Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Huy động nguồn lực phi chính phủ quốc tế trong phát triển kinh tế xã hội ở một số nước châu á đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 193 trang )

..

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SONG BÌNH

HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC
PHI CHÍNH PHỦ QUỐC TẾ
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á
ĐANG PHÁT TRIỂN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2012


VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SONG BÌNH

HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC
PHI CHÍNH PHỦ QUỐC TẾ
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á
ĐANG PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành: Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số: 62.31.07.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh
2. TS. Lê Thị Ái Lâm

HÀ NỘI-2012


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Nguyễn Song Bình


ii

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến tập thể các thầy cô
hướng dẫn, đặc biệt là PGS.TS. Lưu Ngọc Trịnh và TS. Lê Thị Ái Lâm đã tận
tình và tâm huyết hướng dẫn, góp ý kiến q báu và động viên tơi trong suốt quá
trình thực hiện nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô, một số cán bộ nghiên cứu ở Viện
Kinh tế và Chính trị Thế giới và Học viện Khoa học Xã hội đã chia sẻ thông tin,
tài liệu, ý tưởng và nhiệt tình giúp đỡ tơi trong thời gian học tập và nghiên cứu
vừa qua.

Lời cảm ơn chân thành cũng xin gửi đến các chuyên gia về lĩnh vực viện
trợ phi chính phủ quốc tế ở Ban điều phối viện trợ nhân dân, Trung tâm dữ liệu
phi chính phủ, Đại học Quốc gia Hà Nội và những bạn bè, đồng nghiệp trong và
ngoài nước đã chia sẻ học liệu, cơng trình nghiên cứu của mình giúp tơi có cơ sở
tham khảo vận dụng cho nghiên cứu của mình.
Sẽ khơng thể có được luận án này nếu khơng có cơng đóng góp của các
thầy, cơ, đồng nghiệp, bạn bè và đặc biệt là sự quan tâm, động viên và tạo điều
kiện của gia đình. Tơi thực sự biết ơn những sự giúp đỡ này.
Trân trọng,
Nguyễn Song Bình


iii

MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt …………………………………………………………………………...

v

Danh mục các hình …………………………………………………………………………………..

vi

Danh mục các bảng biểu …………………………………………………………………………….

vi

Mở đầu ……………………………………………………………………………………………….


1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tổ chức phi chính phủ và huy động nguồn lực phi chính
phủ quốc tế…………………………………………………………………………………………...

9

1.1. Tổng quan về tổ chức phi chính phủ ……………………………………….…………………..

9

1.1.1.

Khái niệm tổ chức phi chính phủ …………………………………………………………...

9

1.1.2.

Đặc trưng của tổ chức phi chính phủ ……………………………………………………….

12

1.1.3.

Phân loại các tổ chức phi chính phủ ………………………………………………………...

14

1.1.4.


Xu thế phát triển của khu vực phi chính phủ ……………………………………………….

17

1.2. Tổng quan về nguồn lực phi chính phủ quốc tế …………………….………….………….…...

19

1.2.1.

Khái niệm viện trợ phi chính phủ quốc tế …………………………………………………..

21

1.2.2.

Nội dung viện trợ phi chính phủ quốc tế ……………………………………………………

24

1.2.3.

Khái niệm huy động nguồn lực phi chính phủ quốc tế ……………………………………..

26

1.2.4.

Tổng quan huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở các nước đang phát triển …………..


28

1.2.5.

Vai trị của viện trợ phi chính phủ quốc tế đối với phát triển kinh tế-xã hội ở các nước
đang phát triển ………………………………………………………………………………

30

Yêu cầu đối với việc huy động và các yếu tố ảnh hưởng đến huy động viện trợ phi chính
phủ quốc tế ở các nước đang phát triển …………………………………………………......

45

Chương 2: Nghiên cứu trường hợp điển hình về huy động nguồn lực viện trợ phi chính phủ quốc
tế ở một số nước châu Á đang phát triển ………………………………………………………….....

57

2.1. Phương pháp luận nghiên cứu trường hợp điển hình …………………………………………..

57

2.2. Lý do lựa chọn các trường hợp điển hình trong nghiên cứu này ………………………………

58

2.3. Nghiên cứu trường hợp điển hình Trung Quốc ………………………………………………..


66

2.3.1.

Thực trạng thu hút viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Trung Quốc ………………………….

66

2.3.2.

Thực trạng quản lý nhà nước về viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Trung Quốc ……………

70

2.3.3.

Đánh giá công tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Trung Quốc ………………..

74

2.4. Nghiên cứu trường hợp điển hình Nê-pan ……………………………………………………..

81

2.4.1.

Thực trạng huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Nê-pan …………………………….

81


2.4.2.

Thực trạng quản lý nhà nước về viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Nê-pan …………………

85

2.4.3.

Đánh giá công tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Nê-pan ……………………..

88

2.5. Nghiên cứu trường hợp điển hình In-đơ-nê-xia ………………………………………………..

97

2.5.1.

Thực trạng huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở In-đô-nê-xia ……………………….

97

2.5.2.

Thực trạng quản lý nhà nước về viện trợ phi chính phủ quốc tế ở In-đơ-nê-xia ……………

101

1.2.6.



iv

2.5.3.

Đánh giá cơng tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở In-đô-nê-xia ……………….

105

Chương 3: Bài học kinh nghiệm về huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở một số nước châu Á
đang phát triển và vận dụng đối với Việt Nam về mặt chính sách …………………………………..

112

3.1. Những vấn đề chung và riêng về huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Trung Quốc, Nêpan và In-đô-nê-xia ……………………………………………………………….……………

112

3.1.1.

Những vấn đề chung ………………………………………………………………………..

112

3.1.2.

Những vấn đề riêng …………………………………………………………………………

114


3.1.3.

Đánh giá chung về công tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở 3 trường hợp điển
hình …………………………….……………………………………………………………

116

3.2. Bài học kinh nghiệm về huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Trung Quốc, Nê-pan và
In-đô-nê-xia …………………………………………………………………………………….

119

3.2.1.

Sự cần thiết phải tranh thủ viện trợ phi chính phủ quốc tế …………………………………

119

3.2.2.

Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế phải phù hợp với điều kiện đặc thù của nước tiếp
nhận …………………………………………………………………………………………

124

3.2.3.

Quản lý nhà nước có tác động trực tiếp đến huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ……..

128


3.2.4.

Năng lực của nước tiếp nhận có ảnh hưởng đến hiệu quả huy động viện trợ phi chính phủ
quốc tế ………………………………….…………………………………………………...

132

3.3. Vận dụng về chính sách huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam trên cơ sở bài
học kinh nghiệm quốc tế ………………………………….…………………………………....

136

3.3.1.

Thực trạng thu hút viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam ……………….….………...

136

3.3.2.

Thực trạng quản lý nhà nước về viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam ………………

144

3.3.3.

Đánh giá cơng tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam …………………..

146


3.3.4.

Tính cấp thiết của việc huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế đối với Việt Nam trong
tình hình hiện nay ………………………………………………..…………….……………

153

Một số yếu tố ảnh hưởng đến huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam trong
thời gian tới ..….….…………………………………………..…………….……………….

154

Một số đề xuất nhằm tăng cường hiệu quả huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt
Nam …………………………………………………………………………………………

159

Kết luận ……………………………………………………………………………………………...

167

Danh mục cơng trình nghiên cứu của tác giả ………………………………………………………..

170

Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………….………………..

171


Phụ lục ……………………………………………………………………………………………….

180

3.3.5.
3.3.6.


v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB

Asian Development Bank

Ngân hàng Phát triển Châu Á

ASEAN

Association of South East Asian
Nations

Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á

ECOSOC

Economic and Social Council – United
Nations

Hội đồng Kinh tế Xã hội của Liên hiệp quốc


FAO

Food and Agriculture Organization –
United Nations

Tổ chức Lương Nông Liên hiệp quốc

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm nội địa

HDI

Human Development Index

Chỉ số phát triển con người

HIV/AIDS

Human Insuffisance Virus/Acquired
Immune Deficiency Syndrome


Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do
vi-rút HIV

IMF

International Monetary Fund

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

MDG

Millennium Development Goals –
United Nations

Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên
hiệp quốc

NGO

Non-governmental Organization

Tổ chức phi chính phủ

ODA

Official Development Assistance

Hỗ trợ phát triển chính thức


OECD

Organisation for Economic
Cooperation and Development

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

UN

United Nations

Liên hợp quốc

UNDP

United Nations Development
Programme

Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc

UNICEF

United Nations Children’s Fund

Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc

USD

US Dollar


Đô-la Mỹ

WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

WHO

World Health Organisation

Tổ chức Y tế Thế giới


vi

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1

Các thế hệ phát triển của khu vực phi chính phủ

19

Hình 1.2

So sánh thực trạng ODA và viện trợ phi chính phủ quốc tế

29


Hình 2.1

Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở Trung Quốc trong thời gian qua

68

Hình 2.2

Diễn biến giá trị viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Trung Quốc trong thời gian
qua

68

Hình 2.3

Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở Nê-pan trong thời gian qua

82

Hình 2.4

Diễn biến giá trị viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Nê-pan trong thời gian qua

83

Hình 2.5

Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở In-đơ-nê-xia trong thời gian qua


99

Hình 2.6

Diễn biến giá trị viện trợ phi chính phủ quốc tế ở In-đơ-nê-xia trong thời gian
qua

99

Hình 3.1

Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở Việt Nam trong thời gian qua

138

Hình 3.2

Diễn biến giá trị viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam trong thời gian
qua

138

Hình 3.3

Phân bổ lĩnh vực viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam

143

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang

Bảng 1.1

So sánh huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế và ODA dành cho xóa đói
nghèo trên thế giới

34

Bảng 1.2

Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế giúp giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh và tỷ
lệ mù chữ cho nhóm nước thu nhập thấp

35

Bảng 1.3

Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế giúp giải quyết các vấn đề xã hội
trong nhóm các nước nghèo

37

Bảng P.1

Diễn biến viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Trung Quốc từ 1990-2010

181

Bảng P.2

Diễn biến viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Nê-pan từ 1990-2010


182

Bảng P.3

Diễn biến viện trợ phi chính phủ quốc tế ở In-đơ-nê-xia từ 1990-2010

183

Bảng P.4

Diễn biến viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt Nam từ 1990-2010

184


1

MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tham gia vào q trình tồn cầu hóa hiện nay khơng chỉ có các chủ thể
truyền thống như nhà nước, doanh nghiệp, các thể chế khu vực và quốc tế mà cịn
có sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ thể dân sự nằm ngồi khu vực cơng – cịn được gọi
là chủ thể phi chính phủ, hay là các tổ chức phi chính phủ (NGO). Có nhiều yếu tố
thúc đẩy sự phát triển của các NGO, nhất là trong các thập niên 1980-1990, như:
hậu Chiến tranh lạnh, xu thế quốc tế hoá, tồn cầu hố, hợp tác quốc tế, phong trào
xã hội, xu thế dân chủ hoá, cải cách, mở cửa, chuyển đổi cơ cấu, sự phát triển của
công nghệ thông tin. Cùng với thời gian, các NGO đã có những bước phát triển cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu, được nâng tầm lên thành “khu vực phi chính phủ”,

tham gia mạnh mẽ vào tiến trình quốc tế hóa, tồn cầu hóa, mở rộng địa bàn hoạt
động quốc tế, vươn ra những lĩnh vực hoạt động mang tầm quốc tế.
Nắm bắt xu thế này, trong hơn 4 thập kỷ qua, nhiều nước trên thế giới nói
chung và ở châu Á nói riêng đã coi trọng và huy động một cách có hiệu quả các
nguồn lực bên ngồi, trong đó có nguồn lực của các NGO quốc tế (nguồn lực phi
chính phủ quốc tế). Nguồn lực phi chính phủ quốc tế bao gồm các nguồn lực
“cứng” như: tài trợ tài chính (viện trợ phi chính phủ quốc tế), nhân lực, cơ sở vật
chất, khoa học công nghệ...; các nguồn lực “mềm” bao gồm: uy tín, tri thức, tư duy,
văn hóa, các giá trị... có thể ảnh hưởng đến những đối tượng tiếp cận; và nguồn lực
tình nguyện viên. Trong các nguồn lực của NGO quốc tế thì nguồn lực viện trợ
ngày càng đóng vai trị quan trọng, khơng chỉ vì đây là nguồn vốn tài trợ khơng
hồn lại 100%, có tỷ lệ giải ngân cao mà cịn kèm theo đó là các tác động tích cực
như chuyển giao tri thức, đào tạo nhân lực, giúp xóa đói, giảm nghèo, phát triển
cộng đồng, đồng thời tham gia chăm lo phúc lợi, giải quyết các vấn đề xã hội một
cách hiệu quả và tiên phong giải quyết các vấn đề mới trong phát triển.


2

Trong sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay, để đẩy mạnh cơng cuộc
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một xuất phát điểm tương đối thấp, Việt
Nam cần tranh thủ và phát huy nhiều nguồn lực bên ngồi, trong đó có nguồn lực
phi chính phủ quốc tế. Trong thời gian tới, trước yêu cầu của tình hình mới với
nhiều khó khăn về huy động nguồn vốn trong và ngoài nước trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu rộng và suy thối kinh tế tồn cầu, việc huy động hiệu quả nguồn
lực, trong đó đặc biệt là viện trợ của các NGO quốc tế càng trở nên quan trọng. Tuy
nhiên, chúng ta gặp nhiều khó khăn, thách thức trong cơng tác huy động nguồn lực
phi chính phủ quốc tế do kinh nghiệm trong lĩnh vực này chưa nhiều so với nhiều
nước trong khu vực. Trong bối cảnh đó, kinh nghiệm của các nước đi trước, các
nước có hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam là cơ sở tốt để chúng ta có thể tham

khảo cho hoạch định chính sách.
Trong khn khổ có hạn, luận án này lựa chọn 3 nước châu Á đang phát
triển và mới nổi để nghiên cứu về huy động viện trợ của phi chính phủ quốc tế hỗ
trợ cho phát triển kinh tế-xã hội; 3 nước này là: Trung Quốc, Nê-pan và In-đô-nêxia. Mặc dù khơng thể có được một trường hợp điển hình hồn tồn tương thích,
mỗi nước được lựa chọn đều có một số điểm tương đồng đối với Việt Nam về điều
kiện lịch sử, kinh tế-chính trị, hồn cảnh và chính sách phát triển, cũng như có các
bài học về huy động nguồn lực viện trợ phi chính phủ quốc tế đáng để xem xét.
Tình hình nghiên cứu
Những nghiên cứu trong và ngoài nước chuyên sâu về chủ đề phi chính phủ
và nguồn lực phi chính phủ quốc tế nhìn chung còn chưa nhiều. Trên thế giới, các
học giả như Mót-lây, Bun và Ri-chen (với cơng trình “Viện trợ phát triển, tiết kiệm
và tăng trưởng”), Cờ-rai và Đô-la (với công trình “Viện trợ, cơ chế khuyến khích và
giảm đói nghèo”), Han-xen (với cơng trình “Tranh luận về hiệu quả viện trợ”), hay
Ngân hàng Thế giới (với các báo cáo “Thực trạng viện trợ”) chủ yếu tập trung
nghiên cứu về huy động và sử dụng các yếu tố nguồn lực hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) và mối quan hệ với xã hội dân sự. Các học giả như An-hai-ơ (với công


3

trình “Nền tảng cho khu vực thứ ba trong tương quan quốc tế”), Gờ-rin-xờ-mít (với
cơng trình “Xu thế gây quỹ và tài trợ của NGO quốc tế”), Ba-gu-lây (với công trình
“Tồn cầu hóa của NGO”), Hút-đốc (với cơng trình “NGO và xã hội dân sự”), Cơten (với cơng trình “Tiến tới thế kỷ 21: Hành động tình nguyện và nghị sự tồn
cầu”), Ca-li-giê-an (với cơng trình “Sổ tay về NGO”),... có nghiên cứu về lĩnh vực
phi chính phủ, nhưng lại chỉ tập trung vào phần lý luận chung, tiếp cận vĩ mô và xu
thế, hiếm các nghiên cứu về các nước cụ thể và vận dụng thực tiễn.
Các nghiên cứu về lĩnh vực phi chính phủ trong khu vực cũng còn bất cập.
Các học giả tiêu biểu của Trung Quốc như Phong (với cơng trình “Tại sao NGO lại
phát triển ở Trung Quốc”), Q và Lưu (với cơng trình “Quan điểm về NGO quốc
tế tiếp cận Trung Quốc”), Trần (với cơng trình “Cộng đồng NGO tại Trung Quốc

mở rộng liên kết”), Mã (với cơng trình “Ảnh hưởng của tồn cầu hóa và NGO quốc
tế đến phát triển NGO Trung Quốc”), Chí (với cơng trình “Trung Quốc siết lại kiểm
sốt NGO trong nước”),... mới tập trung nghiên cứu đối tượng các NGO trong nước
và xã hội dân sự, ít đề cập đến nguồn lực viện trợ của các NGO quốc tế tại các nước
này, nếu có đề cập thì chưa đi sâu phân tích về cơng tác huy động. Tương tự với
trường hợp Nê-pan và In-đô-nê-xia: nghiên cứu của các tác giả Nê-pan như Đa-can
(với cơng trình “Liệu NGO có phải là sự lựa chọn tốt cho phát triển ở Nê-pan), Phahát (với cơng trình “Phát triển tại Nê-pan: Khả năng thơng qua NGO”), Da-ga-đít
(với cơng trình “Chính sách của NGO tại Nê-pan”); hay các tác giả In-đô-nê-xia
như Nu-gờ-rô-hô (với công trình “NGO, Internet và phát triển bền vững”), Na-han
(với cơng trình “NGO phá hoại dân chủ”), Xê-tia-oan ( với cơng trình “NGO - một
lực lượng xã hội mới”),... chủ yếu mang tính thơng tin, chưa tồn diện về hoạt động
hẹp của NGO quốc tế tại các nước này, tập trung nhiều vào đối tượng tiếp nhận viện
trợ (NGO trong nước) hơn là phân tích nhằm vào đối tượng viện trợ (NGO quốc tế).
Những nghiên cứu chuyên sâu về phi chính phủ quốc tế và huy động viện trợ
phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam cịn chưa nhiều. Các cơng trình nghiên cứu của
các tác giả trong nước như Nguyễn Văn Thanh (với cơng trình “Tổ chức và hoạt


4

động phi chính phủ nước ngồi tại Việt Nam”), Phạm Chí Dũng (với cơng trình
“Viện trợ phi chính phủ ở Việt Nam – Con cá hay cần câu”), Ban Điều phối viện trợ
nhân dân (với các “Báo cáo tổng kết cơng tác phi chính phủ nước ngồi”), các “Báo
cáo quốc gia” về Việt Nam của NGO lớn như Ốc-pham, Quỹ Pho, Plan... đã phần
nào đề cập đến thực trạng viện trợ phi chính phủ quốc tế nhưng các số liệu chưa cập
nhật và chưa phân tích sâu các yếu tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực viện trợ
này. Các nghiên cứu này cũng chưa đưa ra mơ hình huy động viện trợ phi chính phủ
quốc tế với tiếp cận từ phía nước tiếp nhận; cũng như chưa mang tính toàn diện,
chưa phổ biến rộng rãi trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách.
Như vậy, cịn ít nghiên cứu thực tiễn về lĩnh vực phi chính phủ và nguồn lực

phi chính phủ quốc tế, đặc biệt nghiên cứu cụ thể về huy động nguồn lực viện trợ
phi chính phủ quốc tế dưới góc độ các nước đang phát triển (tiếp nhận) nói chung,
đặc biệt là các nước có hồn cảnh kinh tế, xã hội, văn hóa gần giống với Việt Nam;
cũng như còn thiếu các nghiên cứu tổng quát hoá và vận dụng thực tiễn đối với Việt
Nam như luận án này.
Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu việc huy động (thu hút và quản lý) nguồn lực
từ các NGO quốc tế của các nước châu Á đang phát triển và mới nổi, đặc biệt là
Trung Quốc, Nê-pan, In-đô-nê-xia và Việt Nam. Nghiên cứu này xem xét các chủ
thể có liên quan đến cơng tác vận động, điều phối và quản lý viện trợ phi chính phủ
quốc tế, bao gồm: nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa
phương, các tổ chức chính trị-xã hội do các nước lập nên hoặc hậu thuẫn để thực
hiện chức năng vận động, điều phối, quản lý NGO (quốc tế và trong nước), cũng
như cơ quan chun trách về cơng tác phi chính phủ của các nước.
Mục đích nghiên cứu
Trước hết, luận án này nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
khu vực phi chính phủ và nguồn lực phi chính phủ quốc tế, đặc biệt là nguồn lực


5

viện trợ. Phần chính của luận án này tập trung nghiên cứu công tác huy động nguồn
lực viện trợ phi chính phủ quốc tế trong phát triển kinh tế-xã hội tại 3 trường hợp
điển hình với hy vọng giúp các chủ thể tham gia vào mối quan hệ với NGO quốc tế,
trong đó bao gồm các đối tác địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước ở trung
ương và địa phương, cũng như các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam có nhận
thức đúng đắn về chủ thể này trong tiến trình hội nhập và phát triển. Bên cạnh đó,
luận án hướng tới giúp nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo, vận dụng trong
xây dựng chính sách, xây dựng mơ hình huy động hiệu quả nguồn viện trợ và nhìn
rộng hơn là nguồn lực nói chung của các NGO quốc tế cho cơng cuộc xóa đói

nghèo, phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án này giới hạn nghiên cứu về nguồn lực viện trợ (viện trợ phi chính
phủ quốc tế) trong tổng thể các nguồn lực nói chung của NGO quốc tế, do nguồn
lực viện trợ có tính thiết thực, hiệu quả trợ giúp cao, thường chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các nguồn lực phi chính phủ quốc tế; có tính phổ qt, bao trùm và có thể
lồng ghép trong nguồn lực này nhiều nguồn lực khác (ví dụ như viện trợ kèm theo
hỗ trợ chuyên gia tư vấn, vận động chính sách...). Bên cạnh đó, nghiên cứu về
nguồn lực viện trợ có thuận lợi do tính lượng hóa với các số liệu thống kê định
lượng được, lại có thể vận dụng được các mơ hình đánh giá hiệu quả hiện có.
Huy động nguồn lực phi chính phủ quốc tế được hiểu trong nghiên cứu này
là quá trình thu hút và quản lý các nguồn lực của NGO quốc tế, tích hợp để phục vụ
cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội tại nước tiếp nhận (được hiểu ở đây là các
nước chậm phát triển, đang phát triển hoặc mới nổi), trong đó quản lý nhà nước là
để phục vụ cho thu hút hiệu quả hơn.
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian tập trung vào hoạt động thu hút và quản
lý viện trợ phi chính phủ quốc tế từ giữa những năm 1990 đến 2010, thời gian được
coi là nở rộ của hoạt động viện trợ phi chính phủ quốc tế tại các nước đang phát
triển châu Á, gắn với quá trình tồn cầu hóa và quốc tế hóa, cũng như các chính


6

sách trợ giúp và can dự (có và khơng có điều kiện) của cộng đồng quốc tế và các
định chế tài chính tiền tệ quốc tế. Nghiên cứu xem xét NGO thuộc nhóm các nước
viện trợ tiêu biểu trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và thu hẹp
phạm vi vào 3 nước tiếp nhận viện trợ tiêu biểu ở châu Á là Trung Quốc, Nê-pan và
In-đô-nê-xia với các phân tích so sánh với Việt Nam.
Về các lĩnh vực hoạt động của NGO quốc tế, nghiên cứu giới hạn phạm vi
chủ yếu ở những lĩnh vực chính trong Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của

Liên hiệp quốc (UN), trong đó tập trung làm nổi bật việc huy động viện trợ phi
chính phủ quốc tế dành cho phát triển kinh tế-xã hội, có nghĩa là khơng phải chỉ là
tăng trưởng kinh tế, mà còn phải gắn với tiến bộ xã hội, tăng trưởng chỉ số phát
triển con người (HDI).
Nhiệm vụ giải quyết
Trên cơ sở mục đích, mục tiêu nghiên cứu, luận án nhằm trả lời các câu hỏi
nghiên cứu như sau:
1) NGO và nguồn lực phi chính phủ, đặc biệt nguồn lực viện trợ phi chính phủ
quốc tế là gì, các đặc trưng và nội hàm liên quan?
2) Diễn biến thu hút viện trợ phi chính phủ quốc tế tại các nước châu Á đang
phát triển, đặc biệt với các nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam như
Trung Quốc, Nê-pan và In-đô-nê-xia trong thời gian qua như thế nào?
3) Yếu tố quản lý nhà nước tác động như thế nào đến thu hút viện trợ phi chính
phủ quốc tế tại các nước đang phát triển, đặc biệt ở Trung Quốc, Nê-pan và
In-đơ-nê-xia?
4) Có thể rút được các bài học kinh nghiệm chung và riêng gì về huy động viện
trợ phi chính phủ quốc tế từ nghiên cứu các trường hợp điển hình nói trên?
5) Các kinh nghiệm nói trên có thể vận dụng về mặt chính sách và triển khai
cho hồn cảnh của Việt Nam được khơng, nếu có thì vận dụng như thế nào?


7

Phương pháp nghiên cứu
Luận án này sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp có hệ thống các nội
dung nghiên cứu theo các tiêu chí lựa chọn. Nghiên cứu cịn vận dụng phương pháp
phân tích so sánh các số liệu sơ cấp và thứ cấp liên quan đến các NGO quốc tế, viện
trợ của các tổ chức này, kết quả dự án của các tổ chức này, kết hợp với phương
pháp diễn dịch và quy nạp để đưa ra những suy luận và hệ quả, từ đó rút ra kết luận
và nhận định.

Bên cạnh đó, luận án vận dụng phương pháp “nghiên cứu trường hợp điển
hình”, một phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội thông dụng. Phương pháp này
dựa trên điều tra khảo sát sâu một sự kiện, nhóm hoặc một đối tượng nghiên cứu
đơn lẻ (trường hợp) trong mối quan hệ tương tác trong một khoảng thời gian nhất
định, hệ thống hoá đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này giúp khái quát hóa mối
quan hệ giữa trường hợp nghiên cứu và các vấn đề chung liên quan để đúc rút thành
các bài học, kinh nghiệm thực tiễn có thể áp dụng cho những trường hợp tương tự.
Những đóng góp mới của luận án
So với tình hình nghiên cứu hiện nay như nêu trên, luận án có thể có đươc
một số đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, luận án hệ thống hóa và bao quát được các vấn đề lý luận liên quan
đến khu vực phi chính phủ, nguồn lực phi chính phủ, cịn ít được nghiên cứu tại
Việt Nam. Đặc biệt, luận án tổng hợp được xu hướng phát triển của khu vực phi
chính phủ qua các thế hệ phát triển cho đến thời điểm nghiên cứu - điều mà chưa
nghiên cứu nào trước đây đề cập đến.
Thứ hai, luận án lựa chọn được các trường hợp nghiên cứu điển hình tại một
số nước châu Á có điều kiện và hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam, đều chưa
được nghiên cứu đến tại Việt Nam cho đến thời điểm nghiên cứu này. Phân tích các
trường hợp điển hình này giúp giải quyết những vấn đề mà các nghiên cứu trước đã
đề cập nhưng ở phạm vi rộng hơn, góc độ sâu sắc và tổng hợp hơn. Từ đó, luận án


8

cố gắng khắc phục những hạn chế của các nghiên cứu trước đây về tính tổng hợp và
bao quát để khái quát hóa thành các bài học kinh nghiệm về huy động viện trợ phi
chính phủ quốc tế và chính sách quản lý phù hợp đối với các nước đang phát triển
châu Á.
Thứ ba, với phạm vi khiêm tốn của nghiên cứu, luận án đề xuất một số giải
pháp tổng thể cho nhiều đối tượng khác nhau liên quan đến cơng tác phi chính phủ

quốc tế ở Việt Nam để phối hợp một cách đồng bộ các nỗ lực nhằm thu hút và quản
lý hiệu quả hơn nguồn lực viện trợ thiết thực này; điều mà các nghiên cứu trong
nước trước đây chưa bao quát hết. Trong các đề xuất có những nội dung mang tính
thiết thực và đột phá.
Cuối cùng, luận án góp phần làm cơ sở khoa học và tài liệu để các nhà
nghiên cứu tham khảo, tiếp tục có những nghiên cứu, phân tích sâu sắc hơn, đồng
thời có thể đưa ra các nhận định, đề xuất về lĩnh vực này, phục vụ cho công tác
quản lý phi chính phủ và viện trợ phi chính phủ quốc tế ở các nước châu Á đang
phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, giúp cho việc hoạch định chính sách
của Đảng và nhà nước liên quan đến huy động các nguồn lực cho cơng cuộc xóa đói
giảm nghèo và phát triển.
Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt, bảng biểu, hình,
Danh mục tài liệu tham khảo và Mục lục, luận án được trình bày theo 3 chương:
• Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tổ chức phi chính phủ và nguồn
lực phi chính phủ quốc tế;
• Chương 2: Nghiên cứu trường hợp điển hình về huy động nguồn lực viện trợ
phi chính phủ quốc tế ở một số nước châu Á đang phát triển;
• Chương 3: Bài học kinh nghiệm về huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế
ở một số nước châu Á đang phát triển và vận dụng đối với Việt Nam về mặt
chính sách.


9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC PHI
CHÍNH PHỦ VÀ HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC PHI CHÍNH PHỦ QUỐC TẾ

1.1.


Tổng quan về tổ chức phi chính phủ

1.1.1. Khái niệm tổ chức phi chính phủ
Ngay từ thế kỷ XVI-XVII, ở châu Âu đã xuất hiện các nhóm thiện nguyện tự
tổ chức thành lập, làm công tác từ thiện, nhân đạo, hỗ trợ những người chịu thiệt
thòi trong xã hội, nhất là nạn nhân các cuộc chiến tranh. Tuy nhiên phải đến khoảng
cuối thế kỷ XIX, với sự phát triển rộng rãi của trên 10.000 tổ chức phi lợi nhuận và
tình nguyện ở châu Âu và đặc biệt ở Mỹ thì xã hội mới bắt đầu cơng nhận và nhìn
nhận một cách nghiêm túc đến khái niệm “phi chính phủ” [19].
Cũng bởi bối cảnh lịch sử này và theo quan điểm phương Tây, khái niệm
“phi chính phủ” đồng nghĩa với “phi lợi nhuận” và “tình nguyện”. Phi lợi nhuận
khơng có nghĩa là khơng được kinh doanh mà được hiểu là không được kiếm lợi
nhuận cho cá nhân; lợi nhuận thu được phải dùng để cung cấp hàng hoá, dịch vụ
phục vụ cho những đối tượng cần, thường là các đối tượng chịu thiệt thòi hoặc hay
bị tổn thương trong xã hội. Tình nguyện được hiểu là tính tự nguyện, tự giác của
mỗi thành viên, không bị ràng buộc bởi bất kỳ nghĩa vụ pháp lý trong việc thực hiện
cơng việc của mình hướng tới phục vụ, giúp đỡ cho người khác. Đây cũng là tinh
thần làm việc và triết lý tổ chức của các NGO.
Xu hướng quốc tế hố, tồn cầu hóa đã đặt ra thách thức to lớn cho các nước
phải giải quyết các vấn đề nảy sinh trong phát triển mang tính phụ thuộc lẫn nhau
như nghèo địi, bất bình đẳng, các vấn đề xã hội, bệnh dịch, lao động, dịch vụ
công… Các nước đang phát triển còn hạn chế về năng lực, kinh nghiệm và các
nguồn lực để giải quyết những vấn đề này, trong khi phải ưu tiên cho các vấn đề cấp
thiết hơn về tăng trưởng kinh tế. Khu vực tư nhân bị chi phối bởi quy luật lợi nhuận,
lợi ích cá nhân nên không coi việc tham gia giải quyết các vấn đề nói trên là trách


10

nhiệm của mình. Chính bối cảnh này tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của khu

vực phi chính phủ, xã hội dân sự để tham gia lấp đầy khoảng trống về trách nhiệm
xã hội. Cũng vì vậy, cách tiếp cận của khu vực phi chính phủ là tiếp cận mang “tính
tham gia” và có “trách nhiệm xã hội”.
Nhìn nhận sự trỗi dậy của các chủ thể phi chính phủ, năm 1950, UN đã chính
thức cơng nhận và thể chế hóa khu vực này bằng Quy chế tư vấn phi chính phủ
trong đó có đoạn: “Hội đồng Kinh tế và Xã hội có thể bố trí tư vấn phù hợp với các
tổ chức phi chính phủ quan tâm tới các vấn đề trong phạm vi năng lực của họ” [96].
Theo nhìn nhận của Hội đồng Kinh tế Xã hội của UN (ECOSOC), NGO là tổ chức
được thành lập không dựa trên sự thỏa thuận của chính phủ, hoạt động khơng chịu
sự chi phối của chính phủ. NGO bao gồm cả các tổ chức có đại diện của chính phủ
làm thành viên, miễn là họ, với tư cách đại diện chính phủ, khơng can thiệp vào
việc bày tỏ quan điểm của tổ chức này. Ở cấp cơ sở, NGO là các tổ chức nhân dân
bao gồm các thành viên cùng giai tầng, cùng một đơn vị lãnh thổ, hoặc đơn vị nghề
nghiệp hoạt động vì lợi ích của mỗi thành viên. NGO quy tụ những người tự nguyện
hoạt động vì lợi ích của người khác, khơng phải vì bản thân [97].
Trên thế giới, NGO được diễn đạt dưới nhiều cách gọi khác nhau như “tổ
chức dân sự”, “tổ chức dân gian”, “tổ chức nhân dân”, “tổ chức xã hội”, “tổ chức
tình nguyện phi lợi nhuận”, “tổ chức thiện nguyện”, “quỹ tài trợ”. Việt Nam chưa
có khái niệm một cách chính thống về "tổ chức phi chính phủ". Thuật ngữ này mới
được du nhập vào Việt Nam, lần đầu tiên được dùng trong Luật Tổ chức Chính phủ
1992, sau đó Luật Hợp tác xã 1996 và một số văn bản pháp quy gần đây. Tại các
hội thảo khoa học tổ chức tại Việt Nam từ giữa những năm 2000, nhiều nhà khoa
học, nhà quản lý tạm thống nhất tiếp cận NGO là tổ chức được hình thành mang
tính độc lập tương đối với chính phủ, hoạt động phi lợi nhuận trong khuôn khổ pháp
luật, dưới sự quản lý của nhà nước. NGO nằm ngồi chính phủ, khơng đại diện cho
chính phủ, khơng do chính phủ lập ra mà do nhân dân hoặc các tổ chức xã hội thành


11


lập, được thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trên hầu hết các lĩnh vực. Các NGO
được xây dựng và hoạt động với tinh thần tự nguyện, tự chủ và phi lợi nhuận [9].
Tổng hợp từ các cách tiếp cận đối với chủ thể NGO nói trên, theo nghiên cứu
này, “tổ chức phi chính phủ” có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tập hợp các tổ
chức đoàn thể, nhân dân như: hội, hiệp hội, câu lạc bộ, các nhóm lợi ích và hỗ trợ,
các tổ chức bảo trợ xã hội, các tổ chức từ thiện, các quỹ, các trung tâm... Một NGO
là một tổ chức không thuộc về bất cứ chính phủ nào, khơng do chính phủ thành lập
và điều hành. Các NGO có đặc trưng chung là phi lợi nhuận, tự chủ và tự nguyện,
hoạt động vì mục đích khơng phải cho lợi ích tự thân của mình mà thường vì lợi ích
cộng đồng hoặc nhóm cộng đồng riêng trong xã hội. Các NGO ra đời với nhiều mục
đích khác nhau, thơng thường nhằm đẩy mạnh các mục tiêu chính trị và/hay xã hội
như bảo vệ mơi trường thiên nhiên, khuyến khích việc tơn trọng các quyền con
người, cải thiện mức phúc lợi cho những người bị thiệt thịi, hoặc đại diện cho một
nghị trình của đồn thể. Như vậy mục tiêu của NGO bao trùm và đan xen nhiều
khía cạnh chính trị, xã hội, triết lý và nhân văn.
Mặc dù khơng có con số thống kê chính xác nhưng, ước tính tổng số các
NGO đăng ký phải lên tới hàng triệu, riêng ở Mỹ có 1,2 triệu tổ chức, Anh có
400.000 tổ chức, Pháp có 700.000 tổ chức, Nhật có 178.000 tổ chức, Trung Quốc có
400.000 tổ chức... [15], các NGO đăng ký hoạt động quốc tế chính thức đã vượt
100.000 tổ chức [19]. Trong các NGO hoạt động quốc tế, hiện có trên 3.500 tổ chức
được cấp Quy chế phi chính phủ của ECOSOC [98]. Các tổ chức này đều là những
tổ chức lớn và có ảnh hưởng rộng như Chữ thập Đỏ Quốc tế, Ốc-pham, Ke, Tầm
nhìn Thế giới… Sự nhìn nhận và quan tâm đến các NGO hoạt động quốc tế còn thể
hiện ở việc hầu hết các nước phát triển đều có cơ quan của chính phủ hoặc bên cạnh
chính phủ chuyên trách các việc liên quan đến khu vực phi chính phủ, với mục đích
hỗ trợ và điều chỉnh tác động của khu vực này. Có thể liệt kê những cơ quan tiêu
biểu như Cơ quan Phát triển Nước ngoài (Mỹ), Cơ quan Viện trợ Nước ngoài (Úc),
Cơ quan Viện trợ Phát triển Quốc tế (Đan Mạch), Bộ Hợp tác Phát triển (Đức),…



12

1.1.2. Đặc trưng của tổ chức phi chính phủ
Các NGO cùng chia sẻ hệ thống giá trị cốt lõi, thường bao gồm giá trị phi lợi
nhuận, vì người thiệt thịi, minh bạch và dân chủ. Đây là các đặc điểm tự thân
nhưng cũng là yêu cầu sống còn với các NGO để đảm bảo sự phát triển và tồn tại
khu vực phi chính phủ. Một giá trị khác của NGO là hợp tác, theo đó các NGO
khơng nhìn nhận nhau như các đối thủ cạnh tranh mà như các đối tác, liên minh.
Phần lớn các NGO cịn nhỏ bé, có cùng hệ giá trị, mục tiêu nên nhu cầu hợp tác rất
cao để cùng phát triển. Hợp tác giúp NGO duy trì sự đa dạng sắc thái tổ chức và
giúp tận dụng các kỹ năng của nhau để tối ưu các nguồn vốn xã hội.
Tính đặc thù của NGO dễ phân biệt với các loại hình tổ chức khác (như
doanh nghiệp, tổ chức công...) ở các mặt về thể chế và hoạt động.
Đặc trưng về thể chế
Mặc dù NGO mang tính độc lập về mặt thể chế và tổ chức đối với chính phủ,
nhưng ở nhiều nước, các chính phủ đã luật hóa việc thành lập cũng như quản lý
NGO. Việc đăng ký quy chế phi chính phủ đồng nghĩa với việc gắn cho các tổ chức
này trách nhiệm với cộng đồng xã hội.
Để khuyến khích đặc trưng này, đa số các nước phát triển cấp “quy chế phi
chính phủ” - ưu đãi về thuế hoặc miễn thuế thu nhập cho các NGO và hoạt động phi
chính phủ. Đồng thời, các nước cịn khuyến khích tài trợ cho các NGO thông qua cơ
chế ưu đãi thuế thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp cho các khoản tài trợ
cho NGO và hoạt động phi chính phủ. Cịn nhiều nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, ưu đãi hoặc miễn thuế cho các khoản viện trợ của các NGO quốc tế.
NGO cung cấp viện trợ nhưng bản thân các tổ chức này cũng phải vận động
để có ngân sách cho chính hoạt động viện trợ đó. Các nhà tài trơ cho NGO thường
là các chính phủ, khu vực tư nhân, các tổ chức quốc tế, các tổ chức tôn giáo… Để
huy động các nguồn quỹ cho hoạt động, các NGO gần đây tập trung nhiều vào tranh
thủ sự ủng hộ của kênh chính phủ. Một số nước trong OECD đã duy trì và tăng



13

phần ODA cho NGO để thực hiện các chương trình ở nước ngồi. Mục đích của
việc làm này là để giúp các NGO tập hợp các dự án đơn lẻ với giá trị viện trợ thấp
thành các các chương trình lớn, dài hạn, nhất qn, tăng tính chun mơn hóa, mở
rộng quy mô hợp tác 3 bên giữa khu vực phi chính phủ - tư nhân - chính phủ.
Đặc trưng về hoạt động
Đặc điểm nổi bật về hoạt động của NGO là khả năng nhanh nhạy nắm bắt cái
mới, năng động, dễ thích ứng, nhiều sáng kiến, khơng quan liêu, không cạnh tranh
với khu vực tư nhân và nhà nước, dễ dàng phối hợp hoạt động dựa trên yêu cầu của
đối tượng, dễ đi vào thực tế vì dựa vào sự nhiệt tình của cộng đồng đặc biệt với sự
hỗ trợ của Internet và công nghệ thông tin.
NGO sử dụng cách tiếp cận “tham gia” để thúc đẩy trách nhiệm và sự tham
gia của cộng đồng, tăng nhận thức và huy động các nguồn lực địa phương trong quá
trình hoạt động của mình. NGO được đánh giá cao bởi năng lực tiếp cận và phối
hợp chặt chẽ với cơ sở, nơi các chương trình/dự án chính phủ khơng tiếp cận được,
tiếp cận một cách hạn chế hoặc không hiệu quả.
Các thành viên của NGO, bao gồm nhiều tình nguyện viên, được đặc trưng
bởi sự tâm huyết với các mục tiêu phát triển, nhân đạo, nhân văn. Quan điểm “phát
triển đặt trọng tâm vào con người” của NGO thúc đẩy thái độ tự lực, tự chủ - vốn
được coi là góp phần thúc đẩy tiến trình giao quyền cho người dân và dân chủ hóa.
Nhu cầu ở nước ngồi là động cơ lớn nhất để quốc tế hoá các NGO. Theo
một kết quả điều tra của Ri-chát Tay-lo năm 2002, 94% NGO đáp ứng lại yêu cầu
được trợ giúp xuất phát từ nhu cầu bên ngoài [89]. Tuy nhiên các NGO đều xem xét
kỹ các nhu cầu, đảm bảo các điều kiện nhất định trước khi triển khai dự án ở nước
ngồi. Các mục tiêu xóa đói nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội là động lực chính
tác động đến khu vực phi chính phủ trong triển khai các dự án của mình. Phần lớn
các dự án/chương trình phi chính phủ tập trung vào đáp ứng các mục tiêu này. Tuy



14

nhiên, khu vực phi chính phủ chỉ có thể phát huy tác dụng đối với các quốc gia có
chính sách mở, quan tâm tới khu vực phi chính phủ và xã hội dân sự.
1.1.3. Phân loại các tổ chức phi chính phủ
NGO rất đa dạng về quy mơ, hình thức và lĩnh vực hoạt động, có thể được
phân loại trên các tiêu chí như sau:
Phân loại theo tính chất hoạt động
Với hoạt động gắn với đời sống cộng đồng xã hội nên tính chất hoạt động
của NGO rất đa dạng và phong phú, đáp ứng được các nhu cầu và địi hỏi đa dạng
và ln thay đổi của xã hội, có thể kể đến:
NGO tác nghiệp: Nhóm NGO này được thành lập ra nhằm thực hiện các sứ
mạng được coi là tốt đẹp cho xã hội như trợ giúp các nhóm chịu thiệt thịi, hỗ trợ
triển khai các dự án xóa đói nghèo, phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giáo dục, y
tế, bảo vệ môi trường, xây dựng năng lực cơ sở... thông qua trực tiếp tác nghiệp các
dự án cụ thể trên các lĩnh vực đó. Loại NGO này chiếm đa số trong cộng đồng
NGO, tổ chức hoạt động trong phạm vi quốc gia, song do khả năng về nguồn nhân
lực nó cũng có thể mở rộng phạm vi hoạt động ra quốc tế.
NGO tơn giáo: Nhóm NGO này được sáng lập mang tính chất và tên gọi tôn
giáo, hội giáo để thực hiện tâm nguyện của giáo hội, trợ giúp con người làm điều
thiện, song trước hết là trợ giúp những tín đồ. Đi đơi với việc trợ giúp, các NGO
này thường gắn liền với mục đích phát triển tín đồ hoặc truyền bá các tư tưởng, ảnh
hưởng tơn giáo của mình trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên trong thời
gian gần đây, các NGO tôn giáo đã giảm bớt, hoặc ẩn các mục đích tơn giáo vào các
mục đích phát triển, nhân đạo.
NGO vận động: Nhóm NGO này bảo vệ và vận động cho các sứ mạng mang
tính chất cao quý hoặc phục vụ cho cộng đồng, lồi người nói chung; ví dụ như vận
động bảo vệ mơi trường, đa dạng văn hóa, bảo tồn di sản văn hóa, bảo vệ thế giới tự
nhiên... Các tổ chức vận động, giáo dục thay đổi nhận thức của nhóm đối tượng



15

tiềm năng, có thể là chính phủ hoặc cơng luận, thơng qua đó đạt được sự chấp nhận
và thay đổi hành vi hoặc chính sách phù hợp. Ví dụ tiêu biểu là Tổ chức Hịa bình
Xanh, Quỹ Bảo vệ Động vật Hoang dã… Các tổ chức này sử dụng nhiều kênh
truyền thông, vận động hành lang và các hoạt động sự kiện, phong trào.
Quỹ tài trợ: Nhóm NGO này có 2 loại: một loại chuyên quyên góp tiền để
cứu trợ cho những đối tượng thiệt thịi nhất định, ví dụ như Quỹ trẻ em, Quỹ người
cao tuổi, Quỹ tấm lòng vàng…; loại kia ngược lại, mang tiền của mình đi tài trợ cho
các tổ chức khác, đáp ứng sứ mạng, mục đích thành lập của các quỹ, ví dụ như Quỹ
Pho, Quỹ Rốc-cơ Phe-lơ, Quỹ châu Á... Đại bộ phận các quỹ này thường do cá nhân
hoặc nhóm người cùng gia đình hoặc một chí hướng lập ra nhằm một mục đích có ý
nghĩa xã hội. Tiền tài trợ cho quỹ do chính cá nhân, hoặc nhóm cá nhân sáng lập
hiến tặng. Cho dù với lý do hay động cơ gì thì những khoản hiến tặng, về mặt danh
nghĩa, là phục vụ cho sự nghiệp cơng ích hoặc phụ vụ cho xã hội.
Phân loại theo cơ cấu tổ chức, loại hình hoạt động
Do tính chất đa dạng, linh hoạt trong hoạt động, các NGO có cơ cấu tổ chức
hoạt động cũng đa dạng và phong phú, có thể kể đến:
Tổ chức tình nguyện: ví dụ như các tổ chức như Tình nguyện châu Á, Dịch
vụ Tình nguyện Nước ngồi, Trung tâm Tình nguyện Quốc tế Nhật Bản... Các tổ
chức này tập hợp những người tình nguyện cam kết cùng thực hiện giá trị chung,
cùng theo đuổi một nhiệm vụ xã hội, hoạt động khơng địi hỏi thù lao. Tổ chức tình
nguyện đặc trưng bởi quy mơ nhỏ, tính năng động sáng tạo và sức mạnh đồng
thuận, tập hợp, lôi cuốn, lấy đó làm cơ sở để vận động nguồn lực. Các tổ chức này
thường hoạt động trên lĩnh vực từ thiện, nhân đạo, cứu trợ khẩn cấp.
Tổ chức thực hiện dịch vụ cơng: ví dụ như các phịng thương mại và công
nghiệp, các hợp tác xã... Các tổ chức này có chức năng như một tổ chức kinh doanh,
dịch vụ phi lợi nhuận, hoạt động theo cơ chế thị trường, thực hiện các hợp đồng với

chính phủ, các tổ chức khác hoặc cộng đồng. Các tổ chức này đặc trưng bởi sức


16

mạnh chun mơn, năng lực hồn thành cơng việc, tính cố kết cao, thường trên các
lĩnh vực kinh tế-xã hội.
Tổ chức quần chúng: ví dụ như các hội hữu nghị, nhóm tự trợ giúp... Các tổ
chức này do quần chúng ở cấp cơ sở tự nguyện thành lập ra để đại diện cho lợi ích
của mình hoặc cùng nhau tự giải quyết một vấn đề nào đó của cơ sở đó. Các tổ chức
này hoạt động tự hạch tốn, tự trang trải cho các hoạt động bằng nguồn đóng góp
của các thành viên và tài trợ từ bên ngoài, mang tính tự chủ, tự trợ giúp cao. Các tổ
chức quần chúng thường hoạt động trong lĩnh vực phát triển cộng đồng bền vững.
NGO của chính phủ: ví dụ như các đoàn thể, liên hiệp hữu nghị, liên minh
cứu trợ, hiệp hội khoa học, văn hóa, xã hội... Các tổ chức này do chính phủ lập ra
như cơng cụ để phục vụ các nhiệm vụ của khu vực công, nhưng các tổ chức này vẫn
có tính độc lập nhất định đối với chính phủ. NGO của chính phủ đặc trưng bởi sức
mạnh tác nghiệp do tính pháp lý của nó, thường có khả năng huy động và phân bố
các nguồn lực lớn hơn các loại NGO khác, nhưng hoạt động thường kém hiệu quả
hơn trong việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ.
Ngoài ra, các viện nghiên cứu độc lập, trường đại học tư xét trên một khía
cạnh nào đó cũng là các NGO. Ở nhiều nước các hình thái tổ chức này đăng ký hoạt
động và hưởng các quy chế về thuế, tài chính, ưu đãi chính sách như các NGO.
Phân loại theo phạm vi, địa bàn hoạt động
Do tính chất, nội dung và quy mơ hoạt động rộng, các NGO được tổ chức và
hoạt động rộng khắp trên các địa bàn trong nước và quốc tế.
NGO địa phương (trong nước): là tổ chức mà các thành viên đều mang một
quốc tịch. Các tổ chức này xuất hiện trên thế giới rất sớm; ví dụ như các quỹ xóa
đói nghèo, khuyến học địa phương... Các tổ chức này được thành lập và hoạt động
trong một quốc gia, chiếm số lượng lớn nhất trong số các NGO trên thế giới. Các tổ

chức này phát triển nhiều ở các nước đang phát triển, một phần do nhu cầu của các


17

nước này cần giải quyết các vấn đề xã hội, một phần do sự thúc đẩy, hỗ trợ của các
NGO quốc tế.
NGO quốc tế: Các tổ chức này được thành lập ở một quốc gia nhưng hoạt
động ngoài biên giới của quốc gia đó ví dụ như các tổ chức Hành động Viện trợ
(Anh), Bánh mỳ Thế giới (Đức), Tầm nhìn Thế giới (Mỹ)... Các tổ chức này thường
ở các nước phát triển, hoạt động viện trợ hoặc làm dự án ở các nước đang phát triển
ví dụ như các tổ chức dịch vụ tình nguyện nước ngồi. Ngân sách hoạt động của các
tổ chức này thường lấy từ nguồn ODA của các quốc gia phát triển cho các quốc gia
đang phát triển mà các tổ chức này có dự án.
Nhiều tổ chức đã mang tính đa quốc gia như Ke, Ốc-pham, Hịa bình Xanh,
Ngơi nhà Tự do, Quan sát Nhân quyền… Đặc thù của NGO quốc tế là có mạng lưới
rất nhiều thành viên ở nhiều quốc gia khác nhau, mang tính liên quốc gia, thường ở
các nước phát triển. Các thành viên hoạt động độc lập về tài chính và quản lý nhưng
chia sẻ triết lý và chính sách chung của tổ chức này (thường gọi là tổ chức mẹ hoặc
tổ chức bao trùm). NGO quốc tế thường có ảnh hưởng, tác động tới chính sách với
các thiết chế quốc tế hoặc tác động tư vấn chính sách cho các chính phủ.
1.1.4. Xu thế phát triển của khu vực phi chính phủ
Từ khi ra đời cho đến nay, cộng đồng NGO đã đạt được những bước phát
triển đáng kể về triết lý, tổ chức và nội dung hoạt động. Từ việc tự phát tham gia
cứu trợ khẩn cấp, thiên tai, chiến tranh mang tính manh mún, nhỏ lẻ trong giai đoạn
hình thành ở thế kỷ XVII-XVIII, các NGO đã dần dần nhận thức được vai trò trong
việc tập hợp và huy động các nguồn lực trong xã hội và nhân lên tác dụng của các
khoản hỗ trợ thông qua các dự án tự trợ giúp mang tính dài hạn hơn bắt đầu từ thế
kỷ XIX. Từ thế kỷ XX, các NGO đơn lẻ đã bắt đầu liên kết thành mạng lưới chia sẻ
các đặc trưng, giá trị, nguồn lực chung, và nhờ đó đã gia tăng ảnh hưởng, được nhìn

nhận với vị thế cao hơn – nâng tầm thành cộng đồng, khu vực phi chính phủ, được
UN và thế giới công nhận.


×