Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

BÀI THUYẾT TRÌNH biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng tuổi hình thành thói quen vệ sinh tại lớp NTA1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.37 MB, 14 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

I. LÝ DO CHỌN BIỆN PHÁP

1-4

II. NỘI DUNG BIỆN PHÁP

4-9

Nội dung 1. Xác định nội dung rèn thói quen vệ sinh cho
trẻ

4-5

Nội dung 2. Tạo môi trường giáo dục tốt cho trẻ hoạt
động để trẻ thuận lợi tiếp thu những nội dung hình thành

5-6

thói quen vệ sinh.
Nội dung 3. Tích hợp, lồng ghép các nội dung rèn thói
quen vệ sinh ở tất cả các hoạt động trong ngày của trẻ.
Nội dung 4. Cô giáo là tấm gương đẹp cho trẻ học tập và
noi theo.
Nội dung 5. Phối kết hợp với phụ huynh và giáo viên
cùng lớp để rèn thói quen vệ sinh cho trẻ


6-8
8-9
9

III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN BIỆN PHÁP

10-12

IV. KẾT LUẬN

12-14

1


I. LÝ DO CHỌN BIỆN PHÁP:
1. Vai trò của biện pháp.
“Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì trước hết giáo dục học phải
hiểu con người về mọi mặt”. Giáo dục có nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo sự phát
triển toàn diện, chuẩn bị những hành trang vững chắc cho trẻ bước vào cuộc
sống. Giáo dục không dừng lại ở việc cung cấp cho trẻ những kiến thức về tự
nhiên, về xã hội, mà kiến thức về kĩ năng sống ngày càng trở nên cần thiết hơn
bao giờ hết cho trẻ. Trong đó, giáo dục thói quen vệ sinh là một kĩ năng vơ cùng
cần thiết, nó góp phần hình thành cho trẻ ý thức trong việc giữ gìn sức khỏe của
bản thân, giúp trẻ nâng cao sức đề kháng, giảm và chống chọi với bệnh tật, giúp
trẻ thích ứng với mơi trường.
2. Thực trạng tại lớp NTA1 – Trường mầm non
* Thuận lợi:
Trong nhiều năm nay, trường mầm non ln đề cao cơng tác chăm sóc
sức khỏe của trẻ, đặc biệt nhiệm vụ vệ sinh phòng dịch bệnh, cho trẻ luôn được

đặt lên hàng đầu. Nhà trường luôn sát sao trong công tác chỉ đạo vệ sinh mơi
trường và vệ sinh lớp học, trong đó có vệ sinh cá nhân cho trẻ. Ban giám hiệu
thường xuyên quan tâm và kịp thời hỗ trợ những khó khăn trong cơng tác chăm
sóc, giáo dục trẻ. Lớp học được đầu tư cơ sở vật chất khang trang, tiện nghi,
phòng học, phòng ngủ và khu vệ sinh tách biệt.

Các giáo viên trong nhà trường nói chung, cũng như trong lớp tơi nói
2


riêng đã có nhận thức rất tốt về tầm quan trọng của việc chăm sóc vệ sinh cho
trẻ, vệ sinh mơi trường.
* Khó khăn:
Năm học 2020 – 2021 tơi được phân công chủ nhiệm tại lớp NTA1 trường
mầm non , đây là lứa tuổi còn rất nhỏ, non nớt. Đi học là lần đầu trẻ tách ra khỏi
môi trường gia đình, tách khỏi sự chăm sóc của người thân để đến với một mơi
trường hồn tồn mới. Trước đó, hầu hết các bé chưa đi học ở trường lớp nào,
chưa có những kỹ năng vệ sinh cần thiết, bởi trẻ được người thân trong gia đình
chăm sóc về mọi mặt.
Thời điểm trẻ bắt đầu đi học trùng với thời điểm giao mùa, thời tiết liên
tục thay đổi thất thường ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của trẻ, khiến trẻ đi học
chưa đều. Ở một điều kiện như vậy, hệ miễn dịch của trẻ bị suy giảm, rất dễ mắc
phải các bệnh do vi khuẩn, virus tấn công, như các bệnh: tay chân miệng, đau
mắt đỏ, sốt virus, cúm A – B, thủy đậu… đặc biệt là trong tình hình dịch bệnh
Covid19 đang diễn biến rất phức tạp.
Quan sát trong những ngày đầu trẻ đến trường, tôi nhận thấy các con chưa
hề có ý thức hay kĩ năng gì về vệ sinh cá nhân dù là những thói quen đơn giản
nhất như: trẻ khơng biết cách và khơng có thói quen rửa tay, khơng thích lau
mặt, thường xun dùng tay quệt ngang mũi bẩn, khi ăn thường xuyên làm đổ,
rơi vãi cơm, rất ít khi xúc bằng thìa mà thường dùng tay không để bốc nhúp đồ

ăn, sau khi ăn xong khơng biết cất bát thìa vào rổ đựng, khơng có thói quen
uống nước xúc miêng, sau khi sử dụng đồ dùng đồ chơi trẻ khơng hề có thói
quen cất dọn gọn gàng đúng chỗ, trẻ đi vệ sinh ra quần rất nhiều mà khơng nói
với cơ, …

3


Các gia đình hiện nay sinh ít con nên trẻ được cha mẹ nuông chiều, làm
thay những việc mà lẽ ra trẻ có thể tự làm gây cho trẻ thói quen ỉ lại, không tự
lập. Một số hành vi trẻ có được đa phần là do nhu cầu bản năng tự nhiên chứ trẻ
chưa hiểu được việc cần thiết phải thực hiện vệ sinh cá nhân xuất phát từ đâu.
Với vai trò là giáo viên chủ nhiệm của lớp, trước khi thực hiện các biện
pháp thì ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát thực tế trên trẻ để đánh
giá những thói quen nề nếp về vệ sinh của trẻ trong lớp, cụ thể như sau:
Bảng khảo sát đầu năm học (Tháng 9/2020)
Độ tuổi: Nhà trẻ
Số trẻ: 22 trẻ.
Thói quen vệ sinh
Thói quen vệ sinh
thân thể
Thói quen vệ sinh
trong ăn uống
Thói quen giữ gìn vệ
sinh trong mọi hoạt
động

Mức đánh giá
Trung
Khá

bình

Tốt

Chưa đạt

2/22 = 9%

2/22 = 9%

4/22 = 18% 14/22 = 64%

0

4/22 = 18%

5/22 = 23% 13/22 = 59%

2/22 = 9%

3/22 = 14%

5/22 = 23% 12/22 = 54%

Nhìn vào bảng khảo sát đánh giá thói quen vệ sinh của trẻ đầu năm học,
có thể thấy các thói quen vệ sinh của trẻ hầu hết là chưa có hoặc ở mức độ rất
thấp.
Từ những yếu tố đó, tơi đặt ra cho mình câu hỏi “phải làm gì?”, để rèn
những thói quen vệ sinh cho trẻ, đảm bảo trẻ có được sức khỏe tốt nhất trước các
nguy cơ dịch bệnh lây nhiễm và duy trì việc đi học đều đặn, từ đó nâng cao chất

4


lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Trước tình hình thực tế nêu trên, tôi đã nghiên cứu
và thực hiện “Biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi hình thành thói quen vệ
sinh tại lớp NTA1, trường MN , thành phố , tỉnh ”.
II. NỘI DUNG BIỆN PHÁP
Dựa vào mục đích đề ra, tôi đã lựa chọn các nội dung cụ thể để hình thành
thói quen vệ sinh cho trẻ như sau:
Nội dung 1. Xác định nội dung rèn thói quen vệ sinh cho trẻ
Dựa vào mục tiêu giáo dục cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi, tôi xây dựng những
nội dung rèn thói quen vệ sinh cho trẻ bao gồm:
ND1: Rèn thói quen vệ sinh thân thể:
- Thói quen rửa tay
- Thói quen lau mặt
- Thói quen vệ sinh răng miệng
- Thói quen được buộc tóc
- Thói quen được mặc quần áo sạch sẽ
ND2: Thói quen vệ sinh trong ăn uống:
- Vệ sinh trước khi ăn
- Vệ sinh trong khi ăn
- Vệ sinh sau khi ăn
ND3: Thói quen giữ gìn vệ sinh trong mọi hoạt động
- Giữ gìn ngăn nắp nơi học tập, nơi chơi, nơi lao động và nơi sinh hoạt.
- Biết sắp xếp, bảo vệ đồ dùng, đồ chơi, sách vở của bản thân.
Là năm đầu tiên đi học nên trẻ cịn rất bỡ ngỡ, trẻ khó hợp tác và thường
thiếu tập trung, vì vậy khi đưa đến cho trẻ bất kì nội dung nào tơi đều rất kiên
nhẫn, lặp lại nhiều lần để trẻ ghi nhớ, đặc biệt là luôn gây hứng thú, tạo sự chú ý
cho trẻ để tăng sự tập trung và thích thú với sự truyền tải của cơ.
Ví dụ: để dạy trẻ rửa tay, tôi cho các con được chơi đùa với nước trước

một chút, bởi trẻ độ tuổi này rất thích được nghịch nước. Sau khi thỏa mãn nhu
cầu chơi, trẻ có tâm thế thoải mái vui vẻ, tôi dần dần gây sự chú ý của trẻ vào
việc hướng dẫn rửa tay của cơ, có thể hát bài hát rửa tay, hoặc tạo tình huống
cho trẻ: bạn búp bê nghịch bẩn nên bạn ấy đang đi tìm xà phịng và nước để rửa
tay đấy, chúng mình có thể giúp bạn ấy khơng… Từ đó tơi hướng dẫn để trẻ bắt
chước rửa tay theo cô.
Với tất cả các hoạt động, tôi cho trẻ thực hiện theo cùng một khung giờ
5


tương đối cố định, tạo thành nề nếp, để trẻ hình thành thói quen, dần dần trẻ ghi
nhớ và tự giác thực hiện, luôn chú ý nhắc trẻ lấy đồ dùng đúng kí hiệu của mình
để tạo thói quen sử dụng đồ dùng cá nhân.
Nội dung 2. Tạo môi trường giáo dục tốt cho trẻ hoạt động để trẻ
thuận lợi tiếp thu những nội dung hình thành thói quen vệ sinh.
* Môi trường vật chất:
Trong lớp học, tôi sắp xếp, trang trí đồ dùng đồ chơi khoa học, an tồn,
đẹp mắt, phù hợp với chế độ sinh hoạt và học tập của trẻ. Trang trí lớp bằng bàn
tay cơ giáo, làm thêm các loại đồ chơi tự tạo từ nguyên liệu tự nhiên, các vật liệu
tái chế... nhằm thu hút sự chú ý và hào hứng của trẻ.
Trẻ ở độ tuổi này khó có thể nhớ được tất cả tên các góc chơi, nhưng trẻ
có khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh rất tốt, vì vậy tơi muốn thơng qua các hình
ảnh thu hút, bắt mắt, gây sự chú ý của trẻ để trẻ nhớ được những đồ dùng đồ
chơi này thường được bày ở vị trí nào, từ đó trẻ sẽ có thể cất đồ dùng đồ chơi
sau khi chơi đúng vị trí.

Tơi rất quan tâm đến khu vực nhà vệ sinh, tôi và đồng nghiệp đã tiến hành
trang trí khu vực vệ sinh đẹp mắt với đầy đủ các đồ dùng phục vụ vệ sinh: Xà
phòng rửa tay, giấy vệ sinh, khăn lau tay, chậu rửa, bàn chải... và luôn được dọn
dẹp sạch sẽ, gọn gàng, tiện sử dụng. Đặc biệt, năm học này tôi đã mạnh dạn đề

xuất ý kiến lắp bình nóng lạnh cho lớp đến các phụ huynh để cơng tác chăm sóc
vệ sinh cho trẻ được kịp thời và thuận tiện nhất, được phụ huynh nhất trí cao và
ủng hộ 100%.
* Mơi trường tinh thần
6


Tôi xây dựng môi trường tinh thần tại lớp học với 3 tiêu chí: u thương,
an tồn, tơn trọng trẻ.
- Cô yêu thương trẻ, luôn vui vẻ, niềm nở và ân cần với trẻ.
- Tạo mơi trường an tồn về thể chất lẫn tâm lý cho trẻ. Trong một ngày
làm việc không tránh khỏi những lúc mệt mỏi, căng thẳng nhưng tơi ln nhắc
mình giữ bình tĩnh để giải quyết các tình huống, các vấn đề một cách văn minh,
khoa học và mang tính giáo dục tốt nhất.
- Ln ln lắng nghe, tôn trọng ý kiến của trẻ và đối xử cơng bằng với
trẻ, từ đó đáp ứng kịp thời những mong muốn chính đáng của các con.
Mục đích của nội dung này là để trẻ cảm thấy lớp học là một mơi trường
cực kì thoải mái, khiến trẻ an tâm, tin tưởng và sẵn sàng đón nhận những nếp vệ
sinh sinh hoạt cô đưa ra và thực hiện một cách tích cực.
Nội dung 3. Tích hợp, lồng ghép các nội dung rèn thói quen vệ sinh ở
tất cả các hoạt động trong ngày của trẻ.
Mọi hoạt động trong ngày đều có thể lồng ghép nội dung hình thành thói
quen vệ sinh cho trẻ, chú ý để phù hợp với trẻ, khơng áp đặt, khơng q tải.
* Hoạt động đón, trả trẻ
- Tơi tạo cho trẻ thói quen tự làm các cơng việc, đồng thời giúp trẻ có thói
quen ngăn nắp: Cất dép, ba lô, mũ, áo... đúng nơi quy định.
- Trò chuyện với trẻ những hoạt động vệ sinh buổi sáng, ví dụ: Hơm nay
con dậy sớm đi học ngoan thế, thế con đã đánh răng chưa? Con rửa mặt như thế
nào? Ai giúp con cởi bỉm và đi vệ sinh chưa?... Thông qua hoạt động này tôi
nhắc trẻ nhớ lại kí hiệu cá nhân của mình để trẻ biết cất đồ dùng đúng ngăn tủ,

sử dụng cốc uống nước đúng kí hiệu…
- Trước khi đi thể dục, cơ cho trẻ đi vệ sinh và rửa tay sau khi đi vệ sinh.
Khi thực hiện các hoạt động vệ sinh này, tôi luôn dùng lời giảng giải và động
viên trẻ, ví dụ: Chúng mình đi vệ sinh để đi thể dục nào, mình ngoan lắm khơng
tè ra quần đâu nhỉ, quần áo mình xinh xắn lắm đây này,… mình rửa tay ngoan
tay nào, con vi khuẩn đã bị nước cuốn trôi luôn rồi, tay ai mà thơm thế…
* Hoạt động chơi – tập có chủ đích
Các hoạt động chơi – tập có chủ đích đều có thể lồng ghép nội dung giáo
7


dục thói quen vệ sinh cho trẻ, một điều cần chú ý là lựa chọn nội dung để lồng
ghép sao cho phù hợp với hoạt động chơi – tập, không gị bó gượng ép, ví dụ:
- Trong hoạt động phát triển ngôn ngữ, dạy trẻ đọc thơ “Đôi dép”, tôi giáo
dục trẻ thói quen đeo dép để bảo vệ cho đơi bàn chân xinh xắn của mình.
- Khi cho trẻ “Tô màu chiếc bánh sinh nhật”, tôi giáo dục trẻ nên ăn ít đồ
ngọt vào buổi tối, xúc miệng sau khi ăn và đánh răng trước khi đi ngủ để không
bị sâu răng.
- Trong hoạt động “Nhận biết các tên gọi của các bộ phận trên cơ thể”,
sau khi được tìm hiểu về các bộ phận trên cơ thể và biết được lợi ích của chúng
thì tơi đưa ra bài học giáo dục vệ sinh, chăm sóc các bộ phận đó thế nào, vệ sinh
thân thể sạch sẽ, mặc quần áo sạch đẹp và phù hợp thời tiết. Và kết hợp với việc
cho trẻ thực hành mô phỏng các thao tác vệ sinh: rửa tay, rửa mặt, đánh răng....
* Hoạt động chơi tự chọn
- Khi trẻ tham gia chơi ở các góc, ví dụ như góc thao tác vai, tơi cho trẻ
hoạt động với các đồ vật là dụng cụ vệ sinh, như bàn chải, khăn mặt, cốc,...: Em
búp bê dậy rồi à, con hãy lau mặt cho em nào? Phải chải răng như thế nào? Con
nhớ cho em xúc miệng nhé…
- Khi trẻ thao tác vai bác sĩ, tôi gợi ý để trẻ trở thành một bác sĩ nha khoa,
chỉ ra lý do em búp bê bị sâu răng, và cần làm gì để vệ sinh răng miệng; hay “tại

sao bạn Phong bị đau bụng?”, vì tay bẩn mà bạn ấy không rửa, cứ cầm đồ ăn
đưa vào miệng đấy…
- Sau khi trẻ chơi xong thì tơi rèn cho trẻ thói quen cất xếp đồ dùng đồ
chơi gọn gàng và lau dọn các góc chơi. Vứt rác đúng nơi quy định…
* Giờ ăn
Tơi rèn cho trẻ các thói quen vệ sinh trong ăn uống:
- Trước khi ăn trẻ đi rửa tay, rửa bằng nước và xà phòng cùng với sự hỗ
trợ của cô, lau tay khô. Trẻ biết ngồi đúng vị trí, nói “Con xin cơ” khi nhận đồ
ăn, mời cô và mời các bạn trước khi ăn.
- Trong q trình ăn tạo cho trẻ thói quen: ngồi ăn ngay ngắn, khơng nói
chuyện, ăn uống gọn gàng khơng rơi vãi, nhai kĩ.... Khi làm rơi cơm biết nhặt bỏ
vào đĩa đựng cơm rơi và lau tay.
8


- Sau khi ăn biết cất bát, thìa đúng nơi quy định, tìm đúng khăn của mình
lau miệng, lau tay, tìm đúng cốc của mình để lấy nước xúc miệng, uống nước.
Sau khi vệ sinh xong biết mang ghế về tổ ngồi nghỉ, chờ đến giờ đi vệ sinh và đi
ngủ, có thể giúp cơ cùng dọn bàn ghế, khăn, đĩa dựng cơm rơi.
* Giờ ngủ
- Tạo thói quen cho trẻ đi vệ sinh trước khi đi ngủ.
- Chọn đúng gối cá nhân của mình
- Khi ngủ dậy biết cất gối vào tủ và đi vệ sinh sau khi thức dậy.
* Giờ hoạt động chiều
- Tôi dành nhiều thời gian cho việc dạy trẻ kĩ năng, thói quen: rửa tay, rửa
mặt, đánh răng, lau dọn vệ sinh, bỏ rác đúng nơi quy định, thay quần áo sạch sẽ
và phù hợp với thời tiết,... Qua đó giúp trẻ ơn luyện, củng cố các kĩ năng, thói
quen, hành vi vệ sinh chính xác hơn.
- Khi trẻ về, tôi cùng trẻ cất ghế, nhắc phụ huynh giúp đỡ để trẻ tự lấy
balô và để trẻ tự cất dép lên giá.

Thông qua các hoạt động trong ngày tơi có thể đưa các nội dung đã xây
dựng vào sao cho phù hợp, không gượng ép, không quá tải hay gây áp lực cho
trẻ. Đối với trẻ em giữa việc nhận được lời động viên khen ngợi và phê bình thì
tâm lý mọi trẻ đều thích được khen. Nắm được đặc điểm tâm lý đó của trẻ, tôi
chú ý quan sát trẻ phát hiện hành vi, cử chỉ, việc làm tốt để động viên, tuyên
dương trẻ kịp thời. Đối với hành vi, việc làm chưa tốt tôi nhắc nhở với thái độ
gần gũi yêu thương, thân mật để trẻ tiếp thu và tiến bộ hơn.
Nội dung 4. Cô giáo là tấm gương đẹp cho trẻ học tập và noi theo.
- Muốn giáo dục trẻ tốt đầu tiên người giáo viên phải là tấm gương tốt. Ý
thức được việc đó tơi ln tạo cho mình tác phong nhanh nhẹn, trang phục gọn
gàng, sạch đẹp. Ngôn ngữ giao tiếp với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh chuẩn mực
thể hiện sự văn minh, lịch sự, thân thiện và gần gũi.
- Tơi ln nghiêm túc thực hiện đúng vai trị, trách nhiện của người giáo
viên, đặc biệt chú ý khi trẻ không may bị đi vệ sinh ra quần áo, tôi gác lại mọi
việc để ưu tiên thay rửa vệ sinh cho trẻ trước. Thực hiện việc dạy trẻ theo đúng
kế hoạch “Giờ nào việc đấy”. Việc làm tốt luôn được lặp lại nhiều lần để tạo
9


thành thói quen tốt. Ln chú ý hành động của mình để hướng dẫn trẻ bắt
chước, thực hiện theo.
Nội dung 5. Phối kết hợp với phụ huynh và giáo viên cùng lớp để rèn
thói quen vệ sinh cho trẻ
* Với cha mẹ trẻ
- Ngay từ khi trẻ chưa đến lớp, tôi chủ động liên lạc với phụ huynh để
nắm bắt tình hình của trẻ trước khi đi học, trao đổi với phụ huynh một số hoạt
động hay nề nếp sinh hoạt ở lớp để phụ huynh có những bước đầu rèn nề nếp vệ
sinh cho con ở nhà.
- Trong buổi họp phụ huynh đầu năm học và thông qua nhiều kênh liên lạc
khác nhau như giờ đón/ trả trẻ, sổ liên lạc điện tử, nhóm zalo… tơi đã trao đổi,

chia sẻ những kiến thức cũng như vai trò của việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ
với phụ huynh. Từ đó đưa ra mong muốn về việc phối kết hợp chặt chẽ giữa
giáo viên với gia đình trẻ để giáo dục trẻ toàn diện nhất.
VD: Cha mẹ thực hiện vệ sinh như một tấm gương để bắt chước, đồng
thời động viên khích lệ trẻ làm những cơng việc vừa sức: Dọn đồ chơi, lau bàn
ghế, gấp quần áo, chuẩn bị đồ dùng trước khi đi học, xúc miệng, lau mặt, tự đi
vệ sinh hoặc khi nói ra nhu cầu khi muốn đi vệ sinh, đánh răng trước khi đi ngủ
và sau khi ngủ dậy, để con tự cất đồ dùng, tự cất dép… (có sự giúp đỡ của cha
mẹ khi con gặp khó khăn).
* Với giáo viên cùng lớp
Từ đầu năm học tôi đã trao đổi với giáo viên cùng lớp để thống nhất về
nội dung cũng như kế hoạch giáo dục, chăm sóc trẻ. Giáo viên cùng lớp tơi cũng
rất đồng tình và ủng hộ với các biện pháp mà tôi xây dựng.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN BIỆN PHÁP
Sau một thời gian thực hiện biện pháp tôi nhận thấy, từ những đứa trẻ
ngây ngô ngày đầu đến lớp với sự lạ lẫm, những giọt nước mắt hoang mang lo
lắng, và khơng hề có một nề nếp thói quen theo tập thể nào, thì giờ trẻ đã tiến bộ
hơn rất nhiều, tự giác hơn trong sinh hoạt, trong vệ sinh cá nhân cùng nhiều kĩ
năng khác phù hợp với lứa tuổi.
10


Trẻ đã có những hành vi và thói quen vệ sinh văn minh: Trang phục sạch
sẽ khi đến trường, tự cất đồ dùng cá nhân của mình, ý thức về vệ sinh thân thể,
thích mặc đẹp, sạch và khơng thích mặc quần áo bị dây bẩn. Sau khi ăn biết cất
bát, thìa, lấy ghế về tổ ngồi, chờ đến lượt đi vệ sinh, đi uống nước xúc miệng.
Thích rửa tay, biết nhờ cô lau mũi, lau tay khi bị dây bẩn, thích được cơ buộc tóc
gọn gàng…
Phụ huynh đã nhận thức rõ hơn về vai trị, lợi ích của việc rèn thói quen
vệ sinh và hành vi vệ sinh văn minh cho trẻ. Trước đây, các cha mẹ trẻ vẫn cho

rằng con chỉ cần đi học khơng khóc, khơng ốm là được, mọi việc về chăm sóc vệ
sinh cho con là phần việc của người lớn chứ trẻ chưa thể tự làm được. Nhưng
sau một thời gian nhận thấy được sự tiến bộ rõ rệt của con em mình, các bậc phụ
huynh đã rất hài lòng và yên tâm khi gửi con cho chúng tôi.
Nề nếp học sinh lớp được nâng lên vì vậy chất lượng chăm sóc giáo dục
trẻ được nâng cao bởi vì trẻ đã có thêm sự tự giác ở các hoạt động. Đồng thời số
lượng trẻ ốm giảm, số trẻ trở lại đi học đều và thích nghi tăng.
Sau đây là biểu đồ so sánh kết quả khảo sát trước khi áp dụng biện pháp
và kết quả đánh giá sau khi áp dụng biện pháp:

11


Nội dung đánh giá 1: Thói quen vệ sinh cá nhân

Nội dung đánh giá 2: Thói quen vệ sinh trong ăn uống

Nội dung đánh giá 3: Thói quen giữ gìn vệ sinh trong mọi hoạt động

12


Nhìn vào các biểu đồ so sánh kết quả khảo sát ở 3 nội dung thói quen vệ
sinh của trẻ trong thời điểm trước và sau khi áp dụng biện pháp, có thể thấy
được sự thay đổi rõ rệt của trẻ, tỷ lệ trẻ có các thói quen vệ sinh tăng lên nhiều,
khơng có trẻ ở mức chưa đạt, tỉ lệ trẻ đạt mức tốt tăng mạnh.
IV. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của biện pháp:
Lứa tuổi nhà trẻ là lứa tuổi nhỏ nhất trong trường mầm non, cơ thể chưa
thực sự cứng cáp và sức đề kháng còn yếu. Đồng thời, việc mới tập đi học lại là

một thách thức nữa với trẻ khi thay đổi môi trường, nếp sinh hoạt, thay đổi thời
tiết, khí hậu… Việc trẻ dễ dàng bị vi khuẩn, virus tấn cơng là rất khó tránh khỏi.
Một lần nữa ta khẳng định được rằng, việc hình thành cho trẻ những thói
quen vệ sinh cơ bản khơng chỉ giúp trẻ có được một cơ thể sạch sẽ khỏe mạnh,
tăng cường sức đề kháng, dễ dàng thích nghi với mơi trường, mà cịn tạo ra thói
quen sinh hoạt văn minh, giúp trẻ tự tin trong mọi hoàn cảnh. Từ đó, ta thấy
được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng vệ sinh – kĩ năng sống cho trẻ,
tuy chỉ là những điều rất đơn giản, gần gũi, nhưng lại thực sự cần thiết cho trẻ,
phù hợp với độ tuổi của trẻ và nhu cầu thực tiễn của cuộc sống.

2. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng sáng kiến tại lớp, tôi đã rút ra cho
mình những bài học kinh nghiệm:
- Việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ là cả một quá trình chứ khơng phải
một sớm một chiều mà hình thành được. Vì vậy mà giáo viên và gia đình phải
nghiêm túc và kiên trì thực hiện.
13


- Cần linh hoạt, sáng tạo, tận dụng những điều kiện có sẵn để tổ hoạt động
chăm sóc giáo dục phù hợp với trẻ.
- Đối với riêng cá nhân tôi ln cần tự học hỏi, tìm hiểu và tự rèn luyện để
nâng cao năng lực, trình độ chun mơn, nghiệp vụ. Luôn tu dưỡng đạo đức, lối
sống lành mạnh để trở thành tấm gương sáng cho trẻ học tập là noi theo.
3. Kiến nghị:
Tuy rằng biện pháp mà tôi nghiên cứu khơng phải là một biện pháp hồn
tồn mới, đó dường như chỉ là những điều rất đơn giản và gần gũi với trẻ, xong
nó thật sự thiết thực với thực tế tại nơi tôi công tác, phù hợp với độ tuổi của trẻ
và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của cuộc sống.
Biện pháp đã được Hội đồng khoa học nhà trường đánh giá cao và áp

dụng hiệu quả tại lớp tơi. Nhìn vào các kết quả đã đạt được, tơi mong rằng biện
pháp của mình có thể được lan tỏa rộng hơn đến các đồng nghiệp ở các trường
mầm non khác, nhưng ta áp dụng sao cho phù hợp với khả của của giáo viên và
trẻ, phù hợp với điều kiện thực tế tại mỗi đơn vị.
Trân trọng cảm ơn!

14



×