Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Dạy học tác phẩm chuyện chức phán sự đền tản viên của nguyễn dữ theo đặc trưng thể loại cho học sinh miền núi phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 80 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN HỒNG HẠNH

DẠY - HỌC
TÁC PHẨM “CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN”
CỦA NGUYỄN DỮ THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
CHO HỌC SINH MIỀN NÚI PHÍA BẮC

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN - TIẾNG VIỆT
MÃ SỐ: 60. 14. 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. HỒNG HỮU BỘI

THÁI NGUN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trì nh nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS . Hoàng Hữu Bội . Nội dung đề tài nghiên cứu của


luận văn chưa được công bố trong công trì nh nào khác.
Người hướng dẫn khoa học

Tác giả ḷn văn

TS. Hoàng Hữu Bợi

Ngũn Hờng Hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

1. Lý do chọn đề tài...................................................................................

5

2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................

6

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................


13

4. Mục đích nghiên cứu.............................................................................

13

5. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................

13

6. Phương pháp nghiên cứu......................................................................

13

7. Cấu trúc luận văn..................................................................................

14

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: THỂ LOẠI TRUYỆN TRUYỀN KỲ VÀ TÁC PHẨM
“CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN” CỦA NGUYỄN DỮ.............

1.1 Truyện truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam - đặc điểm về
thể loại.......................................................................................................
1.2 Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ....
Chƣơng 2: ĐƢA HỌC SINH MIỀN NÚI PHÍA BẮC ĐẾN VỚI TÁC PHẨM
“CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN”...........................................

2.1 Khảo sát những vướng mắc của học sinh miền núi phía Bắc khi đến

với “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”...............................................
2.2 Một số biện pháp giúp học sinh miền núi phía Bắc vượt qua trở
ngại để đến với “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”............................
2.2.1 Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh tự học kiến thức về thể loại
truyện truyền kỳ........................................................................................
2.2.2 Biện pháp 2: Giải toả những vướng mắc về ngơn ngữ và vốn
văn hố cho học sinh miền núi phía Bắc...................................................
2.2.3 Biện pháp 3: Kích thích trí tưởng tượng của học sinh miền núi
phía Bắc khi thâm nhập vào hình tượng nhân vật.....................................
2.2.4 Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh miền núi phía Bắc khám phá
hàm nghĩa của tác phẩm............................................................................
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14

15
28
38

39

46

46

47

49

52





4

2.2.5 Biện pháp 5: Tổ chức hoạt đợng ngoại khố về truyện truyền

55

kỳ...............................................................................................................
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM VỀ DẠY - HỌC TÁC PHẨM

58

“CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN”..........................................

3.1 Thiết kế của luận văn về bài học “Chuyện chức phán sự đền Tản

58

Viên”..........................................................................................................
3.1.1 Nội dung thiết kế bài học..............................................................

58

3.1.2 Giải thích thiết kế.........................................................................

68


3.2 Dạy thực nghiệm bài học “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”.......

70

3.2.1 Mục đích thực nghiệm..................................................................

70

3.2.2 Đối tượng thực nghiệm.................................................................

70

3.2.3 Địa bàn thực nghiệm....................................................................

70

3.2 4 Thời gian thực nghiệm.................................................................

70

3.2.5 Kết quả thực nghiệm....................................................................

71

PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................


78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Đề tài đƣợc lựa chọn từ yêu cầu hoàn thiện dần lý thuyết về vấn
đề dạy - học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng loại thể
Lý thuyết về dạy - học tác phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể đã
được các nhà nghiên cứu bàn nhiều, tiêu biểu là cuốn Vấn đề giảng dạy tác
phẩm văn học theo loại thể của tập thể tác giả Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý,
Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia Cẩn (Nhà xuất bản Giáo dục, 1976).
Các tác giả đã giới thiệu một số kiến thức cơ bản nhất về các loại thể văn học và
phương pháp vận dụng đặc trưng các loại thể vào giảng dạy các tác phẩm văn
chương. Song các tác giả chưa đề cập đến phương pháp giảng dạy truyện truyền
kỳ. Cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) của
Nguyễn Viết Chữ (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2004) đã đề cập đến phương
pháp và biện pháp dạy học các tác phẩm tự sự trong đó có dạy học truyện truyền
kỳ (tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương và Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên) nhưng mới ở bước gợi ý mang tính định hướng lý thuyết.
1.2 Đề tài đƣợc lựa chọn từ thực tiễn dạy - học truyện truyền kỳ cho
chủ thể cảm thụ có những đặc thù riêng - học sinh miền núi
Lý thuyết về dạy - học tác phẩm văn chương cho chủ thể cảm thụ có đặc
thù riêng - học sinh miền núi đã được nghiên cứu trong những năm qua. Tiêu
biểu là cơng trình nghiên cứu của tác giả Hồng Hữu Bợi về Dạy và học tác

phẩm văn học ở trường phổ thông trung học miền núi (Nhà xuất bản Giáo dục,
1997), cuốn Một số vấn đề về phương pháp dạy - học văn trong nhà trường của
Nguyễn Huy Qt - Hồng Hữu Bợi (Nhà xuất bản Giáo dục, 2001) đề cập tới
những vấn đề: “Dạy và học văn ở miền núi; Sự thật thà với việc học văn
chương”; “Về dạy và học văn ở trường phổ thông miền núi, Con đường khắc
phục “chủ nghĩa hiện thực ngây thơ” trong cảm thụ văn chương của học sinh
miền núi”; “Việc giải tỏa “hàng rào ngôn ngữ” cho học sinh dân tộc thiểu số khi
tiếp nhận tác phẩm văn chương”,...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

Tuy nhiên, dạy - học truyện truyền kỳ cho chủ thể cảm thụ có đặc thù
riêng - học sinh miền núi cũng chưa có nhà nghiên cứu nào quan tâm giải quyết.
1.3. Đề tài đƣợc lựa chọn từ thực tiễn dạy - học truyện truyền kỳ của
chƣơng trình và sách giáo khoa mới ban hành
Thực tiễn dạy - học Ngữ Văn trong nhà trường theo sách giáo khoa mới có
những yêu cầu riêng như dạy - học theo hướng tích hợp, dạy - học theo hướng
tích cực. Văn bản truyện truyền kỳ Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của
Nguyễn Dữ lại là văn bản vừa được đưa vào chương trình và Sách giáo khoa Ngữ
Văn ở trường trung học phổ thơng. Khi dạy tác phẩm này, thầy và trị ở miền núi
gặp mợt số trở ngại, vướng mắc. Vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài này với hi vọng
đóng góp mợt phần nhỏ bé để tháo gỡ những vướng mắc, trở ngại đó.
2. Lịch sử vấn đề
Trong số những tài liệu chúng tơi có được, vấn đề dạy học Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên đã được đặt ra và giải quyết ở những cơng trình sau:
- Cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) của

Nguyễn Viết Chữ, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2004 đã đề ra phương pháp
và biện pháp dạy học các tác phẩm tự sự, trong đó có văn xuôi cổ trung đại và
phương pháp riêng khi tiến hành giảng dạy. Đối với tác phẩm Người con gái
Nam Xương hay Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong 20 truyện ở
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, tác giả lưu ý: “(…) hầu hết các truyện đều
có lời bình. Đằng sau mỗi truyện ta vẫn thấy ẩn hiện mợt nhân vật trữ tình, mợt
kẻ sĩ cứng cỏi, lấy truyện xưa mà nói nay, lấy cái kỳ, cái ảo mà nói cái thực. Các
tác phẩm của Nguyễn Dữ là sự lưu hợp tinh hoa giữa truyện cổ dân gian và tư
duy bác học, có sự xen lẫn giữa: thơ, từ và văn biền ngẫu. Khi giảng dạy các tác
phẩm này dứt khốt phải hình thành tích truyện, đọc kĩ ở lớp những đoạn có tính
chất thẩm mĩ nghệ thuật cao. Có thể cho học sinh từ hiểu truyện đến hiểu lời
bình rồi phát biểu sự cảm nhận cá nhân. Thi kể sáng tạo (diễn cảm), tóm tắt
truyện nhanh nhất, có thể diễn thành văn vần. Trong q trình phân tích, sử dụng
ít nhiều loại câu hỏi phân tích, hình dung tưởng tượng, chi tiết nghệ tḥt. Nên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7

sử dụng con đường theo đề tài chủ đề (vì truyện vừa có chất dã sử, có chất
truyền kỳ đơi khi cũng nhuốm màu cổ tích)” [tr.120-121].
- Các cuốn sách tham khảo dạy học Ngữ Văn 10 chia làm hai loại: loại
sách gợi ý về phương pháp dạy học và loại sách phân tích, bình giảng các tác
phẩm có trong Ngữ Văn 10.
+ Loại sách gợi ý về phương pháp dạy học, chúng tôi quan tâm đến sách
giáo viên và sách thiết kế:
Sách giáo viên Ngữ Văn 10, Phan Trọng Luận (chủ biên), Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, 2006 gợi ý về phương pháp dạy - học: Phân công học sinh

đọc theo bốn đoạn (“Ngô Tử Văn… không cần gì cả”; “Đốt đền xong… khó
lịng thốt nạn”; “Tử Văn vâng lời… không bệnh mà mất”; “Năm Giáp Ngọ…
quan phán sự”); giúp học sinh trả lời các câu hỏi trong phần “Hướng dẫn học
bài”; từ nội dung câu trả lời, giáo viên đúc kết lại trọng tâm của bài như sau: 1.
Sự kiên định chính nghĩa của Ngơ Tử Văn (phẩm chất và sự thắng lợi của cuộc
đấu tranh của Ngô Tử Văn). 2. Ngụ ý phê phán (hướng đến hai đối tượng: hồn
ma tên tướng giặc xâm lược, thánh thần quan lại ở cõi âm). 3. Nghệ thuật kể
chuyện đặc sắc.
Về nội dung bài học, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu phẩm chất
dũng cảm, kiên cường của nhân vật chính Ngơ Tử Văn - đại biểu cho chính
nghĩa chống lại những thế lực gian tà, qua đó củng cố lịng u chính nghĩa và
niềm tự hào về người trí thức nước Việt; thấy được nghệ thuật kể chuyện sinh
đợng, hấp dẫn, giàu kịch tính với cách dẫn dắt truyện khéo léo và những tình tiết
lơi cuốn.
Cuốn Thiết kế bài học Ngữ Văn 10, Phan Trọng Luận (chủ biên), Nhà
xuất bản Giáo dục, 2006 hướng trọng tâm bài học vào tính cách của Ngơ Tử
Văn và tên tướng giặc họ Thôi, nghệ thuật của thể loại truyền kỳ. Đồng thời
cuốn sách cũng chú ý những điểm khó: những yếu tố hoang đường trong tác
phẩm có thể khiến học sinh hiểu truyền kỳ như là truyện cổ tích hoặc không
nhận ra ý nghĩa phản ánh hiện thực ẩn sau lớp vỏ chi tiết chi tiết li kì, các điển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8

tích, điển cố, từ khó, từ cổ. Về phương pháp, các tác giả gợi ý cần chú ý tích hợp
với kiến thức về tác giả Nguyễn Dữ và thể loại truyện truyền kỳ đã được học ở
chương trình Trung học cơ sở, đọc - tiếp xúc với văn bản tác phẩm, tìm hiểu nhân

vật Tử Văn và nghệ thuật của tác phẩm, khái quát tư tưởng tác phẩm, đưa học sinh
đến với phần “Ghi nhớ” ở Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (cơ bản) và củng cố luyện
tập. Về nội dung, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Chuyện chức phán sự
đền Tản Viên đề cao tinh thần khảng khái cương trực, dám đấu tranh chống lại cái
ác trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn - một người trí thức nước Việt, đồng thời thể
hiện niềm tin cơng lý, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà. Người học cũng
khẳng định được nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn của tác phẩm, nhân vật được xây
dựng sắc nét, tình tiết và diễn biến truyện giàu kịch tính.
Cuốn Thiết kế bài học Ngữ Văn 10 của tác giả Hồng Hữu Bợi, Nhà xuất
bản Giáo dục, 2006 định hướng về phương pháp dạy học: tiếp xúc bước đầu với
tác phẩm (đọc văn bản và giải thích từ ngữ, giới thiệu tác giả và tác phẩm, tóm tắt
cốt truyện), thâm nhập vào hình tượng nhân vật Ngơ Tử Văn (đốt đền, giữa phiên
toà xử kiện của Diêm Vương, nhận chức phán sự đền Tản Viên), tìm hiểu nghệ
thuật kể chuyện của tác giả và cuối cùng nhấn mạnh đến việc khắc sâu ấn tượng
về tác phẩm với những chi tiết đến ngày nay vẫn cịn mang tính thời sự. Từ đó
thấy được nợi dung của truyện là ca ngợi vẻ đẹp của hình tượng Ngơ Tử Văn:
khảng khái, chính trực, dũng cảm, muốn vì dân trừ hại. Đồng thời thể hiện tinh
thần dân tợc mạnh mẽ vì đã diệt trừ hồn tên tướng giặc xâm lược, bảo vệ Thổ
công nước Việt. Người đọc cảm nhận được cái tài của Nguyễn Dữ là kết hợp hai
yếu tố hiện thực và hoang đường, kì ảo vào mợt cốt truyện giàu kịch tính: có mở
đầu, thắt nút, đỉnh điểm, mở nút,... Tác giả tài tình trong việc dẫn dắt truyện, cách
kể và cách tả giản dị mà sinh đợng, thể hiện kín đáo tình cảm và thái đợ của mình.
Cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 10, cơ bản, tập 2, Nguyễn Văn Đường
(chủ biên), Nhà xuất bản Hà Nội, 2007 định hướng: đọc - kể tóm tắt, giải thích
mợt số từ khó (nhan đề chữ Hán) theo chú thích trong sách giáo khoa; phân tích
nhân vật Ngơ Soạn (Tử Văn) - người đốt đền tà, những ngụ ý phê phán, nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





9

thuật kể chuyện và vai trò của yếu tố kỳ ảo; hướng dẫn tổng kết và luyện tập. Nội
dung của Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là đề cao tinh thần khảng khái,
cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn - mợt
trí thức nước Việt, đồng thời thể hiện niềm tin cơng lý, chính nghĩa nhất định sẽ
chiến thắng gian tà. Với nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, nhân vật chính được xây
dựng sắc nét, tình tiết và diễn biến giàu kịch tính, truyện đã để lại ấn tượng mạnh
mẽ trong lòng người đọc.
Cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 10, tập 2 do Trần Đình Chung chủ biên,
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2007 gợi ý dạy - học theo hướng tích hợp và
tích cực. Tác giả có ý thức gắn kết hoạt động đọc - hiểu văn bản Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên với đặc điểm thể loại truyện truyền kỳ trong văn học thời
trung đại; với các yếu tố đặc trưng văn tự sự, với quan niệm về thần linh ma quỷ
trong dân gian, với đặc điểm truyện truyền kỳ của Nguyễn Dữ, với Chuyện
người con gái Nam Xương (đã học ở Trung học cơ sở). Đồng thời tác giả cũng
tích cực hố hoạt đợng dạy học bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên theo
hướng đan xen kể chuyện với phân tích bằng câu hỏi đàm thoại tương ứng với
thể loại tự sự truyền kỳ, kết hợp cá nhân tự bộc lộ và học nhóm với lời giảng
bình. Cụ thể là bắt đầu từ việc đọc - tái hiện văn bản đến việc phân tích văn bản
theo hướng phân tích nhân vật Tử Văn (đốt đền, đương đầu với ma quỷ, làm
chức phán sự đền Tản Viên), đánh giá ý nghĩa văn bản và bài tập củng cố. Qua
câu chuyện kể về cuộc đấu tranh của nhân vật Tử Văn quyết liệt chống lại tà ma
vì sự thật, văn bản đã ca ngợi mợt con người dũng cảm, trọng cơng lý. Từ đó, tác
giả muốn bày tỏ quan niệm nhân sinh của mình: chính nghĩa thắng gian tà, tơn
kính thần linh tiên tổ. Truyện đã thể hiện đặc sắc trong cách nhận thức biểu đạt
của văn tự sự trung đại được lộ rõ qua hình thức kể chuyện truyền kỳ của văn
bản Chuyện chức phán sự đền Tản Viên: dùng cách kể chuyện tưởng tượng với
nhiều yếu tố hoang đường như thần linh, ma quỷ để phản ánh hiện thực và thể

hiện quan niệm nhân sinh tích cực của tác giả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10

Cuốn Để dạy và học tốt tác phẩm văn chương (phần trung đại) ở chương
trình phổ thơng, Nguyễn Thị Thanh Hương, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm,
2007 đã trình bày thiết kế của cô giáo Nguyễn Thị Thuý về Chuyện chức phán
sự đền Tản Viên: học sinh tiếp xúc với văn bản tác phẩm bằng mợt trong hai
hình thức (đọc phân vai, tóm tắt tình tiết chính); tìm hiểu nhân vật Ngô Tử Văn,
nhân vật hồn ma của viên Bách hộ họ Thôi, nghệ thuật của thể loại truyền kỳ
trong tác phẩm (kết hợp yếu tố thực và ảo, cách xây dựng tình huống truyện,
cách xây dựng nhân vật của nhà văn làm sáng tỏ nội dung tư tưởng và nghệ
tḥt).
+ Loại sách phân tích, bình giảng các tác phẩm có trong Ngữ Văn 10 gồm
có những tài liệu sau:
Cuốn Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh lớp 10, Nguyễn Trọng
Hoàn (chủ biên), Phạm Tuấn Anh, Lê Hồng Mai, Nguyễn Thị Nhàn, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2008 khẳng định sức hấp dẫn
riêng của truyện là sự xen lẫn các yếu tố hiện thực và yếu tố kỳ ảo. Nhân vật
chính Ngơ Tử Văn được giới thiệu theo cách kể quen thuộc của văn học trung đại,
bao gồm tên tuổi, quê quán và tính cách. Đối lập với sự ngay thẳng của Tử Văn là
sự gian trá, xảo quyệt của viên Bách hộ họ Thôi. Chủ đề nổi bật của truyện là “ca
ngợi sự chính trực ngay thẳng và tố cáo tội ác của những kẻ xâm lược. Ngô Tử
Văn - tấm gương tiêu biểu cho những người trí thức nước Việt khảng khái, cương
trực, dũng cảm chống lại cái ác để trừ hại cho dân. Sự chiến thắng của Tử Văn là

sự chiến thắng của lẽ phải, của công lý, thể hiện niềm tin của nhân dân lao động
vào lẽ phải (…) Bên cạnh đó, tác phẩm cịn chĩa mũi nhọn phê phán vào bọn xâm
lược và vạch trần mặt trái của xã hợi” [tr. 190].
Cuốn Phân tích tác phẩm Ngữ Văn 10, Trần Nho Thìn (chủ biên), Lê
Nguyên Cẩn, Phạm Thu Yến, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2009 xác định
chủ đề của truyện là “ca ngợi tinh thần dũng cảm của Ngô Tử Văn dám đấu
tranh chống lại bọn quan lại sách nhiễu nhân dân và sự bao che dung túng cho
bọn chúng. Khái quát hơn, có thể nói truyện ca ngợi tinh thần đấu tranh bảo vệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11

cái chính nghĩa, chống lại cái gian tà. Cũng có thể nghĩ đến một tuyến chủ đề
song song nữa là truyện lên án, phê phán thế lực xâm lược qua tên tướng giặc
Minh tuy đã chết vẫn tiếp tục quấy nhiễu, làm hại dân ta đồng thời ca ngợi người
trí thức Đại Việt dám đấu tranh chống lại kẻ thù (…) Nếu phân tích nợi dung lời
bình của tác giả ở cuối truyện, ta thấy chủ đề đấu tranh chống lại tà ma, yêu quái
(một cách ám chỉ những tên tham quan tham nhũng lại gây tai ương cho nhân
dân) là chủ đề nổi bật” [tr. 182]. Truyện hình thành hai tuyến đối lập rõ rệt: Ngô
Tử Văn - người trí thức dũng cảm chống lại cái ác, tên tướng giặc Bách hộ họ
Thôi - lực lượng phi nghĩa. Cuộc đấu tranh giữa một bên đại diện là Tử Văn với
một bên đại diện là tên Bách hộ họ Thôi thực chất là c̣c đấu tranh giữa những
người chính trực với bọn quan lại xấu xa câu kết với nhau làm hại dân lành. Hệ
thống nhân vật trong truyện mang tính tượng trưng đậm nét. Giải mã truyện
truyền kỳ là phải thấy và chỉ ra được tính chất tượng trưng này. Nghệ thuật kể
chuyện: kết hợp thành công bút pháp hiện thực và bút pháp kỳ ảo, kết cấu truyện
giàu kịch tính, với những tình tiết lơi cuốn, xây dựng tính cách nhân vật sinh

đợng, ngơn ngữ nhân vật cũng được chú ý ở mức độ nhất định để khắc hoạ tính
cách.
Cuốn Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 10, Nguyễn Khắc Phi (chủ
biên), Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2009 coi Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên là một trong những truyện tiêu biểu trong tập Truyền kỳ mạn lục. Truyện
khẳng định tính dân tợc, tinh thần u nước, ý chí chống nơ dịch, bất cơng, kiên
quyết đấu tranh cho chính nghĩa và lẽ phải. Câu chuyện diễn ra nơi cõi âm của
những oan hồn, tà ma nhưng lại phản ánh được cuộc sống dương thế ở cả khía
cạnh tâm lý tinh vi, phức tạp nên càng có sức khơi gợi, hấp dẫn bạn đọc. Đó cũng
chính là tinh thần nhân văn, ý nguyện khẳng định lẽ phải “thiện thắng ác, chính
nghĩa thắng gian tà” vốn phổ biến trong lối kết thúc có hậu của truyện cổ tích và
cũng phù hợp với tâm thế tiếp nhận của người đọc nói chung. Nợi dung của
truyện hướng đến mục đích giáo huấn, đề cao phẩm chất cứng cỏi, tiết tháo, đúng
như lời bình của tác giả ở cuối truyện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

Cuốn Bình giảng Văn 10 chọn lọc, Trần Đình Sử (chủ biên), Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm, 2010 ca ngợi hình tượng Ngơ Tử Văn là hình tượng đẹp đẽ
nhất của loại nho sĩ hành đạo. Tác giả Phạm Tuấn Vũ so sánh cách giới thiệu và
tính cách hai nhân vật Ngô Tử Văn (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trích
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ) và Phùng Đại Dị (Chức tư pháp ở điện Thái
Hư trích Tiễn đăng tân thoại (Câu chuyện mới dưới ánh đèn cắt bấc nhiều lần)
của nhà văn Trung Quốc Cù Hựu) có những điểm tương đồng và khác biệt.
Điểm tương đồng là cả hai nhân vật đều được giới thiệu lai lịch. Điểm khác biệt
là Ngô Tử Văn được giới thiệu cụ thể hơn (có huyện, tỉnh) cịn Phùng Đại Dị chỉ

được nói đến quốc tịch. Ngơ Tử Văn có tính cách cương trực, nóng nảy, dị ứng
với tà gian. Phùng Đại Dị là người cậy tài, kiêu ngạo, ngỗ ngược. Truyện được
xây dựng giàu kịch tính qua việc các nhân vật xung đợt với nhau gay gắt. Qua
đó, nhà văn muốn khẳng định ý chí đấu tranh chống tà gian của nhân dân ta
trong việc bảo vệ lẽ phải.
- Luận văn cao học Dạy - học truyện truyền kỳ Việt Nam ở lớp 10 trung
học phổ thơng (theo chương trình và sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 10 thí điểm)
của Đoàn Bách Thảo, 2004 đã đề cập và giải quyết tiền đề lý luận của việc dạy học truyện truyền kỳ ở trường THPT (Trung học phổ thông), một số giải pháp
để thực thi có hiệu quả việc dạy - học truyện truyền kỳ ở trường THPT theo
chương trình và sách giáo khoa mới và mơ hình thiết kế thể nghiệm giờ học
truyện truyền kỳ ở trường THPT, trong đó có thiết kế thể nghiệm Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên.
Như vậy, các tài liệu trên khá thống nhất trong việc nghiên cứu và đề xuất
phương pháp, biện pháp dạy - học Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Các tài
liệu đã đặt ra cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc dạy học một truyện truyền kỳ
theo đúng đặc trưng thể loại. Đề tài của chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng hợp
những vấn đề về truyện truyền kỳ, về dạy học tác phẩm văn chương theo đặc
trưng thể loại. Trên cơ sở đó, đề xuất mợt số biện pháp phù hợp với lý luận và
thực tế, đồng thời thiết kế Chuyện chức phán sự đền Tản Viên theo đặc trưng thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

loại và phù hợp với chủ thể tiếp nhận đặc thù là học sinh miền núi phía Bắc để
dạy thực nghiệm, nhằm rút ra kết luận khoa học cần thiết và hiệu quả sư phạm
cho thiết kế đó.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu: hoạt động dạy - học của giáo viên và học sinh
đối với thể loại truyện truyền kỳ trong nhà trường phổ thông.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: dạy - học truyện truyền kỳ Chuyện chức phán sự
đền Tản Viên của Nguyễn Dữ cho đối tượng học sinh miền núi.
4. Mục đích nghiên cứu
4.1 Phát hiện đặc trưng cảm thụ truyện truyền kỳ của học sinh miền núi.
4.2 Đề xuất phương án dạy - học phù hợp với đặc trưng thể loại cho chủ
thể cảm thụ có những đặc điểm riêng - học sinh miền núi nhằm nâng cao hiệu
quả dạy - học truyện truyền kỳ trong nhà trường phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu trên bình diện lý thuyết: dạy - học truyện truyền kỳ theo
đặc trưng thể loại.
5.2 Nghiên cứu thực tiễn: dạy - học truyện truyện kỳ cho đối tượng học
sinh miền núi.
5.3 Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng những đề xuất của luận văn.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1 Tổng hợp lý luận: lý luận về dạy - học truyện truyền kỳ, lý luận về
đặc điểm cảm thụ của học sinh miền núi với thể loại truyện truyền kỳ.
6.2 Khảo sát thực tiễn: phương pháp điều tra thực trạng dạy - học truyện
truyền kỳ ở trường THPT Chiềng Khương, Huyện Sông Mã, Tỉnh Sơn La để
đánh giá những thuận lợi, khó khăn và phương án khắc phục.
6.3 Thực nghiệm sư phạm: nhằm kiểm chứng những đề xuất của luận văn
để đánh giá hiệu quả thực thi. Gồm thiết kế Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
do luận văn đề xuất, dạy thực nghiệm, đưa ra kết quả dạy thực nghiệm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





14

7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Thể loại truyện truyền kỳ và tác phẩm Chuyện chức phán sự
đền Tản Viên của Nguyễn Dữ
Chương 2: Đưa học sinh miền núi phía Bắc đến với tác phẩm Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm về dạy - học truyện truyền kỳ Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




15

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
THỂ LOẠI TRUYỆN TRUYỀN KỲ VÀ TÁC PHẨM “CHUYỆN CHỨC
PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN” CỦA NGUYỄN DỮ
1.1 Truyện truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam - đặc điểm về thể
loại
1.1.1. Khái niệm về truyện truyền kỳ và các tác phẩm truyện truyền
kỳ trong văn học trung đại Việt Nam
1.1.1.1 Khái niệm truyện truyền kỳ
Từ điển văn học (tập II, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984)
nhận định về truyện truyền kỳ: “một hình thức văn xi tự sự cổ điển Trung
Quốc, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau được các nhà văn nâng lên thành

văn chương bác học, sử dụng những mơtíp kỳ quái, hoang đường, lồng trong
mợt cốt truyện có ý nghĩa trần thế, phần lớn là truyện tình, để gợi hứng thú cho
người đọc. Phần lớn các truyện truyền kỳ đều là truyện ngắn, có khi là từng
truyện riêng rẽ, có khi tập hợp nhiều truyện thành mợt tập, và chủ đề cũng
khơng nhất thiết gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự tham gia của các yếu tố thần kỳ
vào câu chuyện không phải là do những nhân vật có phép lạ như kiểu trời, bụt,
thần tiên,... trong truyện cổ tích thần kỳ, mà phần lớn ở ngay hình thức “phi
nhân tính” của nhân vật (ma quỷ, hồ ly, vật hóa người,...). Tuy nhiên trong
truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và chính những nhân vật mang
hình thức “phi nhân” thì cũng chỉ là sự cách điệu phóng đại của tâm lý, tính cách
của mợt loại người nào đấy, và vì thế truyện truyền kỳ vẫn mang đậm yếu tố
nhân bản, có giá trị nhân bản sâu sắc” [tr. 447].
Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (Trần Đình Sử, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2005): “Truyện truyền kỳ ở Trung Quốc xuất hiện ở đời
Đường, Tống, đánh dấu sự chín muồi của tự sự nghệ tḥt.
(...) Truyện truyền kỳ có ít nhân vật, sự kiện tập trung, mỗi truyện thường
xoay quanh mợt vài sự kiện chính. Truyện truyền kỳ chú trọng vào việc hơn là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

chú trọng vào người, lấy việc mà biểu hiện người, răn người (…) Nợi dung
truyện hồn tồn là việc và người ở Việt Nam. Nhân vật là những người bình
thường (...) Truyện truyền kỳ có cốt truyện hồn chỉnh như những tác phẩm
nghệ thuật, có thắt nút, phát triển và mở nút. Tính chất hư cấu, biểu tượng rất rõ
(...) Lời trần thuật của tác giả được phân làm hai: Lời trần thuật miêu tả câu
chuyện một cách khách quan và lời bình luận về mặt đạo đức hay nghệ thuật có

quan điểm xác định” [tr. 348].
Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - Những vấn đề văn xuôi tự sự
(Nguyễn Đăng Na, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003): “Với đặc điểm dùng hình thức
kỳ ảo làm phương thức chuyển tải nợi dung, truyện truyền kỳ có sức hấp dẫn mãnh
liệt mọi lứa tuổi, mọi thế hệ (…) Đó là thế giới vừa ảo vừa thực, có cả cái thấp hèn
và cái cao thượng, có cả ma và thánh, quỷ và tiên,... đồng thời có cả những sinh
hoạt thường ngày, ái ân, tình dục, ghen tng, đố kỵ, lọc lừa,...” [tr. 20].
Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 - tập hai (Nhà xuất bản Giáo dục, 2010) viết:
“Truyền kỳ là một thể văn xuôi tự sự thời trung đại phản ánh hiện thực qua
những yếu tố kỳ lạ, hoang đường. Trong truyện truyền kỳ, thế giới con người và
thế giới cõi âm với những thánh thần ma quỷ có sự tương giao. Đó chính là yếu
tố tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt của thể loại. Tuy nhiên, đằng sau những tình tiết
phi hiện thực, người đọc có thể tìm thấy những vấn đề cốt lõi của hiện thực cũng
như những quan niệm và thái độ của tác giả” [tr. 55].
Từ những nhận định trên, chúng tơi có được sự hiểu biết khái quát về
truyện truyền kỳ như sau:
- Về hình thức thể loại: truyền kỳ là thể loại truyện ngắn có nguồn gốc từ
Trung Quốc, thường có nguồn gốc từ truyện dân gian hoặc các mơtíp truyện dân
gian, sử dụng các yếu tố kỳ quái, hoang đường vào trong mợt cốt truyện có ý
nghĩa nhân thế. Truyện truyền kỳ có cốt truyện hồn chỉnh (thắt nút, phát triển,
mở nút). Nhân vật ít, bao giờ cũng có mợt nhân vật là người thật bình thường và
nhân vật ma, thánh. Lời kể gồm lời trần thuật và lời bình luận về mặt đạo đức
hay nghệ thuật có quan điểm nhất định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17


- Về nội dung: truyện truyền kỳ phản ánh hiện thực của Việt Nam, việc và
người hoàn toàn là việc và người Việt Nam. Đến với truyện truyền kỳ là đến với
thế giới truyền kỳ - đó là mợt thế giới vừa ảo vừa thực, thế giới của con người và
thế giới cõi âm. Truyện truyền kỳ thể hiện cách nhìn của nhân dân đối với đời
sống, với hiện thực đồng thời nói lên quan điểm đạo đức, quan niệm về công lý
xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
1.1.1.2 Các tác phẩm truyện truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam
Theo tác giả cuốn Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - Những vấn đề văn
xuôi tự sự, truyện truyền kỳ Việt Nam ra đời từ thế kỷ X và tồn tại, phát triển trong
thời kỳ trung đại đã tạo nên diện mạo riêng mang bản sắc văn hóa dân tợc. Trải qua
ba giai đoạn phát triển (từ thế kỷ X - thế kỷ XIV, thế kỷ XV - thế kỷ XVII, thế kỷ
XVIII - thế kỷ XIX), truyện truyền kỳ Việt Nam có những đặc điểm khác biệt về
nợi dung phản ánh và hình thức thể hiện. Việc nghiên cứu truyện truyền kỳ qua các
giai đoạn phát triển có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ với giới nghiên cứu nói chung
mà cịn có vai trị lớn đối với giáo viên và học sinh trong quá trình khám phá đặc
trưng của thể loại này.
Giai đoạn từ thế kỷ X - thế kỷ XIV: Truyện truyền kỳ chưa tách khỏi văn
học dân gian và văn học chức năng. Các tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ này là Việt
điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, Thiền uyển tập anh ngữ lục (khuyết danh), Lĩnh
Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp,... đều ghi chép về con người và sự việc có
trong đời sống thực nhưng đã được tô đậm mang màu sắc huyền bí linh thiêng.
Mục đích là nêu cao, ca ngợi những tấm gương sáng để khẳng định sức mạnh dân
tộc và phản ánh đời sống tâm linh của người Việt. Nội dung của truyện có yếu tố
hoang đường kỳ ảo nhưng xây dựng trên cơ sở cái nền của hiện thực. Yếu tố hoang
đường kỳ ảo có vai trị phục vụ cho nhu cầu nhận thức c̣c sống có tính chất thần
linh tôn giáo. Truyện giai đoạn này gắn kết chặt chẽ các yếu tố thần thoại, truyền
thuyết và lịch sử.
Giai đoạn từ thế kỷ XV - thế kỷ XVII: Giai đoạn truyện truyền kỳ phát
triển rực rỡ. Với tập truyện Thánh Tông di thảo và đặc biệt là Truyền kỳ mạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





18

lục, Lê Thánh Tơng và Nguyễn Dữ đã “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự
vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy con người làm đối tượng và trung tâm phản
ánh” [20, 19]. Truyện truyền kỳ thoát khỏi ràng buộc của văn học dân gian và
văn học chức năng. Các tác giả sáng tạo truyện mới mang bản sắc dân tợc và
hiện thực đương thời, có quy mơ phản ánh rợng lớn, số lượng tình tiết và nhân
vật phong phú. Đó là những con người với c̣c sống đời thường, là yếu tố
hoang đường kỳ ảo được sử dụng mợt cách có ý thức nhằm phục vụ cho nhu cầu
nhận thức cuộc sống thực tế của con người. Nó trở thành phương tiện nghệ tḥt
chứ khơng cịn là mục đích miêu tả.
Giai đoạn từ thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX: Truyện truyền kỳ dường như bắt
đầu bước vào thời kỳ suy thoái. Tác phẩm tiêu biểu là Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích, Tục truyền kỳ của
Đặng Trần Cơn, Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh,… Con người vẫn là đối
tượng và trung tâm phản ánh của truyện truyền kỳ nhưng phạm vi phản ánh thu
hẹp hơn, cốt truyện đơn giản, nhân vật và đề tài không còn phong phú như giai
đoạn trước. Yếu tố đặc trưng cơ bản của truyện truyền kỳ là yếu tố hoang đường
kì ảo đã nhạt dần. Nợi dung truyện xoay quanh “người thật việc thật”, bám sát
các sự kiện nhằm đáp ứng nhu cầu phản ánh hiện thực đất nước đầy biến động.
Qua ba giai đoạn trưởng thành và phát triển, truyện truyền kỳ Việt Nam
đã góp phần thể hiện đời sống, tâm hồn người Việt Nam thời trung đại và góp
phần thúc đẩy tiến trình phát triển của văn xi tự sự nước nhà.
1.1.2 Đặc điểm thể loại về nội dung của truyện truyền kỳ
1.1.2.1 Nội dung phản ánh của truyện truyền kỳ
Khi mới ra đời, truyện truyền kỳ đã phản ánh được phong phú và đa dạng

các sinh hoạt vật chất và tinh thần của dân tộc.
- Truyện truyền kỳ vạch trần sự hà khắc của xã hội phong kiến Việt
Nam: Từ thế kỷ XVI cho đến cuối thế kỷ XIX, xã hội phong kiến Việt Nam
bước vào giai đoạn khủng hoảng, suy thoái. Từ thế kỷ XVI, mâu thuẫn giai cấp
trở thành vấn đề trung tâm của lịch sử. Vấn đề con người, nhất là người bị áp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




19

bức trở thành mối quan tâm lớn nhất của xã hội. Xung đột gay gắt giữa các lực
lượng phong kiến thống trị bảo thủ, phản động với các lực lượng xã hội tiến bộ
và các tầng lớp bị trị đau khổ là xung đột cơ bản từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế
kỷ XIX. Thời kỳ này, triều đình phong kiến có những biểu hiện suy thối
nghiêm trọng mà chưa bao giờ trong văn học viết, bọn vua chúa, quan lại lại
được thể hiện một cách hèn kém và bất tài đến thế.
Điển hình trong Truyền kỳ mạn lục là Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái
Châu tái hiện cảnh chiến tranh khiến nhân dân lầm than, khổ cực. Trong xã hội hỗn
loạn ấy, nhân dân luôn bị bọn lưu manh quấy nhiễu, cướp bóc. Chuyện cái chùa
hoang ở Đơng Trào nói đến nạn trợm cướp hoặc “vào bếp để khoắng hũ rượu”
hoặc “vào buồng để ghẹo vợ con”… Ngòi bút của tác giả đặc biệt sắc sảo khi miêu
tả đám vua quan. Chuyện người tiều phu ở núi Na đã vạch trần bản chất xa xỉ và sự
bạo ngược hà khắc của một hôn quân “ông ấy là người dối trá, tính nhiều tham dục
(…) phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất
bùn, hình phạt có của đút là xong, quan chức có tiền là mua được, kẻ dâng lời ngay
thì phải giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng, lịng dân đợng lay…Vậy mà các kẻ
đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết”. Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang
tố cáo Trần Đế Phế chỉ “lẩn quẩn ở công việc săn bắn”, “quanh đầm mà vây, bọc

núi mà đốt”, “đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân không phải thời, dầy
trên lúa để thoả cái ham thích săn bắn khơng phải chỗ”. Nói về bọn tham quan ô
lại, Nguyễn Dữ dựng lên những nhân vật gian ác, hiểm độc. Lý Hữu Chi trong
Chuyện Lý tướng quân là một tên quan ỷ thế lộng hành, đè nén nhân dân càng về
sau hắn càng “làm những sự dâm cuồng, chém giết khơng kiêng dè gì cả”. Tên trụ
quốc họ Thân (Chuyện nàng Tuý Tiêu) thì dâm bạo, bất nhân, nham hiểm, thâm
đợc, vì hắn có “uy thế rất lớn, các toà, các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút
khơng dám xét xử”. Có thể thấy bản chất xấu xa của vua quan phong kiến đương
thời đã được phản ánh trong tập truyện như mợt tình trạng phổ biến.
Như vậy, qua Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã bộc lộ thái độ nghi ngờ
và phủ nhận vai trị của nhà nước pháp quyền phong kiến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20

- Truyện truyền kỳ ca ngợi ngƣời trí thức phong kiến: Qua việc
nghiên cứu tiểu sử các tác giả truyền kỳ, chúng ta thấy trí thức đa phần là người
học rộng tài cao, am tường sách vở lại thấu hiểu cuộc sống quan trường và cuộc
sống đời thường. Các tác giả viết về đề tài này cũng như viết về chính bản thân
họ nên nợi dung thể hiện thường phong phú và sâu sắc.
Viết về tầng lớp trí thức, trong Thánh Tơng di thảo, Lê Thánh Tơng xây
dựng hình ảnh những con người say mê lý tưởng, dấn thân trên con đường cơng
danh, khoa cử. Điển hình như Chu Sinh (Duyên lạ nước hoa), người học trò
(Chuyện người trần ở thuỷ phủ),…
Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục xây dựng trí thức là những người trọng
nghĩa khí, coi thường danh lợi. Một phẩm chất cao quý nữa của họ là giàu trách
nhiệm với đời điển hình như Từ Thức (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên )...

Bên cạnh việc ca ngợi người trí thức phong kiến, cũng có những lời phê
phán thói hư tật xấu của họ. Dương Trạm nhận xét về kẻ sĩ: “ (...) hễ trượt đỗ thì
đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi
hơn cả tiền bối, chí khí ngơng ngáo, tính tình tráo trở...” (Chuyện Phạm Tử Hư
lên chơi Thiên tào).
Điểm chung của những tác phẩm viết về người trí thức phong kiến trong
Truyền kỳ mạn lục là thái độ bất hợp tác của họ đối với vương triều hiện tại, đi ra
ngoài những lý tưởng sống truyền thống của người quân tử. Họ, hoặc mang khí
khái của người quân tử, quyết tâm diệt trừ cái xấu, cái ác như Chuyện chức phán
sự Tản Viên; hoặc quay lưng lại thực tế, để thực hiện cái “chí” của kẻ sĩ trong thời
buổi rối ren, giữ lấy cái thiện cho mình như Chuyện người tiều phu ở núi Na,
Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang; hoặc là sống cho những khát vọng, nhu cầu
của cá nhân như phần nào thể hiện trong Chuyện kỳ ngợ ở Trại Tây; hoặc là tìm
kiếm về lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc như Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên...
- Truyện truyền kỳ phản ánh cuộc sống và khát vọng của con ngƣời
bình dân: Với Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ hướng ngòi bút vào phản ánh số
phận người bình dân, trong đó chủ yếu là những bi kịch của người phụ nữ. Họ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21

đối tượng đáng thương phải chịu nhiều áp bức. Tư tưởng trọng nam khinh nữ và
những quy định của lễ giáo phong kiến trói ḅc họ vào mọi kỷ cương, phép tắc.
Với Nguyễn Dữ, hạnh phúc gia đình là vấn đề quan tâm lớn và niềm
khát khao hạnh phúc gia đình đã trở thành chủ đề chính trong nhiều sáng tác
của ông. Mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc với các thế lực tàn bạo của xã
hợi chính là “hạt nhân nghệ thuật” của những truyện này. Người phụ nữ vì

chiến tranh phong kiến tàn khốc mà phải chịu thiệt thịi, khổ sở (Chuyện Lệ
Nương); vì kẻ quyền thế đợc ác, xảo trá mà phải chịu cảnh “rẽ thuý chia uyên”
(Chuyện nàng Tuý Tiêu); vì nam quyền phong kiến mà phải chịu oan ức
(Chuyện người thiếu phụ Nam Xương)... Tiêu biểu phải kể đến Chuyện nghiệp
oan của Đào thị, vấn đề quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con
người được đặt ra gay gắt và quyết liệt hơn bao giờ hết. Theo tác giả Nguyễn
Phạm Hùng thì “Đào Hàn Than (…) hơn mọi phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục,
tập trung cao nhất những nỗi đau khổ của mọi kiếp người bé nhỏ, không
phương tự vệ, trong cái xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công mà Nguyễn Dữ
thấy được” [12, 498].
Theo Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Dữ đã gửi lại cho người đời sau bức
thông điệp: “Ở thời đại ơng, khơng mợt người phụ nữ nào có hạnh phúc cả dù
cho họ sống theo kiểu nào. Ngoan ngoãn thuỷ chung, làm tròn phận sự của
người con, người vợ, người mẹ như Nhị Khanh (Người nghĩa phụ ở Khoái
Châu), Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương),… hoặc “phá phách”
như Đào Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị)…” [20, 21-22].
Mợt khía cạnh nữa khi phản ánh c̣c sống của con người bình dân là các
tác giả cũng dành mối quan tâm đến chuyện tình yêu của họ. Tình u trong
truyện truyền kỳ khơng chỉ thể hiện nhu cầu khát vọng của con người mà còn thể
hiện thái độ của tác giả đối với lễ giáo phong kiến. Ở Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn
Dữ đã đề cập đến tình u với tất cả các cung bậc vốn có của nó: ngọt ngào, hạnh
phúc nhưng cũng có cả đau khổ, bất hạnh. Những mối tình ấy có khi là tình yêu
lành mạnh phù hợp với tình cảm đẹp đẽ và đạo đức cao quý của nhân dân (thuỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




22


chung, đảm đang, tiết nghĩa của Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam
Xương hay của Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khối Châu), nhưng
có khi lại là sự si mê, nhiều khi mang lạc thú bản năng (Chuyện cây gạo, Chuyện
kỳ ngộ ở Trại Tây,...) Tuy nhiên, tình u, hạnh phúc gia đình ở đây ln bị đe
doạ bởi các thế lực tàn bạo của xã hội. Nàng Tuý Tiêu bị kẻ quyền thế độc ác, xảo
trá ám hại mà phải chịu cảnh “rẽ thuý chia uyên”; Lệ Nương khí khái, tiết liệt
cuối cùng cũng phải chịu cảnh chia lìa với chàng Phật Sinh; Vũ Thị Thiết phải
đánh đổi mạng sống của mình mới giải phóng khỏi nỗi oan khuất…
Ca ngợi người phụ nữ và tình u lứa đơi cũng chính là ca ngợi vẻ đẹp và
quyền được sống hạnh phúc của con người. Đây chính là tiếng nói lên án xã hợi
bất cơng, tàn ác, tiếng nói địi quyền sống, quyền tự do u đương và thoả mãn
nhu cầu chính đáng của con người.
1.1.2.2 Nợi dung biểu hiện của truyện truyền kỳ
Truyện truyền kỳ Việt Nam tập trung phản ánh các đối tượng: xã hội
phong kiến, người trí thức và người bình dân. Thơng qua đó, các tác giả gửi gắm
chiều sâu tư tưởng của mình về xã hợi và con người.
Thơng qua việc phản ánh xã hội phong kiến Việt Nam, tác giả truyện
truyền kỳ lên án, tố cáo xã hội đã chà đạp lên con người và bày tỏ mơ ước về
một xã hợi mới tốt đẹp, trong đó quyền sống chính đáng của con người phải
được đảm bảo.
Thông qua việc phản ánh người trí thức phong kiến, tác giả truyện truyền
kỳ muốn ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người trí thức và những cố gắng khơng
ngừng vươn lên tìm kiếm những giá trị làm người cao quý hơn, nhân đạo hơn.
Thông qua việc phản ánh con người bình dân trong xã hợi, tác giả truyện
truyền kỳ bày tỏ lịng thương cảm sâu sắc với những số phận bất hạnh, chịu
nhiều áp bức. Tư tưởng chủ đạo của truyện truyền kỳ, đặc biệt trong Truyền kỳ
mạn lục là đấu tranh cho con người, cho quyền sống của con người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





23

1.1.3 Đặc điểm thể loại về hình thức của truyện truyền kỳ

- Các yếu tố thần kỳ trong truyện: Truyền kỳ là một thể loại văn xuôi độc
đáo. Cái “kỳ” là một trong những phạm trù thẩm mỹ của mỹ học cổ điển Trung
Quốc, là đặc thù tư duy của lịch sử. “Kỳ” khơng những thể hiện trình đợ tư duy đợc
đáo của truyền thống Trung Hoa mà cịn là phương tiện tổ chức có hiệu quả trong
việc phản ánh khái quát nội dung xã hội, lịch sử rộng lớn.
Cuốn Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc đã tập hợp ý kiến của các nhà
nghiên cứu về truyện truyền kỳ nói chung và yếu tố “kỳ” nói riêng. “Kỳ” theo
Lý Ngư (đời Thanh, Trung Quốc) là sự kiện, tính cách đợc đáo, khơng tầm
thường, có ý vị trong c̣c sống. Nó được phân biệt với cái tầm thường và cái
phổ biến. Muốn đạt tới cái “kỳ” thì cái “kỳ” ấy phải xuất phát từ cơ sở hiện thực,
phải phù hợp với lơgíc của sự vật. “Kỳ” khơng phải là cái hoang đường, quái
đản. Vì thế Lý Ngư cũng khẳng định: “Phàm viết truyền kỳ, chỉ có thể nên tìm
những cái gì gần gũi ngay trước mắt, chứ khơng nên tìm ở ngồi những cái nghe
thấy, nhìn thấy”. Cũng theo Thang Hiển Tổ đời Minh, tác phẩm không phải viết
“kỳ” để mà “kỳ” mà có ngụ ý răn dạy trong chỗ “quái đản kỳ ảo”. Cái kỳ để
thêu dệt một thế giới khác đẹp đẽ, lý tưởng, để thay đổi mợt thế giới với những
hiện thực đen tối. Nó được coi là một “viễn cảnh xã hội đối lập với hiện thực
đương thời”. Vì thế những việc bàn ma, nói quỷ, viết mộng, tả thần để khúc xạ
hiện thực, gửi gắm lý tưởng, đó là đặc trưng của thể loại.
Trong văn học phương Tây, cái kỳ ảo cũng rất phổ biến, “cái kỳ ảo là một
phạm trù tư duy nghệ tḥt, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện
bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, đợc đáo... Nó có mặt trong văn
học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực - ảo, và tồn

tại độc lập, khơng hịa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng” [4,12].
Trong truyện truyền kỳ Việt Nam, các yếu tố thần kỳ cũng được sử
dụng với số lượng lớn. Theo Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (nâng cao) - tập hai
trong phần “tri thức đọc - hiểu” đưa ra nhận định: “Truyền kỳ là mợt loại
truyện ngắn, có nguồn gốc từ Trung Hoa, dùng yếu tố kỳ ảo làm phương thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




24

nghệ tḥt để phản ánh c̣c sống. Các mơ típ kỳ ảo thường gặp trong truyện
truyền kỳ là nằm mộng đi xuống âm phủ, người lấy ma, người lấy tiên, hàng
phục yêu quái, luân hồi báo ứng, tu luyện thành tiên, thi thố pháp thuật, kêu
mưa gọi gió, biến hoá khôn lường,…” [tr. 80]. Các tác giả truyền kỳ sử dụng
cái “kỳ” mợt cách có ý thức nhằm phản ánh hiện thực, phục vụ cho nhu cầu
nhận thức cuộc sống thực tế của con người. Nó chủ yếu là phương tiện nghệ
thuật mang tính đặc trưng của thể loại. Cái “kỳ” ban đầu được xem là yếu tố
xác thực phục vụ cho mục đích nhận thức c̣c sống có tính chất tôn giáo
thần linh do ảnh hưởng từ văn học dân gian nên gần gũi với cái siêu nhiên, kỳ
vĩ. Về sau cái “kỳ” được sử dụng là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng, là
hạt nhân tự sự trong kết cấu tác phẩm.
Yếu tố “kỳ” được sử dụng là mợt phương tiện nghệ tḥt và nhằm mục đích
để phản ánh hiện thực. Các tác giả lấy cái “kỳ” để phản ánh nội dung hiện thực.
Nên hai yếu tố “kỳ” và “thực” là hạt nhân cơ bản của truyện truyền kỳ. Cái “kỳ”
ban đầu nhấn mạnh đến chỗ kỳ ảo, quái lạ nhưng càng về sau càng nhường chỗ cho
yếu tố “hiện thực” và trở thành thủ pháp nghệ thuật để phản ánh hiện thực. Đến Lê
Thánh Tông và Nguyễn Dữ thì đề tài truyện truyền kỳ ngày càng mở rộng và
hướng đến những số phận, những sự kiện liên quan đến con người với những nhu

cầu và khát vọng cá nhân. Thế giới nhân vật phong phú, mở rộng. Tác giả truyền
kỳ có vai trị sáng tạo ngày càng lớn và thay thế dần cho vai trò người sưu tầm, kể
chuyện trước kia.
Như vậy, cái “kỳ” trong truyện truyền kỳ đã ngày càng được sử dụng mợt
cách có ý thức khiến việc phản ánh hiện thực ngày càng có ý nghĩa sâu sắc hơn.
Và trong nhiều trường hợp, cái “kỳ” đã nâng cái “thực” lên một cấp độ phản ánh
cao hơn chính bản thân nó.
- Cốt truyện: Truyện truyền kỳ tḥc loại hình tự sự, thể loại truyện
ngắn, cốt truyện ít sự kiện, ít nhân vật, mỗi truyện thường xoay quanh vài sự
kiện chính, chú trọng kể việc hơn là người, lấy việc biểu hiện người, răn người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




25

Mục đích chính của truyện truyền kỳ từ thế kỷ XV trở về trước là dựng lên
tấm gương có tính chất giáo huấn, minh hoạ thông qua việc ghi chép trung thành và
nguyên vẹn sự thật. Đến thế kỷ XV - XVI, cốt truyện được dụng công xây dựng
hơn, song vẫn có tính chất đơn tuyến. Chuyện người con gái Nam Xương chỉ xoay
quanh cuộc đời nàng Vũ Thị Thiết từ khi lấy chồng, tiễn chồng ra trận, sinh con,
phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ đến khi chồng trở về và nghi ngờ sự trinh
tiết của vợ dẫn đến Vũ Thị Thiết tự vẫn. Sau khi chết, nỗi oan khuất của nàng mới
được cởi bỏ.
Kết thúc truyện truyền kỳ có thể “có hậu” hoặc khơng “có hậu”. Kết thúc có
hậu như Chuyện đối tụng ở long cung, kết thúc khơng có hậu như những truyện
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Chuyện đối đáp của tiều
phu núi Na,… Có truyện kết thúc bằng bi kịch như Chuyện Lệ Nương, Chuyện

người nghĩa phụ ở Khối Châu, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị… Có truyện kết
thúc có ý vị hài hước như Chuyện cái chùa hoang ở Đông Trào.
Bố cục của truyện truyền kỳ thường có ba phần: phần mở đầu giới thiệu
đầy đủ tên họ, q qn, tính tình của nhân vật. Phần thân truyện kể về các
chuyện có nhiều yếu tố lạ lùng. Phần kết nói rõ kết cục của câu chuyện.
Dung lượng truyện không lớn nhưng truyện đã thể hiện được đặc trưng
quan trọng của mình là sự kiện tập trung, nhân vật ít. Mỗi truyện thường xoay
xung quanh mợt vài sự kiện chính, như Trương Sinh nghi oan khiến vợ chàng
phải tự vẫn; Trọng Quỳ thua bạc gán vợ; Ngô Tử Văn bất bình, ra tay trừ việc
ác… Có thể nói truyện truyền kỳ chú trọng vào việc hơn là chú trọng vào người,
lấy việc mà biểu hiện người, răn người.
- Nhân vật: thế giới nhân vật trong truyện truyền kỳ gồm thế giới nhân
vật cõi dương và thế giới nhân vật cõi âm.
Về thế giới nhân vật cõi dương: đó là những con người có số phận và đời
sống nợi tâm phong phú. Các nhân vật nữ thường chịu nhiều oan trái, trắc trở như
Vũ Thị Thiết, Nhị Khanh, Đào Hàn Than,... Các nhân vật nam thường có tính cách
và số phận riêng: có kiểu người cương trực, khảng khái, dũng cảm như Ngơ Tử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×