Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Sự vận dụng của Đảng quan điểm về tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.6 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về
sự phát triển tất yếu của xã hội lồi người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Hồ
Chí Minh đưa ra quan điểm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở
Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vơ
sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí
Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được
hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi dành độc lập dân tộc,
nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử
cận đại và hiện đại, sự phát triển của dân tộc Việt Nam đã được trải nghiệm qua
các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc để xây dựng lại một chế độ phong kiến (Cần Vương), hoặc để xây dựng một
chế độ cộng hòa đại nghị tư sản (theo hệ tư tưởng tư sản) đã bị bế tắc. Với điều
kiện lịch sử mới, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều này chính là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí
Minh và thực tế chứng minh con đường phát triển đó của dân tộc Việt Nam là tất
yếu, duy nhất đúng, hợp với điều kiện của Việt Nam và phù hợp với xu thế tất yếu
của thời đại. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo kết luận về
chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng
định rằng: "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình dân, bác ái. đồn kết, ấm
no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì người, niềm vui, hịa bình, hạnh
phúc, nói tóm lại là nền cộng hịa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư
bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao
động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau. Vì vậy em đã chọn đề tài “Sự

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

1




vận dụng của Đảng quan điểm về tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là: Sự vận dụng của Đảng quan điểm
về tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là: Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
3. Bố cục bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bài tiểu luận có bố cục 03
chương:
Chương I. Tiểu sử và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Chương II. Tính tất yếu của con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Chương III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng trong thời kỳ đổi mới
ở Việt Nam.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho,
nguồn gốc nơng dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân

phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc
đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính
trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào
yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Tháng 6 năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người
đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người
hịa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa,
vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học
thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra
đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây,
Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào
công nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân
dân An Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam .
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành
phố Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

3


lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ
nghĩa cộng sản.
Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc

thuộc địa, nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa.
Người viết nhiều bài đăng trên các báo “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền”,
... Đặc biệt, Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ
chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả
các bài viết của Người đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi
tầng lớp nhân dân.
Ngày 30/6/1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học
tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên
đất nước Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nơng dân (10/1923), Người
được bầu vào Đồn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần
thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc
tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái
Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á .
Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong
nước, đồng thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản
ở nước ngoài, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có
những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

4


Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ

trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao,
thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
qn được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn
quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã
phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tồn dân tộc Việt Nam đã
nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân lao
động. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn độc lập khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước
và nhân dân thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh và lực lượng
phản động Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trở lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam và lấn dần từng bước kéo quân
đánh chiếm miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa. Ngày 9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa lần đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người
được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12 năm 1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung
ương Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định
Géneva được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm
lược biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

5



lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam.
Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao
động Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng
do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một
người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc,
đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân,
vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hịa bình và
cơng lý trên thế giới.
Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của
Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng
giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất”.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

6


CHƯƠNG II: TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Sau những biến động chính trị ở Liên Xơ và Đơng Âu cuối những năm 80
đầu những năm 90 thế kỷ XX, một chiến dịch cơng kích, phê phán, xun tạc, bơi

nhọ chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa Mác - Lênin được dấy lên trên khắp
thế giới bởi các thế lực thù địch với CNXH. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ hội
“ngàn năm có một” này để tổng tấn cơng hịng “chôn vùi vĩnh viễn” chủ nghĩa
Mác - Lênin và CNXH.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng, phong trào cách
mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam go, những người hoang mang,
dao động về lý tưởng đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa
Mác - Lênin, từ bỏ con đường đi lên CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của CNXH hùng mạnh như Liên bang Xơ Viết
mà cịn khơng đứng vững, thì một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt
Nam làm sao có thể đi lên CNXH được(?). Một số người thậm chí cho rằng, giá
như vào nửa đầu thế kỷ XX, nếu lựa chọn đi con đường khác thì biết đâu nước ta
vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc
kháng chiến gian khổ, hao tổn xương máu.v.v..
Một câu hỏi đặt ra: Có thật là như vậy?
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện
nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân
tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những
bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

7


CNXH”. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên
CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử…

Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, nhất thiết phải trải qua một TKQĐ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay
thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH). Song, khơng phải
HTKTXH này kết thúc hồn tồn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa
HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai
đoạn chuyển tiếp, đó là TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn
đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội
trước đó lại càng đòi hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử
thách, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh
Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội
kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...”
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, lồi người với tính cách
một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ
quan, bên ngồi và bên trong chi phối, khơng phải quốc gia nào cũng tuần tự trải
qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Có những
nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của
mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hồn tồn
phù hợp quy luật khách quan.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

8


Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày
nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn

toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
- Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm
cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai
đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực
kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về
cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội lồi người địi hỏi phát triển lên một xã hội mới
của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ
lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định
phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự lựa chọn của Việt
Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được độc lập dân tộc, có
chính quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi
đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế
ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết,
quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
- Sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền
kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên
kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất
lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự
phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất
hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành CNTB, dẫn đến
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

9



những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và
chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có
thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi
theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay khơng phải là thời đại của CNTB, mặc
dù CNTB đang có sự Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn
dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của tồn xã hội...” điều chỉnh để thích
nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc
phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN.
Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB khơng thể khơng bị phủ định. Vì
thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực
hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh cơng - nơng trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành
CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hồn tồn mới mẻ và khơng
ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ
yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng
nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội...”.
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa
chọn đó là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách
mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27


10


tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là
sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo
những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch
sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về
đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong
lịch sử nước ta khơng có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền
và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN,
tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Con đường đi lên CNXH ở nước
ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội
mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó
nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa
phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại cơng nghiệp của cả thế giới để có
thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có
nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những
khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và
có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên
CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của

quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

11


Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước
ta chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong
trào đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm
vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến
lược. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu
nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân,
lập trường tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều
thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển
đi lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã
tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến hành 9 năm
kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm hy sinh đầy
xương máu chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả
nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai
lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh
khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên nhân
thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật
khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua kiểm điểm,
Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con đường quá độ lên
CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng đã xác định

rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và đã
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã nhận định:
“Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

12


và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Như vậy, cả từ
phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại
suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh
giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời
đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng
của nhân dân ta.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

13


CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Trong 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào Đảng
ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ
đỏ” xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và trong

suốt quá trình đấu tranh cách mạng đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng
định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt
Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách
mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai
cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa”. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội
hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa khơng
cịn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào,
gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, và đã được
khẳng định điều này tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011) trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011). Lịch sử dân tộc 85 năm qua đã chứng tỏ con đường xã hội chủ
nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn, nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

14


cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân ta. Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng sáng tỏ hơn. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, đúng đắn hơn về chủ
nghĩa xã hội là vấn đề có tính quy luật về nhận thức hiện thực khách quan. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã bước đầu hình thành được những nét cơ bản một hệ thống
quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, là cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và phát triển
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.

Trong bài viết này, chúng tôi xin trao đổi một số ý kiến xoay quanh vấn đề
nhận thức về mục tiêu và bản chất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày
càng đầy đủ hơn ở Việt Nam; về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng
Cộng sản Việt Nam; về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam; về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường quá độ, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về mơ hình và
phương hướng áp dụng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là những vấn đề lý luận
và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp,
có nhiều cách tiếp cận khác nhau, địi hỏi phải có sự nghiên cứu nghiêm túc, tổng
kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Chúng tôi xin đề cập một số khía cạnh
nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam như sau:
1. Nhận thức về mục tiêu và bản chất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ngày càng đầy đủ hơn ở Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một
học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ.
Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ
phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ
nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác – Lênin trong thời đại ngày nay.
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

15


Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta nhưng đây là
sự nghiệp lâu dài, vơ cùng khó khăn và gian khổ. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản
xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế
lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình

thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,
vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, phải biết kế thừa những thành tựu của dân tộc và
tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, kinh nghiệm của thời đại. Trong những năm
tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng
Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về
chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp thực tế và quy
luật khách quan; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như:
đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn
trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân,
không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ;
đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền
với nhà nước tư sản...
Đại hội VI đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của
Đảng, mở đầu quá trình đổi mới và sự hình thành nhận thức mới của Đảng về chủ
nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua đổi mới, như một cuộc cải biến cách mạng
lâu dài, toàn diện, sâu sắc và triệt để, có kế thừa và có phát triển. Đại hội VII, trên
cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đầu của đổi mới đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện quan trọng
này, câu trả lời “chủ nghĩa xã hội là gì?” xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây
dựng là một xã hội như thế nào? Đã lần đầu tiên được đề cập tới một cách có hệ
thống dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

16


bảy phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những đặc trưng đó vừa
thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, vừa thể
hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến đặc điểm của thời đại.

Nhận thức 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa trước hết là nhận thức
được những thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bản chất ấy cũng đồng thời
nói lên những mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội vươn tới. Xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như tồn bộ tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là từng bước đạt tới cái chất và mục tiêu ấy của chủ nghĩa
xã hội. Từ sau Đại hội IX, Đảng ta đã hình thành nhận thức, coi phát triển kinh tế
là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và coi văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội.
Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặc biệt chú trọng tới sự
phát triển dân tộc, phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là sự đồn kết
dân tộc, có chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau
trong phát triển ở một quốc gia đa tộc như người Việt Nam. Một trong những nét
mới trong tư duy đổi mới là, Đảng khẳng định đường lối đối ngoại hịa bình, hữu
nghị, hợp tác. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã
hội có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Phát
triển tư tưởng đó, từ sau Đại hội VII, Đảng ta nhất quán với chủ trương đồn kết,
hợp tác, hữu nghị và hịa bình để phát triển, Việt Nam mong muốn là bạn của tất
cả các nước, sẵn sàng hợp tác song phương và đa phương…
Từ đại hội VI đến Đại hội XI, vấn đề bản chất, mục tiêu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn các tiêu chí:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “xây dựng được
về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính
trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng,
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

17



toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2. Nhận thức về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Khẳng định sức sống của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nêu cao tư tưởng Hồ Chí
Minh. 85 năm qua, Đảng ta tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt
Nam. Hồ Chí Minh khẳng định rằng, cần phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin,
bởi học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Từ chỗ coi chủ nghĩa Mác - Lênin là cái
cốt của Đảng, “cái gốc của Đảng”, Đại hội lần thứ II (năm 1951), Đảng ta xác
định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Tiếp theo, Đại hội lần
thứ III (năm 1960), Đảng khẳng định chủ nghĩa Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 71. Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách
mạng. Đặc biệt đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta chính thức khẳng
định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hành động. Việc chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh cho
nền tảng tư tưởng của Đảng là đánh dấu một bước tiến mới, một bước phát triển
quan trọng trong tư duy lý luận. Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai
trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan
điểm tồn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của nước
ta, đồng thời là sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần
vơ giá của Đảng và dân tộc ta.
Việc xác định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, đòi hỏi phải nắm vững bản
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27


18


chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
dùng lập trường (lập trường cách mạng triệt để), quan điểm (hệ quan điểm khoa
học) và phương pháp (phương pháp duy vật biện chứng) của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đề giải quyết đúng đắn những vấn đề của cách
mạng Việt Nam và thời đại đặt ra.
Trong văn kiện mở đầu thời kỳ đổi mới Đại hội VI, Đảng ta đã đặt vấn đề:
Cần phải nghiên cứu để làm rõ những giá trị bền vững trong kho tàng di sản kinh
điển Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn luôn luôn là điểm tựa thế giới quan
và phương pháp luận cho chúng ta trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Qua nghiên cứu, thảo luận một cách khoa học và dân chủ, Đảng ta nhận thức
nhấn mạnh rằng những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ giá
trị bao gồm các nguyên lý, các học thuyết lý luận nền tảng như: Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội, học thuyết cách mạng xã hội, về Đảng kiểu mới và nhà nước
kiểu mới, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp cơng nhân và vấn đề thời đại.
Đó là những vấn đề chủ yếu nổi bật nhất. Ngồi ra cịn là những kiến giải đặc sắc
nhất của Chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, về con người và tư tưởng giải phóng
con người…Đảng ta nhấn mạnh, phải chú trọng nâng cao nhận thức khoa học đối
với chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi trong quá khứ, đã có lúc chúng ta đã rơi vào giản
đơn, giáo điều trong nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin và hậu quả rất nghiêm
trọng. Vì vậy, việc nhận thức lại và nhận thức đúng về chủ nghĩa Mác và thẳng
thắn chủ động sửa sai là hết sức quan trọng, bởi nhận thức đúng thì hành động
đúng, nhận thức sai hành động sai. Việc sửa chữa khuyết điểm, sai lầm phải bắt
đầu từ sự sửa sai trong nhận thức để đi tới sửa sai trong hoạt động thực tiễn.
Vấn đề cuối cùng lý luận, chủ nghĩa, học thuyết Mác - Lênin là một hệ thống
mở chứ khơng phải đóng kín, động chứ khơng tĩnh. Thực tiễn ngày nay đã phát
triển biến đổi mạnh, nhiều vấn đề, sự kiện, tư liệu khoa học đã không có ở thời
đại các nhà kinh điển. Vậy trên cơ sở quan điểm và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, ngày nay những người mác xít cần phải bổ sung, phát triển

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

19


mới những gì và như thế nào? Giải quyết được những vấn đề đó, có thể nói, sẽ
thực sự là sự trưởng thành tư duy lý luận của Đảng ta.
Đảng ta kiên quyết bác bỏ các quan điểm sai trái, đối lập với chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc muốn hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin. Đặc biệt, trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc
hơn và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt các vấn đề như:
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, vấn đề phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa xã hội… Nhờ vậy, tư duy lý luận của Đảng ngày càng
hoàn thiện hơn, nhận thức đúng đắn hơn thực chất những tư tưởng của các nhà
kinh điển mác xít, đồng thời có sự vận dụng, phát triển phù hợp hơn đối với thực
tiễn Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới địi hỏi Đảng ta phải kiên trì và vận dụng phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giải đáp được những vấn đề
mới do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta trong điều kiện mới của thời đại.
3. Nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hệ động lực, bao gồm các
loại động lực vật chất và tinh thần, các động lực bên trong (nội lực và nội sinh) và
các động lực bên ngoài (ngoại lực và ngoại sinh). Trong hệ thống động lực phát
triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, trước hết là ba động lực quan trọng sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là động lực quan
trọng hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với thành cơng của sự nghiệp đổi mới

và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai. Đảng ta nhận thức rằng, đại đoàn
kết dân tộc chỉ được củng cố và phát huy mạnh mẽ khi các nhân tố cấu thành cộng
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

20


đồng dân tộc ý thức rõ lợi ích chung của đất nước, lấy đó làm quan điểm tương
đồng, mọi người đều hướng nỗ lực của mình vào việc thực hiện lợi ích chung. Ở
nước ta hiện nay, điểm tương đồng chung là: Giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con
người, tính tích cực, chủ động, năng động của nhân dân được tăng lên. Đảng ta
cho rằng, trong điều kiện của một đảng cầm quyền, để phát huy được vai trò động
lực mạnh mẽ của dân chủ, cần coi trọng sự phát triển hài hòa, đồng bộ giữa dân
chủ ở cơ sở, trong đó, dân chủ ở cơ sở có tính chất nền tảng, dân chủ ở trung ương
có tính chất quyết định. Phát huy vai trị giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị - xã hội; xây dựng và đẩy mạnh hoạt
động của các mơ hình tự quản trong các cộng đồng dân cư ở cơ sở; bám sát thực
tiễn để góp phần khắc phục tập trung quan liêu; mở rộng sinh hoạt dân chủ và
nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể từ hội nghị cấp ủy cho tới đại hội Đảng các
cấp; tăng cường kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với
cán bộ, đảng viên - kể cả đối với những người lãnh đạo chủ chốt; có quy chế đảm
bảo phát huy tự do tư tưởng, tôn trọng những ý kiến khác nhau.
Thứ ba, kết hợp hài hịa lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân, quan tâm lợi ích thiết
thân của con người. Đảng ta nhận thức rằng, làm cho mỗi con người quan tâm tới
lợi ích chính đáng của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp, thúc đẩy mạnh mẽ nhất
hoạt động của họ sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ q trình xây dựng xã hội mới.
Thực tiễn đổi mới đã minh chứng, sự cần thiết phải kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân

với lợi ích chung, trong đó lợi ích thiết thân của con người là động lực trực tiếp và
mạnh mẽ nhất.
4. Nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường quá
độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

21


Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta có những đổi mới sâu sắc:
- Nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ. Đó là, trong thời kỳ quá độ sẽ tồn tại nhiều hình
thức kinh tế - xã hội có tính chất q độ.
- Nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cái gì bỏ qua, cái gì cần tiếp thu…
Nếu trước đây, thường nói, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” thì từ Đại hội lần thứ XI trong các văn kiện
chính thức của Đảng và Nhà nước diễn đạt là: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện:
Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Tức là bỏ qua
chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu,
những thiết chế, thể chế chính trị khơng phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa. Thứ
hai, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.

Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có
chọn lọc. Đại hội XI khẳng định đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để,
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen".
Cần phải phát huy tối đa những thuận lợi, đẩy lùi những nguy cơ, thách thức để
phát triển nhanh và bền vững.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

22


Một trong những nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ là xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó vấn đề mấu chốt là phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rút ra những bài học khơng thành cơng của cơng nghiệp
hóa theo mơ hình truyền thống của những năm 60, trong đó, đổi mới, Đảng ta đã
xây dựng một quan niệm mới về cơng nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Đó là
cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, tận dụng lợi thế so sánh, chú trọng công
nghiệp nông nghiệp gắn liền với đô thị hóa nơng thơn, có chiến lược phát triển
tồn diện nơng nghiệp - nông thôn và nông dân. Đại hội VIII, IX, X và Đại hội XI
đã có những phát triển lý luận mới về vấn đề này.
5. Nhận thức rõ hơn về mơ hình và phương hướng áp dụng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
Lần đầu tiên, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua (6 – 1991) đã đề cập những nội
dung cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, gồm 6 đặc trưng.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thục hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ
sung tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Trong
đó, một số nội dung của các đặc trưng đã được là sáng tỏ hơn so với Cương lĩnh
1991. Điều này thể hiện như sau:
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, nhấn mạnh vị trí của dân chủ. Nội dung dân chủ đặt lên trước cơng
bằng, văn minh. Tồn thể nhân dân làm chủ chứ không chỉ là nhân dân lao động
làm chủ. Tôn trọng quyền làm chủ, quyền con người, coi con người là trung tâm
của chiến lược phát triển là chủ thể phát triển.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

23


Thứ ba, nhận thức mới đầy đủ hơn về quan hệ sản xuất gồm 3 yếu tố: Chế độ
sở hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương thức phân phối sản
phẩm. Việc nhấn mạnh “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” với lực lượng sản xuất
hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ tư, bổ sung đặc trưng thứ bảy: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đó là
nội dung xây dựng chế độ chính trị trong mơ hình chủ nghĩa xã hội, cũng là vấn đề
cốt lõi trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng và nhân dân ta phải: Đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo

đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tám phương hướng cơ bản
trên đã thể hiện tập trung nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới ở Việt Nam. Thực tế 85 năm qua chứng
minh, chỉ với mơ hình này, nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Nhận thức mới của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán đó sẽ tạo nên một
nền tảng vững chắc cho hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã bắt đầu hình thành và sẽ từng bước
được bổ sung, hoàn thiện.
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

24


KẾT LUẬN
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay, cho thấy những
câu trả lời cho hiện tại - tương lai - triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta, của
nhân dân và dân tộc ta là: Chủ nghĩa xã hội là sợ chỉ đỏ xuyên suốt trong đường
lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội, của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
và văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tường Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam là xây dựng một “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tang,
tinh thần ngày càng tốt...”.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đã khẳng định
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Bác Hồ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của xã hội trong thời đại
ngày nay./.
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

25


×