nhân dân trong việc quy
hoạch đô thị và thực hiện quy hoạch, và công khai công bố quy hoạch trước
nhân dân; công bằng hợp lý trong thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư. Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra, khảo sát, xác minh, lập
phương án bồi thường phải bảo đảm chính xác, dân chủ, công khai, công bằng
và đúng quy định để nhân dân đồng tình ủng hộ, và tự giác chấp hành phương án
bồi thường. Đối với các cá nhân còn lại, sau khi kiên trì giải thích, thuyết phục
chờ đợi, các ngành chức năng phải đấu tranh kiên quyết để thực hiện quyết định
thu hồi đất và phương án bồi thường đã được phê duyệt đúng theo quy định.
- Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp phải đặc biệt quan tâm đến việc tiếp
công dân, giải quyết đúng đắn kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân, phát huy
dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, ngăn ngừa khắc phục tình trạng công
dân khiếu nại vượt cấp, không đúng quy định, tập trung gây mất trật tự nơi công
sở. Kiên quyết không để công dân của địa phương mình tập trung đông về tỉnh,
về Trung ương khiếu kiện.
- Các vụ việc đã có quyết định cuối cùng đúng trình tự thủ tục, đúng chính
sách pháp luật thì kiên trì đối thoại, tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục để công
dân hiểu đúng và tự giác chấp hành, kiên quyết xử lý cán bộ thiếu trách nhiệm
gây chậm trể hoặc né tránh trách nhiệm giải quyết.
- Tăng cường hơn nữa cơng tác hịa giải các tranh chấp nhỏ trong nội bộ
nhân dân đồng thời thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Tổ chức đối thoại trực
tiếp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm bảo đảm tính công khai, dân chủ,
hạn chế biểu hiện quan liêu của một số người có thẩm quyền trong giải quyết
khiếu nại nói riêng và thực thi cơng vụ nói chung, góp phần giúp cho kỷ cương
pháp chế được tuân thủ và thực hiện nghiêm túc, tạo lòng tin của Nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước./.




×